Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp...

22
Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luật Nguyễn Văn Lâm Khoa Lut Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 Người hướng dẫn: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế Năm bảo vệ: 2011 Abstract: Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật. Nêu và phân tích mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành và phát triển trên thế giới. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân. Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nước trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách pháp nhân của một tổ chức từ việc phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về pháp nhân. Keywords: Pháp luật Việt Nam; Pháp nhân; Hệ thống pháp luật ; Con người Content MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc tế. Chúng ta đang từng bước gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính, thuế quan…Các doanh nghiệp trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Hiện nay, khu vực kinh tế dân doanh là khu vực phát triển nhanh nhất và tạo ra công ăn việc làm mới nhiều nhất cho nền kinh tế, và sẽ là động lực chủ yếu và bền vững cho tăng trưởng dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh nói riêng và chủ thể các quan hệ pháp luật nói chung sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế. Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể là pháp nhân. Pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập với các chủ thể khác và thành viên của pháp nhân, pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời sống xã hội và hoạt động lập pháp. Ngày nay, các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể

Transcript of Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp...

Page 1: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan

hệ pháp luật

Nguyễn Văn Lâm

Khoa Luật

Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số: 60 38 01

Người hướng dẫn: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế

Năm bảo vệ: 2011

Abstract: Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ pháp luật,

chủ thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật. Nêu và phân tích

mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành và phát triển trên thế giới. Nghiên cứu

cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào quyền tự do ý chí

và quyền tự do lập hội của công dân. Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp

nhân của các nước trên thế giới và quá trình du nhập vào Việt Nam. Đánh giá thực

trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách pháp nhân của một tổ chức từ việc

phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Kiến nghị

một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về pháp nhân.

Keywords: Pháp luật Việt Nam; Pháp nhân; Hệ thống pháp luật; Con người

Content

MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

Việt Nam đang trên con đường phát triển và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc

tế. Chúng ta đang từng bước gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính, thuế quan…Các doanh

nghiệp trong nước đang phải đối mặt với sự cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia hùng

mạnh trên thế giới, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO.

Hiện nay, khu vực kinh tế dân doanh là khu vực phát triển nhanh nhất và tạo ra công ăn việc

làm mới nhiều nhất cho nền kinh tế, và sẽ là động lực chủ yếu và bền vững cho tăng trưởng

dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nâng cao hiệu quả của quản lý nhà

nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh nói riêng và chủ thể

các quan hệ pháp luật nói chung sẽ là một điều kiện then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát

triển nền kinh tế.

Trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật, ngoài chủ thể là thể nhân – con người

cụ thể hoặc chủ thể được coi như thể nhân còn có các thực thể pháp lý khác có tư cách chủ thể

là pháp nhân. Pháp nhân là một khái niệm để chỉ một loại chủ thể quan hệ pháp luật độc lập

với các chủ thể khác và thành viên của pháp nhân, pháp nhân ra đời đáp ứng điều kiện của đời

sống xã hội và hoạt động lập pháp. Ngày nay, các pháp nhân tham gia tích cực và là chủ thể

Page 2: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

2

chủ yếu trong các hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý của nhà nước trên cơ sở nhà nước tôn

trọng quyền tự do ý chí, tự do lập hội của công dân.

Ở Việt Nam, có thể nhận định rằng trong các quy định pháp luật hiện hành, chưa thấy

một học thuyết xuyên suốt về pháp nhân, các quy định pháp luật chưa thống nhất, thiếu lôgic,

dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn, rời rạc giữa luật chung và các luật chuyên ngành. Trong

khi đó, những người thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu pháp luật còn nhiều điểm chưa

thống nhất về các đặc trưng cơ bản làm tiêu chí để xác định tư cách pháp nhân của tổ chức,

cũng như các quyền và nghĩa vụ khi pháp nhân tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, kinh

tế, hình sự. Chế định về đại diện pháp nhân tham gia các giao dịch vẫn còn chưa rõ ràng.

Thực tế cho thấy, việc phân định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân và trách nhiệm của

những người đứng đầu pháp nhân chưa rõ ràng trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Bộ luật

dân sự được xây dựng không dựa trên nền tảng lý luận khoa học pháp lý về pháp nhân một

cách vững chắc, làm cơ sở cho việc xây dựng những luật chuyên ngành trước những đòi hỏi

của thực tiễn xã hội.

Hiện nay, các công trình nghiên cứu trong nước chưa có công trình nào tiếp cận pháp

nhân từ ý nghĩa các học thuyết pháp nhân, và mô hình pháp nhân trong các quy phạm pháp

luật. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào một hoặc vài vấn đề thực trạng pháp

luật quy định về pháp nhân, mà chưa nhìn nhận toàn diện thực trạng của pháp nhân trong hệ

thống pháp luật để tìm ra nguyên nhân tồn tại, hạn chế và có các định hướng, giải pháp hoàn

thiện cho chế định pháp nhân hiện nay.

Với mục đích tiếp cận pháp nhân trên cơ sở nghiên cứu toàn diện các mặt về lý luận

và thực tiễn quy định của pháp luật ở Việt Nam, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu vấn đề“Pháp

nhân trong hệ thống các chủ thể quan hệ pháp luật” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của

mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Chế định về pháp nhân đã được hình thành từ khá sớm trong lịch sử, và dần trở thành

nội dung quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Bên cạnh chủ thể quan hệ

pháp luật là cá nhân, pháp nhân là chủ thể do tạo ra do đòi hỏi cần đáp ứng các hoạt động của

con người khi nền kinh tế xã hội phát triển. Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về

quan hệ pháp luật, chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân làm tiền đề lý luận cho các quy

định pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn hơn.

Tình hình nghiên cứu về quan hệ pháp luật và các chủ thể quan hệ pháp luật ở nước ta

cho thấy hoạt động nghiên cứu quan hệ pháp luật nói chung chưa có nhiều và chưa mang tính

chuyên sâu. Có thể nêu lên một số tài liệu như: Chương "Quan hệ pháp luật" trong cuốn

chuyên khảo: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật của GS.TSKH Đào Trí Úc; "Quan hệ

pháp luật xã hội chủ nghĩa" của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số 12-

1996, số 2-1997; "Một số vấn đề về quan hệ pháp luật" của GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Tạp

chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 2-1999; "Sự kết hợp các lợi ích xã hội trong

việc qui định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ pháp luật" PGS.TS Võ

Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12-2002. Năm 2010, PGS, TS Nguyễn Ngọc

Điện viết cuốn sách tham khảo về “Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự”, do nhà xuất bản chính

trị 2010 đã đưa ra các khía cạnh pháp lý của các chủ thể là cá nhân, pháp nhân, và các chủ thể

không phải là pháp nhân trong quan hệ pháp luật dân sự.

Page 3: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

3

Ngay từ thời Pháp thuộc, các nhà luật học đã nghiên cứu về các học thuyết pháp nhân,

tìm ra các đặc tính của pháp nhân. Tiêu biểu là các tác giả như: Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật

khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản; Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ

quốc gia giáo dục xuất bản. Gần đây, có các bài nghiên cứu, TS Ngô Huy Cương (2001),

Pháp nhân, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 01, năm 2001; Nguyễn Ngọc Bích- Nguyễn Đình

Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp, NXB Trí Thức 2008; Lê Việt Anh (2008),

Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, TCNCLP số 113, tháng 1/2008; TS Phạm Hồng

Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, tạp chí Luật học số 6 năm

1999; GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2009), vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp

nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 143 ngày

20/03/2009. Các công trình nghiên cứu này, đã phần nào làm rõ những vấn đề cơ bản của

pháp nhân, và những bất cập của bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, và những hoàn thiện

trong mô hình pháp nhân của công ty hợp danh.

Tuy vậy, chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, mang tính hệ

thống liên quan đến các quy định pháp luật về pháp nhân và mô hình pháp nhân trong các

quan hệ pháp luật. Vì thế, tác giả luận văn này, mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra

những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật về pháp nhân và định

hướng, đưa ra giải pháp toàn diện để hoàn thiện chế định này.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Hiện nay, pháp luật Việt Nam về pháp nhân được quy định tại các ngành luật khác

nhau, bao quát các quan hệ pháp luật trong đời sống xã hội. Vì thế, khi nhắc đến pháp nhân

với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật người ta thường nhắc đến đầu tiên trong pháp luật dân

sự theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật kinh doanh, thương mại; bên cạnh đó, là những lĩnh

vực luật chuyên ngành điều chỉnh quan hệ pháp luật của chủ thể pháp nhân mang tính đặc thù

hơn. Ngoài ra, pháp nhân trong lĩnh vực công cũng chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, của lĩnh

vực luật hành chính.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý của mô hình

pháp nhân trong lĩnh vực tư hay còn gọi pháp nhân tư pháp, bởi pháp nhân tư pháp tham gia

vào hầu hết các quan hệ xã hội và góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội hiện

đại ngày nay. Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến vấn đề của các pháp nhân công pháp

chỉ với mục đích đơn thuần nhằm làm rõ thêm thực trạng pháp luật của Việt Nam về pháp

nhân.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận, dựa trên những chủ trương, đường lối và

chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn

đặt mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về các học thuyết về pháp nhân với tư cách là chủ

thể của quan hệ pháp luật trên cơ sở tôn trọng quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của

công dân. Nêu toàn diện thực trạng của pháp luật hiện nay, và những định hướng, giải pháp

hoàn thiện quy định pháp luật về chế định pháp nhân.

Bởi mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến quan hệ pháp luật, chủ

thể quan hệ pháp luật và các loại hình chủ thể quan hệ pháp luật;

Page 4: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

4

- Nêu và phân tích mô hình học thuyết về pháp nhân đã hình thành và phát triển

trên thế giới.

- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành và phát triển pháp nhân căn cứ vào

quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội của công dân;

- Phân tích khái niệm, đặc điểm và phân loại pháp nhân của các nước trên thế

giới và quá trình du nhập vào Việt Nam.

- Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về pháp nhân và tư cách pháp nhân

của một tổ chức từ việc phân tích và đối chiếu các văn bản pháp luật và quá trình thực thi

pháp luật.

- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp

luật về pháp nhân.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp luận của triết

học Mác - Lênin; Lý luận chung về nhà nước - pháp luật; các quan điểm của Đảng và tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chủ yếu là: phân tích tài

liệu, tổng hợp và phân tích thực tiễn chứng minh cho lý luận, bên cạnh đó, luận văn còn sử

dụng phương pháp của luật so sánh. Và các phương pháp nghiên cứu riêng biệt của khoa học

pháp lý: phân tích quy phạm, phân tích hệ thống, so sánh pháp luật….

6. Những đóng góp của luận văn

Những đóng góp của luận văn gồm có:

Một là, về lý luận: luận văn nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về quan hệ pháp

luật, chủ thể quan hệ pháp luật và phân loại các chủ thể quan hệ pháp luật. Nêu và phân tích

các học thuyết về pháp nhân làm tiền đề cho sự ra đời và phát triển trên thế giới, qua đó, thấy

được sự cần thiết của mô hình pháp nhân trong đời sống pháp luật của mỗi quốc gia. Tác giả

cũng đã phân tích những nền tảng lý luận của việc ra đời và phát triển pháp nhân căn cứ vào

tự do ý chí và tự do lập hội của công dân.

Hai là, về thực tiễn: Thực trạng quy định pháp luật về pháp nhân trong Bộ luật dân sự,

và các luật chuyên ngành về các dấu hiệu của nhận biết pháp nhân; quá trình thành lập, hoạt

động và chấm dứt pháp nhân. Hơn hết, tác giả tập trung phân tích tổng hợp hệ thống các văn

bản quy phạm pháp luật để tìm ra thực trạng và các nguyên nhân dẫn của những tồn tại hiện

nay.

Ba là, về định hướng hoàn thiện: luận văn này đưa ra các cơ sở hình thành các định

hướng và giải pháp toàn diện nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chủ thể quan hệ pháp

luật nói chung và pháp nhân nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao

gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật và pháp nhân

Chương 2. Thực trạng hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật về pháp nhân ở Việt Nam

Page 5: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

5

Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật về pháp nhân

ở Việt Nam

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

VỀ CHỦ THỂ QUAN HỆ PHÁP LUẬT VÀ PHÁP NHÂN.

1.1 Khái niệm và nội dung quan hệ pháp luật

Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý cần thiết cho tất cả những quan hệ xã hội được

pháp luật điều chỉnh. Quan hệ pháp luật thể hiện mối liên hệ đặc biệt giữa các chủ thể, mối

liên hệ thông qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Trong quan hệ pháp luật dân sự, giao dịch

dân sự là hành vi pháp lý có ý thức thể hiện ý chí của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự

nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Giao dịch dân sự là một trong

những căn cứ quan trọng và phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự.

Quyền pháp lý của chủ thể là khả năng xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ được

quy phạm pháp luật quy định và được bảo vệ bởi sự cưỡng chế của quyền lực nhà nước.

Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật là cách xử sự bắt buộc được quy

phạm pháp luật xác định trước mà một bên phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền

chủ thể của bên kia.

1.2 Các vấn đề cơ bản về chủ thể quan hệ pháp luật

Mỗi ngành luật trong hệ thống pháp luật của quốc gia được xác định bởi những tiêu

thức như đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và chủ thể điều

chỉnh.

Năng lực pháp luật của chủ thể là năng lực (khả năng) do quy phạm pháp luật quy

định của chủ thể có các quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý để trở thành các chủ thể của

quan hệ pháp luật.

Năng lực hành vi của chủ thể là năng lực (khả năng) của chủ thể bằng chính hành vi

của mình, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý, tham gia vào các quan hệ pháp

luật.

Cá nhân

Cá nhân (thể nhân) được hiểu là con người cụ thể, là thành viên của xã hội loài người.

Về mặt vật chất, con người là một thực thể sống, có hình hài cụ thể và có mối quan hệ mật

thiết với các cá thể người khác. Trong xã hội, cá nhân là chủ thể của các quan hệ phát sinh

trong quá trình hoạt động, phát triển của mình. Đó là hoạt động mang tính ý thức của con

người trong khuôn khổ đời sống xã hội.

Pháp nhân

Pháp nhân là tổ chức được thừa nhận là chủ thể quan hệ pháp luật. Sự xuất hiện của

pháp nhân là sự tuân theo xu hướng nhân hóa những đoàn thể cá nhân hay các tập hợp tài sản

này với những người thường và công nhận cho các thực thể ấy một nhân cách pháp lý gọi là

pháp nhân.

Hộ gia đình

Page 6: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

6

Pháp luật Việt Nam định nghĩa Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng

đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một

số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ

dân sự thuộc các lĩnh vực này (điều 106).

Tổ hợp tác

Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban

nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để

thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể các

quan hệ dân sự.

1.3 Khái niệm pháp nhân và đặc trƣng của pháp nhân

1.3.1 Khái niệm pháp nhân

Pháp nhân là một thực thể, khác với một tự nhiên nhân, có đời sống đầy đủ trong sự

dự liệu pháp lý rằng nó có thể thực hiện chức năng một cách hợp pháp, có thể bị kiện hoặc tha

kiện và có thể quyết định thông qua các đại lý như trong trường hợp của các công ty.

Giáo sư Jean Claude Ricci chỉ ra vai trò của pháp nhân có hai lợi ích cơ bản sau đây:

- Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa.

Pháp nhân cho phép đơn giản hóa các quan hệ pháp luật.

- Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài.

Đây là một yếu tố hết sức quan trọng.

1.3.2 Nội dung các học thuyết về pháp nhân

Học thuyết pháp nhân là một hư cấu pháp lý (học thuyết cổ điển): Theo thuyết này,

ngoài người thường mà người ta gọi là thể nhân, các chủ thể quyền lợi khác chỉ là những

quyền lợi giả tạo, do luật pháp tạo ra. Tất cả các pháp nhân đều do ý chí nhà lập pháp mà có.

Học thuyết phủ nhận pháp nhân: Quan điểm này cố gắng chứng minh ai là người cuối

cùng thu được lợi nhuận từ các quan hệ pháp lý và đi tới kết luận ngoài thể nhân, không tồn

tại bất cứ một chủ thể nào khác, từ đó không công nhận pháp nhân là chủ thể của các quan hệ

pháp luật.

Học thuyết thừa nhận tính cách thực sự của pháp nhân: Theo học thuyết này, các pháp

nhân không do các quốc gia hay quyền lập pháp tạo lập ra được. Quốc gia chỉ chứng nhận và

kiểm soát các pháp nhân ấy mà thôi.

1.3.3 Đặc trưng của pháp nhân:

Tên gọi; Trụ sở của pháp nhân; Quốc tịch của pháp nhân; Cơ quan điều hành của pháp

nhân; Tài sản của pháp nhân; Năng lực pháp luật của pháp nhân; Nguyên tắc tách bạch về tài

sản và tính chịu trách nhiệm của pháp nhân

1.3.4 Phân loại pháp nhân

Phân loại pháp nhân theo luật một số nước trên thế giới

Theo truyền thống, các nước thường phân biệt giữa pháp nhân công pháp và pháp

nhân tư pháp để áp dụng luật công và luật tư tương ứng. Việc phân biệt như vậy dẫn đến hàng

loạt các hệ quả khác nhau trong việc quy định về thành lập và quản lý pháp nhân.

Page 7: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

7

Một số nước có cách phân loại khác, theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan,

pháp nhân được phân loại thành sáu nhóm: Những đối tượng sau đây là pháp nhân: 1. Những

tổ chức công; 2. Tu viện; 3. Những hội có đăng ký; 4. Những công ty trách nhiệm hữu hạn; 5.

Các hiệp hội, đoàn thể; 6. Những quỹ được cấp phép (Điều 72).

Phân loại pháp nhân theo pháp luật Việt Nam

Theo pháp luật Việt Nam, tuy không thể hiện rõ quan điểm phân loại pháp nhân thành

pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp, nhưng những quy định của pháp luật cho thấy

rằng, nhà làm luật đã gián tiếp thu nhận cách phân loại phổ biến này.

1.3.5 Thành lập và chấm dứt của pháp nhân

Pháp nhân trong lĩnh vực công có thể được thành lập trong khuôn khổ xây dựng và

hoàn thiện hoàn thiện bộ máy nhà nước hoặc theo ý chí của các chủ thể của quyền và nghĩa vụ

được luật thừa nhận. Trong đó, pháp nhân thành lập trên cơ sở quyết định của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền để thực hiện các chức năng, thẩm quyền của mình do Hiến Pháp, các luật

chuyên ngành điều chỉnh.

Pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau đây: a) Hợp nhất, sáp nhập, chia, giải

thể pháp nhân; b) Pháp nhân bị phá sản.

1.4 Nền tảng lý luận cho sự ra đời và phát triển của pháp nhân

1.4.1. Quyền tự do ý chí

Các học giả thường xem xét tự do ý chí trên ba phương diện: Về mặt triết học, học

thuyết tự do ý chí dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc

làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ; Về mặt đạo đức, học thuyết tự do ý

chí dựa trên quan niệm rằng không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà

không xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được

hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết; Về mặt kinh tế, học thuyết tự do ý chí dựa

trên nhận định rằng, lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế.

Tự do ý chí là khuynh hướng phát triển của xã hội, và là nền tảng xây dựng một nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1.4.2 Quyền tự do lập hội

Trên cơ sở nguyên tắc tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu

cầu của mình về tự do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người.

Quyền tự do thành lập nghiệp đoàn và tham gia nghiệp đoàn (theo nội quy và điều lệ),

để bảo vệ và gia tăng quyền lợi kinh tế và xã hội của mình. Sự hành xử quyền này chỉ có thể

bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu sinh hoạt trong một xã hội dân chủ để bảo vệ an ninh quốc

gia, trật tự công cộng, hay sự hành xử quyền tự do của người khác (điều 8).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua các nghiên cứu tại chương 1, tác giả rút ra một số kết luận sau:

1. Sự ra đời, phát triển pháp nhân là một tất yếu khách quan mang tính lịch sử của

quá trình phát triển nền kinh tế thị trường tại các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc

Page 8: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

8

tự do ý chí, con người luôn đòi hỏi xã hội đáp ứng những nhu cầu của mình về tự do ý chí, tự

do lập hội và tự do kinh doanh đảm bảo quyền con người. Bản chất pháp lý của việc hình

thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng lập nhằm tạo ra một thực thể

tách biệt với những thành viên sáng lập ra, nhằm đạt được mục tiêu chung mà các sáng lập

viên xác định khi giao kết hợp đồng. Có thể thấy, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống

pháp luật được đơn giản hóa.

2. Tiêu chí phân loại pháp nhân theo quy định của pháp luật các nước trên thế giới

có nhiều khác nhau, nhưng có thể thấy cách phân loại thành pháp nhân công pháp và pháp nhân

tư pháp là phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, các nhà lập pháp không thể hiện rõ quan điểm

phân loại thành pháp nhân công pháp và pháp nhân tư pháp, nhưng những quy định của pháp

luật cho thấy rằng đã gián tiếp thu nhận cách phân loại phổ biến này.

3. Pháp nhân hình thành trên cơ sở nguyên tắc tách bạch về tài sản của pháp nhân

với tài sản chủ sở hữu hoặc cộng đồng sở hữu trong các quan hệ tài sản mà pháp nhân là chủ

thể quan hệ đó. Pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ

tài sản mà pháp nhân tham gia. Trong khi đó, chủ sở hữu của pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm

hữu hạn trong phần góp vốn vào pháp nhân. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, đó là

thành viên của pháp nhân sẽ chịu trách nhiệm vô hạn với nghĩa vụ của pháp nhân. Trong đặc

thù luật Việt Nam, Công ty Hợp danh thuộc trường hợp này.

4. Pháp nhân có thể hình thành trên cơ sở quyết định thành lập (pháp nhân công),

hoặc trên cơ sở thỏa thuận bằng một hợp đồng thành lập (pháp nhân tư pháp) của các sáng lập

viên. Mục tiêu hoạt động của pháp nhân có thể vì mục đích lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận.

Pháp nhân không phải là con người tự nhiên, không có đời sống tâm lý và sinh lý, không có

nhận thức và tất nhiên cũng không có những hoạt động ý thức giống như con người.

5. Các tổ chức có tư cách pháp nhân có tài sản riêng, phân biệt với tài sản của các

thành viên sáng lập nên và được đặc trưng bởi tên gọi, trụ sở, quốc tịch và năng lực chủ thể

khi tham gia các quan hệ pháp luật.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN Ở VIỆT NAM

2.1 Lịch sử phát triển chế định về pháp nhân trong pháp luật Việt Nam

Ở Việt Nam, có lẽ pháp nhân được biết đến đầu tiên là khi người Pháp và người Tây

Ban Nha được phép kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở Hòa ước năm Nhâm Tuất do nhà

Nguyễn, Pháp và Tây Ban Nha ký ngày 9 tháng 5 năm 1862, và Bộ luật Thương mại (1807),

Luật công ty TNHH (1925) của Pháp được các Tòa án Nam kỳ và Tòa án Pháp ở các thành

phố thuộc địa áp dụng trực tiếp.

Điều 34 Luật thương mại Trung phần quy định rằng các hội buôn thành lập theo đúng

thể thức quy định trong bộ luật ấy đều có tư cách pháp nhân. Đến năm 1931, Bộ dân luật Bắc

Kỳ quy định về pháp nhân, bắt buộc các người sáng lập phải đệ nạp các điều lệ trong ấy ấn

định rõ cách thức phân chia khi hiệp hội giải tán.

2.2 Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về các loại chủ thể quan hệ pháp

luật

2.2.1 Thực trạng phân loại các chủ thể quan hệ pháp luật

Page 9: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

9

Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, ngoài hai chủ thể cơ bản là cá nhân và pháp

nhân còn có hai chủ thể đặc biệt là hộ gia đình và tổ hợp tác. Hiện nay, pháp luật dân sự ở

Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về hộ gia đình, điều kiện trở thành thành viên của hộ

gia đình và các mối liên hệ cần thiết để tạo lập nên hộ gia đình.

2.2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể quan hệ pháp luật

Thực tế cho thấy, ngoài những chủ thể được xác định là pháp nhân, chúng ta còn quy

định các chủ thể khác nhưng địa vị pháp lý của nó không được được làm rõ.

Thứ nhất: Trường hợp về Hộ gia đình, UBND có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho Hộ gia đình, nhưng khi được hỏi hộ gia đình là những ai. Căn cứ pháp

lý nào xác lập quyền sử dụng đất cho những người trong hộ gia đình.

Thứ hai, Chủ hộ là đại diện cho hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung

của hộ. Tuy nhiên, không có tiêu chí nào để xác định một người là chủ hộ.

Thứ ba, Về tài sản của hộ gia đình chưa có quy định cụ thể các thành viên trong hộ gia

đình có quyền có tài sản riêng hay không.

Thứ tư, Bộ luật dân sự 2005 chưa đưa ra khái niệm hộ gia đình với tư cách là chủ thể quan

hệ pháp luật đân sự mà chỉ mới nêu một số trường hợp nhất định mà hộ gia đình là chủ thể khi

tham gia quan hệ pháp luật dân sự.

Thứ năm, Khi xác định tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thì tổ hợp tác

không phải là cá nhân và cũng không phải là pháp nhân, để xác định trách nhiệm pháp lý là

không rõ ràng gây ra nhiều khó khăn trong áp dụng pháp luật.

2.3 Thực trạng mô hình pháp nhân trong pháp luật Việt Nam

2.3.1 Mô hình pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự 2005

Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá

nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong

các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Trong BLDS,

điều 84 quy định về điều kiện công nhận là pháp nhân:

Điều kiện thứ nhất, được thành lập hợp pháp. Bộ luật dân sự không quy định trực tiếp

về điều kiện đảm bảo tính hợp pháp của một tổ chức, và chúng ta cũng khó có thể tìm được

một văn bản nào đó trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện này, mặc dù

nguyên tắc đảm bảo quyền tự do lập hội cần phải được tôn trọng.

Điều kiện thứ hai, Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Một pháp nhân có cơ cấu tổ chức như

thế nào được coi là chặt chẽ, và cần có tiêu chuẩn nào, ví như “Câu lạc bộ là một tổ chức xã

hội - nghề nghiệp, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và tài khoản tại ngân hàng. Hoạt

động của Câu lạc bộ theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và tự chịu

trách nhiệm trước pháp luật” theo quy định Câu lạc bộ cũng là pháp nhân.

Điều kiện thứ ba, Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm

bằng tài sản đó. Chính các nhà làm luật cũng vẫn còn lúng túng về điều kiện này, khi mà Luật

doanh nghiệp 2005 quy định công ty hợp danh là pháp nhân.

Page 10: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

10

Điều kiện thứ tư, Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc

lập. Quy định này không mang tính là điều kiện để công nhận tư cách pháp nhân cho một tổ

chức.

2.3.2 Mô hình pháp nhân theo Luật doanh nghiệp 2005

Khi đối chiếu các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 với quy định tại Bộ luật dân

sự 2005, cho thấy việc quy định tư cách pháp nhân còn nhiều vấn đề tranh luận, chưa thống

nhất.

Lý giải về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh, các nhà luật học cho rằng:

Thứ nhất, khó có thể chứng minh được việc thừa nhận tư cách pháp nhân của Công ty

hợp danh là mâu thuẫn với Bộ luật Dân sự. và giả thiết như điều đó được chứng minh, thì

cũng không có ảnh hưởng gì về lý luận pháp lý.

Thứ hai, Rõ ràng, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý

chí và trách nhiệm.

Thứ ba, về tính chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên công ty, mặc dù tất cả các

công ty đều được coi là pháp nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là các nghĩa vụ của pháp

nhân chỉ được thanh toán bằng tài sản riêng của chính nó, cũng không có nghĩa là các thành

viên của pháp nhân đều được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn.

Thứ tư, Công ty hợp danh là công ty trách nhiệm vô hạn, có tư cách pháp nhân.

Thứ sáu, theo quy định của điều 132 luật doanh nghiệp 2005 về tài sản của công ty

hợp danh đương nhiên được coi là một chủ thể độc lập mà không phải là thể nhân, vậy nó chỉ

có thể là pháp nhân.

Thứ bảy, tư cách pháp nhân của công ty hợp danh phải xuất phát từ vấn đề trách nhiệm

tài sản của công ty cũng như của thành viên công ty. Tài sản độc lập không đồng nghĩa với

trách nhiệm hữu hạn.

2.4 Thực trạng pháp luật về thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân.

2.4.1 Thực trạng quy định về thành lập pháp nhân

Tuy nhiên, các văn bản dưới luật còn rải rác, tản mạng không có hệ thống, làm cho

việc thực thi gặp nhiều khó khăn; chưa nói đến những văn bản vượt qua phạm vi quy định của

luật.

Thứ nhất, thủ tục hành chính một cửa; Thứ hai, đăng ký tên doanh nghiệp; Thứ ba,

đăng ký ngành nghề kinh doanh; Thứ tư, mạng thông tin về đăng ký kinh doanh; Thứ năm,

quy định giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy ĐKKD; Thứ sáu, quá trình đăng ký kinh

doanh trở lên không minh bạch.

2.4.2 Thực trạng quy định về hoạt động của pháp nhân

Đối với tập đoàn kinh tế nhà nước, văn bản pháp lý cao nhất là Nghị định số

101/2009/NĐ-CP ngày 5-11-2009 về thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập

đoàn kinh tế nhà nước. Tuy nhiên, liên quan đến quản lý tài sản nhà nước trong tập đoàn kinh

Page 11: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

11

tế, trong Nghị định số 101/2009/NĐ-CP cũng có một số quy định cần nghiên cứu lại về tính

hiệu quả, tính hợp lý.

2.4.3 Thực trạng quy định phá sản pháp nhân

Luật Phá sản chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp và hợp tác xã mà không áp dụng cho hộ kinh

doanh, hộ gia đình, cá nhân. Điều này không phù hợp với pháp luật thế giới. Ở phần lớn các nước, chế

định phá sản được áp dụng đối với cả hộ gia đình, cá nhân bị khánh kiệt, chiếm một phần lớn số vụ

việc phá sản.

2.5 Thực trạng áp dụng mô hình của pháp nhân trong pháp luật chuyên ngành

2.5.1 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về tập đoàn

Theo quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, và là tập hợp của các

pháp nhân, có quan hệ kinh tế lâu dài. Tuy nhiên, hiện nay, còn rất nhiều vấn đề liên quan đến

quy định pháp luật liên quan đến Tập đoàn đang tồn tại, cụ thể:

Như vậy, giữa khoản 1 và khoản 4 Nghị định 102/2010/NĐ-CP có sự mâu thuẫn, từ

quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đã có những nhầm lẫn về tư cách pháp nhân của

tập đoàn kinh tế.

2.5.2 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về công đoàn

Theo quy định thì công đoàn cơ sở là pháp nhân. Tuy nhiên, về mặt lý luận công đoàn

cơ sở không có một số đặc tính của pháp nhân. Bộ luật tố tụng dân sự 2003, tư cách pháp

nhân của công đoàn cơ sở không được thừa nhận“Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở

có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của tập thể người lao động do pháp luật quy định”. Quy định này, mâu thuẫn với điều kiện

của pháp nhân quy định tại điều 84 BLDS “Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật

một cách độc lập”. Công đoàn cơ sở không phải là chủ thể tham gia quan hệ tố tụng để bảo vệ

các hội viên.

2.5.3 Áp dụng mô hình pháp nhân trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản

Quy định của Luật kinh doanh bất động sản bắt buộc sàn giao dịch bất động sản phải

có tư cách pháp nhân, theo tác giả là không hợp lý, bởi:

Thứ nhất, luật kinh doanh bất động sản không quy định về mô hình tổ chức của sàn

giao dịch bất động sản nào theo các loại hình công ty theo luật Doanh nghiệp và luật Hợp tác

xã sẽ không đáp ứng được các điều kiện của điều 84 Bộ luật dân sự 2005.

Thứ hai, tư cách đại diện cho Sàn giao dịch bất động sản khi tham gia các quan hệ

pháp luật, có bắt buộc người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là đại diện theo pháp

luật của Sàn giao dịch bất động sản không.

Thứ ba, về tài sản của sàn giao dịch: Điều kiện khi thành lập sàn giao dịch bất động

sản là có cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nội dung hoạt động của sàn giao dịch bất động

sản.

Page 12: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

12

Thứ tư, tính chịu trách nhiệm pháp lý của sàn giao dịch bất động sản, đặt ra câu hỏi về

việc độc lập giữa pháp nhân – Sàn giao dịch bất động sản với pháp nhân – doanh nghiệp, hợp

tác xã thành lập sàn ra sao.

2.5.4 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về Hội

Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và

quản lý hội quy định Hội có tư cách pháp nhân, trụ sở, con dấu, tài khoản và có thể có biểu

tượng riêng. Trong các dạng hình thức của hội, có quy định câu lạc bộ có tư cách pháp nhân

theo quy định của cơ quan nhà nước.

2.5.5 Áp dụng mô hình pháp nhân trong pháp luật về người tiêu dùng

Chỉ nên xem xét người tiêu dùng là cá nhân là nhóm người tiêu dùng yếu thế nhất, cần

được bảo vệ nhất – đó chính là các cá nhân tham gia mua sắm hàng hóa, dịch vụ nhằm mục

đích sinh hoạt tiêu dùng cá nhân của bản thân hoặc của gia đình mình.

2.6. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật về pháp nhân

2.6.1 Mô hình pháp nhân tuy đã được du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng mới

được quan tâm, và chú ý đến

2.6.2 Thiếu một lý thuyết lập pháp về mô hình của pháp nhân

2.6.3 Thứ ba, Chưa xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về pháp nhân

2.6.4 Thứ tư, Chưa quan niệm đúng đắn về thành lập pháp nhân

2.6.5 Thứ năm, Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, chưa thống nhất,

đồng bộ với nhau.

2.6.6 Thứ sáu: Kỹ thuật lập pháp ở nước ta còn yếu

2.6.7 Thứ bảy, Chưa xác định được vị trí của từng đạo luật trong hệ thống các

văn bản pháp luật

2.6.8 Thứ tám, Tính thiếu ổn định của hệ thống pháp luật dân sự

2.6.9 Thứ chín, Quá trình tiếp thu kinh nghiệm pháp luật nước ngoài thiếu lựa

chọn và chưa phù hợp

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Thông qua chương 2, có thể rút ra các kết luận sau:

1. Mô hình pháp nhân theo pháp luật Việt Nam chưa được định hình một cách rõ

ràng, chưa được quy định thống nhất trong các văn bản luật. Điều đó, dẫn đến những tranh

luận trong việc áp dụng pháp luật và nghiên cứu pháp luật, đã làm ảnh hưởng đến các quyền

cơ bản Hiến định của công dân và tổ chức.

2. Tuy mô hình pháp nhân được du nhập vào các văn bản của pháp luật Việt Nam

khá sớm, nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội, pháp nhân chỉ được chú trọng trong nhưng năm

gần đây (từ sau đổi mới). Chính điều đó, đã làm cho quá trình lập pháp Việt Nam bị thụ động

trước nhu cầu pháp triển của nền kinh tế, làm cho các quy định về pháp nhân đôi khi không

phù hợp, không thống nhất trong hệ thống pháp luật.

3. Những nguyên nhân dẫn đến thực trạng pháp luật về pháp nhân có thể kể đến:

1. Mô hình pháp nhân tuy đã được du nhập vào Việt Nam từ lâu, nhưng mới được quan tâm,

và chú ý đến; 2. Thiếu một lý thuyết lập pháp về mô hình của pháp nhân; 3. Chưa xây dựng

một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về pháp nhân; 4. Chưa quan niệm đúng đắn về thành lập

Page 13: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

13

pháp nhân; 5. Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp; 6. Kỹ thuật lập pháp ở Nước ta

còn yếu; 7. Chưa xác định được vị trí của từng đạo luật trong hệ thống các văn bản pháp luật;

8. Tính không ổn định của hệ thống pháp luật; 9. Quá trình tiếp thu kinh nghiệm pháp luật

nước ngoài thiếu lựa chọn và chưa phù hợp.

4. Trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và

pháp luật về pháp nhân nói riêng chưa gắn với quản lý thi hành pháp luật, do đó, khó tránh

khỏi hậu quả pháp luật xa rời thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn

khó có khả năng dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội.

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN

3.1 Cơ sở định hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân

3.1.1 Cơ sở về kinh tế - xã hội, văn hóa - đời sống

Việt Nam, nguồn gốc là một nước nông nghiệp. Nghề nông có vị trị đặc biệt quan

trọng vì lúa gạo là thực phẩm chính nôi sống những người dân. Vì vậy nghề nông được trọng

hơn nghề thương. Các hoạt động về thương mại ở Việt Nam chủ yếu vẫn diễn ra trên các chợ,

người buôn vốn liếng eo xèo “buôn thúng bán mẹt”, tổ chức sơ sài, nếu có hùn vốn cũng

mang tính nhất thời.

Trong 25 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế Việt

Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục trong nhiều năm. Nền kinh tế Viẹt

Nam đánh dấu sự hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc trơ thành thành viên cua Tô chưc

Thương mại Thế giới . Cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước đang mở ra.

3.1.2 Cơ sở của sự phát triển kinh tế xã hội đất nước

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc

đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.

Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh

bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh

và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

3.1.3 Cơ sở của xu hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật

Hiện nay, cùng với việc xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất, kinh

doanh, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò và hiệu lực của

pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập

quốc tế.

3.1.4 Cơ sở của quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Nhiệm vụ của nhà nước là phải tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh,

bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác. Xây dựng một

Page 14: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

14

khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền

và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp

dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.

3.2 Định hƣớng hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân

Định hướng thứ nhất: đảm bảo quyền tự do ý chí và tự do lập hội

Định hướng thứ hai: đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ pháp luật.

Định hướng thứ ba: hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản chất của các

học thuyết pháp nhân

Định hướng thứ tư: Xây dựng một bộ luật dân sự là nền tảng cho các luật chuyên

ngành

Định hướng thứ năm: Tăng cường tính công khai và minh bạch thông tin.

Định hướng thứ sáu: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về pháp nhân.

Định hướng thứ bảy: Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước

Định hướng thứ tám: Phát triển hệ thống cung cấp thông tin và phổ biến giáo dục

pháp luật cho các chủ thể quan hệ pháp luật.

3.3 Các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và thi hành pháp luật về pháp

nhân ở nƣớc ta hiện nay

3.3.1 Giải pháp đổi mới các quan niệm về pháp nhân

Thứ nhất, cần đưa ra định nghĩa và quan niệm pháp nhân với tư cách là chủ thể quan

hệ pháp luật thay thế cho quy định tại điều 84 về các điều kiện của pháp nhân.

Thứ hai, thay đổi nhận thức về tài sản và trách nhiệm tài sản của pháp nhân: Trong quan

niệm về pháp nhân phải có sự thay đổi, quan niệm trách nhiệm hữu hạn và trách nhiệm vô hạn

không phải là đặc trưng của pháp nhân.

Thứ ba, cần nhận thức học thuyết chi phối pháp luật dân sự về pháp nhân là học

thuyết thực tại

3.3.2 Các giải pháp về lập pháp

Thứ nhất, xây dựng mô hình hệ thống pháp luật trước khi hoàn thiện pháp luật về

pháp nhân

Thứ hai, Quy định chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm thể nhân và pháp nhân.

Thứ ba, Quy định hợp đồng thành lập pháp nhân trong Bộ luật dân sự. Xuất pháp từ

bản chất pháp lý của việc hình thành pháp nhân là quan hệ hợp đồng giữa các thành viên sáng

lập nhằm tạo ra một thực thể cụ thể để đáp ứng hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu chung

mà các sáng lập viên xác định khi giao kết hợp đồng.

Page 15: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

15

Thứ tư, Hoàn thiện các quy định pháp luật về tập đoàn kinh tế: Tập đoàn kinh tế là

một mô hình đặc thù, hiện nay, các quy định về tập đoàn đang bị hiểu sai lệch. Trong khi,

pháp luật quy định tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, mà chỉ là tập hợp của nhiều

pháp nhân độc lập với nhau theo mô hình công ty mẹ - công ty con.

Thứ năm, Tách quy định về Doanh nghiệp tư nhân trong luật danh nghiệp: Bản chất

doanh nghiệp tư nhân là chế độ cá nhân kinh doanh, thực hiện các giao dịch trên cơ sở chịu trách

nhiệm vô hạn bằng tài sản riêng của mình. Doanh nghiệp tư nhân, chỉ nên được quy định trong

luật thương mại, trên cơ sở là một thương nhân trong thực hiện cách hành vi thương mại.

Thứ sáu, Quy định pháp nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự: Hiện nay, đã

có nhiều văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến việc đấu tranh các hoạt động phi pháp xuyên

quốc gia do pháp nhân tổ chức như tội phạm về môi trường, tội rửa tiền, các tội xuyên quốc

gia khác.

Thứ bảy, Các lĩnh vực chuyên ngành khác: Các luật chuyên ngành, khi quy định về tư

cách pháp nhân của một tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực đặc thù, phải tuân thủ mô hình

pháp nhân theo Bộ luật dân sự và luật doanh nghiệp, từ đó ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật về pháp nhân thống nhất.

3.3.2 Các giải pháp về thi hành các quy định pháp luật về pháp nhân

Thứ nhất, Tổ chức hệ thống hóa quy định pháp luật về pháp nhân

Thứ hai, Hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến pháp nhân

Thứ ba, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác đăng ký kinh

doanh

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Bằng việc, nêu và phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, chúng ta

có thể thấy một bức tranh về pháp nhân mà các nhà lập pháp Việt Nam thiết kế, thi công và tô

vẽ chưa thực đảm bảo tính thống nhất, lôgic. Nguyên nhân của khiếm khuyết này có thể kể

đến là việc xây dựng các quy định mang tính trụ cột trong Bộ luật dân sự chưa có nền tảng lý

luận khoa học pháp lý vững chắc. Điều này làm cho Bộ luật dân sự - một đạo luật có vị trí, vai

trò đặc biệt trong ngành luật bị chính những người kiến tạo ra nó coi nhẹ khi xây dựng những

luật chuyên ngành trước những đòi hỏi của thực tiễn xã hội.

Trên cơ sở nhữg định hướng toàn diện: Định hướng đảm bảo quyền tự do ý chí và

tự do lập hội; Định hướng đảm bảo quyền sở hữu của các chủ thể quan hệ pháp luật;

Định hướng hoàn thiện quy định pháp luật về pháp nhân- từ bản chất của các học thuyết

pháp nhân; Định hướng xây dựng một bộ luật dân sự là nền tảng cho các luật chuyên

Page 16: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

16

ngành; Tăng cường tính công khai và minh bạch thông tin; Hoàn thiện hệ thống pháp luật

về pháp nhân; Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; Phát triển

hệ thống cung cấp thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật cho các chủ thể quan hệ pháp

luật. Đây sẽ là tiền đề để hoàn thiện chế định về pháp nhân, phải được giải quyết một cách

đồng bộ, toàn diện trên cơ sở các học thuyết, mô hình được áp dụng trên thế giới, được

chọn lọc, quy định để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam.

KẾT LUẬN

Từ các phân tích của luật văn này, cho thấy các quy định của pháp luật về pháp nhân hiện

nay vẫn tồn tại nhiều bất cập, không thống nhất, mâu thuẫn về những các điều kiện của pháp nhân

trong quy định của luật chung, và áp dụng mô hình pháp nhân trong các luật chuyên ngành. Các

nhà làm luật nước ta chưa quan tâm, và nghiên cứu các học thuyết về pháp nhân trên thế giới, để

xây dựng chế định pháp nhân một cách thống nhất, phù hợp xu hướng phát triển và pháp luật phải

tôn trọng, và bảo vệ các quyền tự do ý chí và quyền tự do lập hội công dân đã được Hiếp pháp

quy định.

Chế định pháp nhân trong pháp luật Việt Nam đang dần được hoàn thiện, đáp ứng yêu

cầu của công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế xã hội của nước ta. Hiện nay, hệ thống pháp

luật điều chỉnh về pháp nhân được quy định trong nhiều lĩnh vực pháp luật, liên quan đến đời

sống kinh tế xã hội, vì thế quá trình hoàn thiện pháp luật phải đồng bộ, thống nhất và toàn

diện trong hệ thống pháp luật quy định về pháp nhân.

Ngày nay, với một nền pháp luật hội nhập phản ánh đời sống kinh tế- xã hội của một quốc

gia, thì việc tuân thủ xu hướng, điều chỉnh pháp luật để phù hợp với những lý luận, nền tảng

chung ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ của các nhà làm luật.

Vì vậy, hoàn thiện chế định về pháp nhân dựa trên các học thuyết, mô hình pháp nhân

được áp dụng trên thế giới, được chọn lọc, quy định để phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội

của Việt Nam.

Trong quá trình hoàn thiện pháp luật, cần thiết thay đổi tư duy về tiếp nhận pháp luật

để tăng cơ hội thành công, tiếp nhận pháp luật nước ngoài phải tính đến nhiều yếu tố khác

nhau như bối cảnh, các lợi ích, sự đồng thuận. chỉ có vây, việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài

sẽ diễn ra liên tục, đáp ứng những thay đổi của thực tiễn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

ngày càng sâu rộng hơn.

References

1. Lê Việt Anh (2008), “Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh”, Tạp chí nghiên

cứu lập pháp, (113), tr. 34-40, Hà Nội.

2. Nguyễn Trần Bạt (2008), Cội nguồn cảm hứng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

3. Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2008), Công ty: vốn, quản lý và tranh

chấp, NXB Trí Thức, Hà Nội.

Page 17: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

17

4. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về Chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Nội vụ (2007), Quyết định số 412/QĐ-BNV ngày 16/5/2007, Về việc phê duyệt

bản điều lệ của câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp và UNDP (2008), Dự án VIE/94/003- Tăng cường năng lực pháp

luật tại Việt Nam – Báo cáo kiến nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế

tại Việt Nam, Hà Nội.

7. Bộ luât Dân sự và thương mại Thái Lan (1925), Các quyển I - VI theo bản dịch

năm 1995 của Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ luật Dân sự Pháp (2005), theo bản dịch năm 2006 của Nhà xuất bản tư pháp,

Hà Nội

9. Chính phủ (2010), Nghị định của Chính phủ số 43/2010/NĐ-CP ngày

15/4/2010 về đăng ký kinh doanh, Hà Nội.

10. Chính phủ (2004), Hiệp định thương mại giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại, Hà Nội.

11. Chính phủ (2009), Nghị định số 101/2009/NĐ-CP ngày 5-11-2009 về thí điểm thành

lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước, Hà Nội.

12. Chính phủ (2006), Nghị định 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật

đầu tư 2005, Hà Nội.

13. Chính phủ (2010), Nghị định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật doanh

nghiệp 2005, Hà Nội.

14. Chính phủ (2010), Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/04/2010 quy định về tổ

chức, hoạt động và quản lý hội, Hà Nội.

15. Chính phủ (2011), Nghị định 25/2011/NĐ-CP ban hành ngày 6/4/2011 quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông, Hà Nội.

16. Chính phủ Việt Nam, Chính phủ Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại giữa Cộng hoà

Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ về thương mại năm

2001, Hà Nội.

17. Ngô Huy Cương (2001), “Pháp nhân”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (01), tr

54-60.

Page 18: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

18

18. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện

nay, NXB Tư pháp.

19. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ,

Viện Nhà nước và pháp luật – Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

20. Ngô Huy Cương (2002), “Cải cách hệ thống pháp luật kinh tế: Một số vấn đề

thực tiễn và lý luận cơ bản”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (04), tr151-168.

21. Ngô Huy Cương (2009), “Khái niệm công ty hợp danh tại luật doanh nghiệp

2005”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (06), tr 23-26.

22. Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp cận tự do ý chí trong pháp luật Việt

Nam hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (117), tr11-20.

23. Nguyễn Văn Cương (2011), Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các

quốc gia trên thế giới và vấn đề xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo luật bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng, http://duthaoonline.quochoi.vn , Hà Nội.

24. Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN, http://www.nclp.org.vn, Hà Nội.

25. Bùi Ngọc Cường chủ biên (2008), Giáo trình luật thương mại – tập 2, Nhà xuất

bản giáo dục, Hà Nội

26. Diễn đàn các doanh nghiệp Việt Nam (2006), Góp ý dự thảo Bộ luật dân sự,

http://www.vibonline .com.vn, Hà Nội.

27. Đại hội đồng Liên hiệp quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn

hóa và xã hội, Liên Hiệp Quốc.

28. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2010), Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, Chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Hà Nội.

29. Đỗ Văn Đại (2005),“Cần quy định hợp lý về Công ty hợp danh”, Tạp chí nghiên

cứu lập pháp, (6), tr.52-55.

30. Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2010), Tư pháp quốc tế Việt Nam- Quang hệ dân sự,

lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Nguyễn Ngọc Điện (2010), Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, NXB chính trị

quốc gia, Hà Nội.

32. GTZ, PMRC, UNDP (2005), Nâng cao chất lượng luật kinh tế: Đánh giá nhanh

năng lực của Việt Nam và giới thiệu các thông lệ quốc tế, Hà Nội.

Page 19: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

19

33. Bùi Xuân Hải (2004), “Vài nét về các loại hình công ty theo luật công ty Úc”, Tạp

chí khoa học pháp lý, (6) tr. 23-29.

34. Phạm Hồng Hải (1999), “Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?”,

tạp chí Luật học, (6) tr.34-40.

35. Phan Huy Hồng, Lê Nết (2006), “Trách nhiệm tài sản của pháp nhân: hữu hạn hay

vô hạn”, Tạp chí khoa học pháp lý, (3), tr 22-28.

36. Lê Hồng Hạnh, Trần Thị Quang Hồng (2010), “Luật bảo vệ người tiêu dùng có

nên quy định tổ chức là người tiêu dùng?”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (20), tr24-28.

37. Nguyễn Am Hiểu (2011), Một vài vấn đề cần được nghiên cứu để xây dựng bộ

luật dân sự, Tọa đàm Bộ Tư pháp, Hà Nội.

38. Hội đồng thẩm - Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 03/2005/NQ-

HĐTP ngày 28/4/2005 Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản 2004, Hà Nội.

39. Hội đồng trọng tài kinh tế nhà nước (1975), Thông tư 525-HĐ ngày 23-6-1975 của

hướng dẫn việc thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, Hà Nội

40. Hội đồng Chính phủ (1975), Nghị định số 54/CP ngày 10/3/1975 quy định quy

cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế, Hà Nội.

41. Hội đồng bộ trưởng (1975), Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chi tiết

pháp lệnh hợp đồng kinh tế, Hà Nội.

42. Nguyễn Hồng Hải (2011), một số định hướng sửa đổi cơ bản Bộ luật dân sự năm

2005, Bộ tư pháp, Hà Nội.

43. Nguyễn Khắc Huy (2011), Về pháp nhân của tổ chức tôn giáo trong khuôn khổ

pháp luật Việt Nam hiện hành, http://btgcp.gov.vn, Hà Nội.

44. Nguyễn Mạnh Hùng (2008), Các loại hình tổ hợp tác, mối liên hệ với chính quyền

địa phương, http://www.vca.org.vn, Hà Nội.

45. Nguyễn Đức Lam (2010), Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: Nhìn từ ví dụ Luật

công ty của Nhật và Luật Doanh nghiệp của Việt Nam, http://www.nclp. org.vn, Hà Nội.

46. Francis Lemeunier (1993), nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh

doanh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. John Locke (2006), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Nxb Tri Thức, Hà Nội.

48. Khoa luật- Đại học tổng hợp Hà Nội (1993), Giáo trình lý luận chung về Nhà

nước và pháp luật, Nxb Đại học tổng hợp Hà Nội.

Page 20: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

20

49. Khoa luật –Đại học quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình lý luận chung về nhà

nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

50. Khoa Luật-ĐHQGHN (2001), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nbx Đại học

quốc gia Hà Nội.

51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật,

NXB Tư pháp, Hà Nội

52. Vũ Văn Mẫu (1957), Dân luật khái luận, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.

53. Vũ văn Mẫu (1963), Việt Nam Dân luật lược khảo Quyển 2: Nghĩa vụ và khế ước,

Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.

54. Nguyễn Hồng Nam (2009), Một vài ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung các quy định

pháp luật về sở hữu của Bộ luật dân sự, Tọa đàm tổng kết tình hình thi hành các quy định về

quyền sở hữu trong bộ luật dân sự 2005, Bộ tư pháp, Hà Nội.

55. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình luật kinh tế, tập 1: luật doanh nghiệp, NXB

đại học quốc gia Hà Nội.

56. Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo kinh tế, NXB đại học quốc gia Hà Nội.

57. Phạm Duy Nghĩa (2004), Pháp luật và những nhân tố tích cực của Nho Giáo, Nhà

xuất bản Tư pháp.

58. Phạm Duy Nghĩa, Đặng Văn Thanh, Trần Hữu Huỳnh, Nguyễn Tiến lập (2011),

Báo cáo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo yêu cầu của Nghị quyết số 48/NQ-TW,

http://sgtt.vn, TP Hồ Chí Minh.

59. Hồ Trọng Ngũ (2009), “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách nhiệm hình sự pháp

nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (6), tr27-32.

60. Trần Quang Nhiếp (2010), Nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật trên các

phương tiện truyền thông, đại chúng, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, http://www.caicachhanhchinh.gov.vn, Hà Nội.

61. Lưu Bình Nhưỡng (2006), Một số ý kiến về việc hoàn thiện luật Công đoàn trong

bối cảnh hiện nay, http://www.nclp.org.vn, Hà Nội.

62. Pierre Pescatore (1960), Nhập môn khoa học pháp luật, Office de Imprimes - trích

theo Trịnh Quốc Toản (2011), “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo luật hình sự

Luxembourg”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN- Luật học, (27), tr. 19-29.

63. Hoàng Thị Kim Quế (2007), “Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp

lý”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN- Kinh tế - Luật, (23), tr 49-56.

Page 21: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

21

64. Hoàng Thị Kim Quế (2004), “Nhận diện nhà nước pháp quyền”, Tạp chí nghiên

cứu Nhà nước, (5), tr.16-23.

65. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

66. Quốc hội (1990), Luật công ty, Hà Nội.

67. Quốc hội (1999), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.

68. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

69. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

70. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội

71. Quốc hội (2000), Luật kinh doanh bảo hiểm, Hà Nội.

72. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.

73. Quốc hội (2004), Luật phá sản, Hà Nội.

74. Quốc hội (1990), Luật công đoàn, Hà Nội.

75. Quốc hội (2005), Luật Chứng khoán, Hà Nội.

76. Quốc hội (2005), Luật kinh doanh bất động sản, Hà Nội.

77. Quốc hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội

78. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội

79. Quốc hội (2010), Nghị quyết số 48/2010/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2010 về

chương trình xây dựng luật, Hà Nội.

80. Thủ Tướng Chính phủ (2007), Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007 về

Hệ thống ngành kinh tề của Việt Nam, Hà Nội.

81. Thủ Tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 981/QĐ-TTg của Thủ tướng chính

phủ ngày 25/6/2010 về việc chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam

thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, Hà Nội.

82. Jean-Claude Ricci (2002), Nhập môn luật học - Introduction à l tude du droit,

Hachette, Nhà pháp luật Việt Pháp, Hà Nội.

83. Trần Minh Sơn (2010), Quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, trang mạng

http://www.thesaigontimes.vn, Thành phố Hồ Chí Minh.

84. Lê Tài Triển (1959), Luật Thương mại toát yếu, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản,

Sài Gòn.

85. Lê tài Triển, Nguyễn vạng Thọ, Nguyễn Tân (1973), Luật thương mại việt nam

dẫn giải, quyển 2, Kim Lai Ấn quán, Sài Gòn.

Page 22: Pháp nhân trong hệ thống các chủ thể của quan hệ pháp luậtrepository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5987/1/00050000834.pdf · Pháp nhân trong hệ thống các chủ

22

86. Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động Công ty cổ

phần, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

87. Nguyễn Minh Tuấn (2005), “Triết lý của tự do”, Tạp chí tia sáng (3), tr 43-49.

88. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

89. Đào Trí Úc (2008), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng – Những thành tựu chủ yếu và những định

hướng phát triển, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ thứ 3, Hà Nội.

90. Viện sử học - Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1977), Nông thôn Việt Nam

trong lịch sử, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

91. Xaca Vacaxum, Tori Aritdumi (2009), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật

Bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

93. Http://en.wikipedia.org/wiki/Corporation#cite_note-4