TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI - huc.edu.vnhuc.edu.vn/userfiles/assets/Luan an....
Transcript of TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI - huc.edu.vnhuc.edu.vn/userfiles/assets/Luan an....
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
**********
NGUYỄN THỊ SONG THƯƠNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ
(Qua tư liệu khảo cổ học)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2015
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
**********
NGUYỄN THỊ SONG THƯƠNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ
(Qua tư liệu khảo cổ học)
Chuyên ngành : Văn hóa học Mã số : 62310640
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Văn Cần 2. TS. Lê Thị Liên
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cần và
TS. Lê Thị Liên. Các số liệu, hình ảnh và kết quả nghiên cứu của
luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Song Thương
1
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ MIỀN TÂY NAM BỘ VÀ LỊCH SỬ
NGHIÊN CỨU VĂN HÓA ÓC EO
8 1.1. Những khái niệm liên quan đến đề tài 8 1.2. Điều kiện hình thành văn hóa Óc Eo 13 1.3. Lịch sử nghiên cứu và các dấu tích văn hóa Óc Eo 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA
CƯ DÂN ÓC EO
58 2.1. Đời sống sinh hoạt 58 2.2. Đời sống mưu sinh 78 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
CƯ DÂN ÓC EO
109 3.1. Tín ngưỡng, tôn giáo 109 3.2. Nghệ thuật 125 3.3. Phong tục, tập quán 133 3.4. Chữ viết 138 3.5. Giải trí 140 Chương 4: VĂN HÓA ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ TRONG BỐI CẢNH
GIAO LƯU VĂN HÓA VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG
144 4.1. Tây Nam Bộ và mạng lưới thương mại trên biển giai đoạn thiên niên kỷ I sau Công nguyên
144
4.2. Văn hóa Óc Eo giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa khác 146 4.3. Sự suy tàn của văn hóa Óc Eo 159 KẾT LUẬN 164 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173 PHỤ LỤC 187
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DSVH : Di sản Văn hóa
ĐSVH : Đời sống văn hóa
BTLS HCM : Bảo tàng lịch sử tại thành phố Hồ Chí Minh
BTĐT : Bảo tàng Đồng Tháp
BTAG : Bảo tàng An Giang
BTKG : Bảo tàng Kiên Giang
BTCT : Bảo tàng Cần Thơ
NPHMVKCH : Những phát hiện mới về khảo cổ học
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
TNB : Tây Nam Bộ
NXB : Nhà xuất bản
VHNT : Văn hóa Nghệ thuật
VHTT : Văn hóa Thông tin
VH, TT & DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
CTQG : Chính trị Quốc gia
KHXH : Khoa học Xã hội
HN : Hà Nội
SCN : Sau Công nguyên
TCN : Trước Công nguyên
LLCT : Lý luận chính trị
Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
PL : Phụ lục
3
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN ÁN 1.1. Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ, được giới khoa học biết đến
từ cuối thế kỷ XIX. Tên gọi của nền văn hóa này do nhà khảo cổ học người Pháp
Louis Malleret đặt ra sau cuộc khai quật vào tháng 4 năm 1944 ở cánh đồng Óc Eo
(Thoại Sơn - An Giang). Cho đến nay, hàng loạt di tích ở khắp các tỉnh TNB khác
được khai quật. Các di tích khai quật đã làm lộ diện về sự tồn tại của một nền văn hóa
khảo cổ, đều có chung đặc điểm, tính chất văn hóa với khu di tích Óc Eo (An Giang).
Văn hóa Óc Eo tồn tại trong một không gian rộng và một thời gian dài, trải
qua nhiều thời kỳ khác nhau; nó được nhìn nhận là chứng cứ vật chất của một
“vương quốc” lớn có địa vực bao trùm cả một vùng Nam Đông Dương mà thư tịch
cổ Trung Quốc gọi là “Phù Nam”. Bên cạnh đó, khu di tích Óc Eo luôn được coi
như một điểm giao hội của văn hóa Đông - Tây, là “kho” hàng hoá lớn trên con
đường thương mại quốc tế, giữa hai châu lục Âu - Á. Cho đến nay, hàng trăm di
tích Óc Eo đã được phát hiện, phân bố trên diện rộng, rộng hơn về không gian,
nhiều hơn về số lượng các di tích phát hiện trước năm 1975. Thêm vào đó, số lượng
các hiện vật đã được phát hiện, sưu tầm ngày một nhiều, hiện đang lưu giữ trong
các bảo tàng trung ương và bảo tàng các tỉnh, tiêu biểu là Bảo tàng Lịch sử Việt
Nam tại TP.HCM, BTAG, BTKG, BTCT, BTĐT, BTLA...
1.2. Các nguồn tư liệu quan trọng trên giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu
nhiều lĩnh vực khác nhau về văn hóa Óc Eo. Đến nay, đã có hàng ngàn bài viết, sách
chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị và các báo cáo khảo sát điều tra liên quan tới nền văn
hóa Óc Eo. Đây là kết quả nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nội
dung bao gồm: thông báo các phát hiện mới; tình trạng của các di tích, các loại hình
di vật phát lộ; nghiên cứu các vấn đề về nguồn gốc hình thành, sự phát triển của văn
hóa Óc Eo; các quan hệ giao lưu văn hóa và thương mại với bên ngoài... Một số khía
cạnh về đời sống văn hóa xã hội của cư dân được đề cập tới qua việc nghiên cứu các
tài liệu lịch sử và so sánh với tài liệu khảo cổ học.
4
Những thành quả này của các nhà khoa học về văn hóa Óc Eo rất đáng trân
trọng. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu nói trên mới chủ yếu là dưới góc độ các
nghiên cứu khảo cổ học. Việc tìm hiểu khối tư liệu khảo cổ học từ hướng tiếp cận văn
hóa học còn rất hạn chế. Việc nghiên cứu phạm vi phân bố, nội dung và đặc điểm,
niên đại và quá trình phát triển của các di tích, cội nguồn và truyền thống của văn hóa
Óc Eo... trong mối liên hệ với cư dân - chủ nhân của nền văn hóa này còn chưa đầy
đủ. Những vấn đề lịch sử liên hệ văn hóa Óc Eo với các thể chế chính trị đương thời
như nước Phù Nam, đến Chân Lạp... vẫn cần tiếp tục tìm tòi, lý giải, minh định.
Trong đó, vấn đề mối quan hệ giữa con người với dấu tích văn hóa mà cư dân Óc Eo
để lại; vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị DSVH đó trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế đang là những vấn đề có ý nghĩa khoa học
và thực tiễn nhất cần được làm sáng tỏ.
Với những lý do trên, tác giả mong muốn sẽ có những khám phá, cách tiếp
cận mới về văn hóa Óc Eo ở TNB.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các mặt đời sống văn hóa (đời sống vật chất và đời sống tinh
thần) của cư dân Óc Eo ở miền TNB thông qua việc phân tích, diễn giải các nguồn
tư liệu khảo cổ học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các tư liệu và kết quả nghiên cứu văn hóa Óc Eo cả về mặt
khảo cổ lẫn các nghiên cứu của các học giả trong cũng như ngoài nước, nhằm cung
cấp cho các nhà khoa học nguồn tư liệu cập nhật về văn hóa Óc Eo.
- Trên cơ sở nguồn tư liệu văn hóa Óc Eo, luận án hướng tới việc phân định
các di tích di vật là minh chứng cho đời sống văn hóa xã hội Óc Eo. Từ đó, tìm hiểu
đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Óc Eo trong khung cảnh chung của quá
trình phát triển từ giai đoạn tiền - sơ sử lên hình thức tổ chức nhà nước ở miền
TNB; tìm hiểu sự biến đổi văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB trong quá trình
giao lưu thương mại với các nền văn minh khác, nhằm xác định những nét đặc
trưng của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
5
- Bằng phương pháp tiếp cận văn hóa học, công trình làm rõ những khía
cạnh đời sống văn hóa xã hội của cư dân Óc Eo ở miền TNB, góp phần nâng cao
nhận thức về đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở một giai đoạn lịch sử quan trọng
của vùng đất này.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các tư liệu khảo cổ học, bao gồm các di
tích trọng điểm, các sưu tập hiện vật trong các bảo tàng, các bài báo cáo khảo cổ
học, các công trình nghiên cứu di tích, di vật dưới góc độ khảo cổ học…
- Bên cạnh đó, các tư liệu thành văn như: thư tịch cổ và các công trình
nghiên cứu có liên quan đến đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB là
những tài liệu bổ trợ, soi rọi thêm cho tư liệu khảo cổ học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Dấu vết của văn hóa Óc Eo được phát hiện trong phạm vi
rất rộng, bao trùm hầu hết các tỉnh Nam Bộ. Trong luận án này, tác giả sẽ tập trung
nghiên cứu các khía cạnh đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở các tỉnh miền TNB,
bao gồm các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng
Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu,
trong đó, tập trung ở ba tỉnh có các di tích văn hóa Óc Eo tiêu biểu nhất là: An
Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang.
- Về thời gian: Việc phân kỳ các giai đoạn của văn hóa Óc Eo còn chưa
được giải quyết triệt để cho nên luận án tập trung tìm hiểu văn hóa Óc Eo chủ yếu ở
giai đoạn từ khoảng thế kỷ II đến thế kỷ VII, là thời kỳ hình thành rõ nét và phát
triển những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa này.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử trong nghiên cứu văn hóa quá khứ, nhằm nhìn nhận và đánh giá
khách quan, khoa học về DSVH.
4.2. Văn hóa học là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, cần được áp dụng
nhiều phương pháp và có hướng tiếp cận đa ngành và liên ngành. Tuy nhiên, các
6
phương pháp nghiên cứu được lựa chọn tuỳ vào từng đối tượng cụ thể. Do đối
tượng đặc thù của luận án là các tư liệu khảo cổ học (di tích, các sưu tập di vật trong
bảo tàng và các tư liệu viết có liên quan), luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của chuyên ngành dân tộc học, xã hội học và nhân học. Đặc biệt là sử dụng
nhân học biểu tượng vào quá trình thu thập, phân tích tư liệu. Trong đó, các phương
pháp định tính và định lượng trên cơ sở quan sát, mô tả, thống kê, chụp ảnh v.v.
được đặc biệt chú trọng.
Mặc dù phương pháp phỏng vấn không được áp dụng cho các đối tượng khảo
cổ học, tác giả luận án đã tham gia một số đợt khảo sát khảo cổ học tới các di tích và
các bảo tàng, thảo luận cùng với các nhà khảo cổ học về mối liên hệ của các bộ sưu
tập với di tích và địa tầng khảo cổ học, cũng như môi trường sinh thái cổ. Từ đó có cơ
sở để phân tích và phục dựng lại đời sống văn hóa của một xã hội nay không còn.
4.3. Trong quá trình phân tích tư liệu khảo cổ học, việc đối chiếu và so sánh
với các nguồn sử liệu và tư liệu thành văn khác được thực hiện trên cơ sở áp dụng
một số kết quả nghiên cứu đa ngành về lịch sử nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng,
phương thức sản xuất, giao lưu văn hóa … nhằm nhận ra hệ thống các hình thái
biểu thị giá trị của xã hội và cư dân Óc Eo.
5. NHỮNG KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
5.1. Luận án tổng hợp, hệ thống hoá tư liệu khảo cổ học, kết quả nghiên cứu
văn hóa Óc Eo và các nguồn tư liệu khác, nhằm cung cấp một cách cập nhật và có
hệ thống nguồn tư liệu về văn hóa Óc Eo ở TNB; giúp cho việc nhận thức nội dung
văn hóa Óc Eo ở TNB được rõ ràng hơn, nhất là lĩnh vực đời sống văn hóa - xã hội.
5.2. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu những dấu tích
khảo cổ học và các sưu tập di vật của cư dân Óc Eo được phát hiện ở miền TNB,
luận án cung cấp những kiến giải về đời sống vật chất, tinh thần và làm rõ các đặc
điểm của nó nhằm có cái nhìn khách quan, toàn diện về bức tranh văn hóa thời sơ
sử ở TNB, Việt Nam.
5.3. Bằng việc so sánh, đối chiếu với các tư liệu ở các khu vực khác, luận án
xác định những đặc trưng văn hóa của cư dân Óc Eo ở TNB và sự biến đổi đời sống
văn hóa của cư dân Óc Eo trong quá trình giao lưu với các cư dân láng giềng.
7
5.4. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu cho việc
tìm hiểu văn hóa Óc Eo ở TNB, lịch sử văn hóa miền TNB nói chung, phổ biến kiến
thức văn hóa - lịch sử Óc Eo cho nhân dân miền TNB, nhân dân cả nước và bạn bè
quốc tế, góp phần cung cấp các kiến giải và luận cứ khoa học cho việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án
được trình bày trong 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về miền Tây Nam Bộ và lịch sử nghiên cứu văn hóa
Óc Eo
Chương 2: Đặc điểm đời sống văn hóa vật chất của cư dân Óc Eo
Chương 3: Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Óc Eo
Chương 4: Văn hóa Óc Eo ở Tây Nam Bộ trong bối cảnh giao lưu văn hóa
với các nước láng giềng
8
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ MIỀN TÂY NAM BỘ
VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HÓA ÓC EO
1.1. Những khái niệm liên quan đến đề tài
Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ. Tiếp cận văn hóa Óc Eo dưới
góc độ văn hóa học, cần làm rõ một số khái niệm: Văn hóa, văn hóa khảo cổ, văn
hóa Óc Eo, đời sống văn hóa. Chúng tôi xin đề cập một cách khái lược về những
khái niệm này để làm công cụ lý luận cho nội dung luận án.
Văn hóa là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự tiến hoá nhân loại.
Ngay những bước đi lịch sử đầu tiên của mình, loài người đã gắn liền với văn hóa.
Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt
so với những con vật khác trong thế giới động vật. Theo Từ điển tiếng Việt (Viện
Ngôn ngữ học, Hà Nội, 2000) [33,tr.35-36] thì từ văn hóa có 5 nghĩa:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử (Thí dụ: kho tàng văn hóa Việt Nam).
2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh
thần – nói một cách tổng quát (Thí dụ: phát triển văn hóa).
3. Tri thức, kiến thức khoa học (Thí dụ: Trình độ văn hóa).
4. Trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (Thí
dụ: sống có văn hóa).
5. Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở tổng
thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (Thí dụ: văn
hóa Đông Sơn).
Như vậy, có thể thấy văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem
xét trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa,
trong đó có rất nhiều định nghĩa được các nhà khoa học ghi nhận, được nhiều giáo
trình công bố, mà chúng tôi thấy phù hợp với nội dung của luận án.
Quan niệm văn hóa của nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor
nêu ra nhân dịp phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1988 - 1997):
9
Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng
như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân
tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [3, tr.15].
Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù
đó là hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần hay trong quan hệ giao tiếp ứng
xử xã hội. Trong quá khứ hay hiện tại, văn hóa là những hệ thống có giá trị; là cái
bản sắc của mỗi cộng đồng, dân tộc; là cái không thể lẫn vào đâu được. Như vậy,
theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 2000) văn hóa ở đây được
hiểu theo nghĩa thứ nhất là kho tàng văn hóa.
Hay một quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh được nhiều nhà khoa học
nhắc đến trong những năm gần đây:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [99, tr.431].
Vậy với khái niệm này, văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa thứ hai, là do con
người sáng tạo ra, nhằm thích ứng với nhu cầu của cuộc sống. Nó là sản phẩm của
con người và chỉ dành riêng cho con người, cộng đồng người; nó được sinh ra, tồn tại
và phát triển với con người. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống
cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của
sự phát triển, hay vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện, điều đó chứng tỏ, con người và
môi trường văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Theo Phan Ngọc, khái niệm văn hóa dùng để chỉ trình độ phát triển về vật
chất và tinh thần của những xã hội, dân tộc, bộ lạc cụ thể; đôi khi theo nghĩa hẹp,
văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người [102, tr.14-17].
10
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng, mỗi định nghĩa
đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Từ góc độ
tiếp cận và mục đích nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã cố gắng làm sáng tỏ
những yếu tố căn cốt nhất của văn hóa. Còn theo quan điểm của tôi, với hướng nghiên
cứu một nền văn hóa khảo cổ, thì Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất (văn hóa vật
thể) và tinh thần (phi vật thể) do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động, sản
xuất, được tích luỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ở đây, tôi xem xét các giá trị tinh thần không phải ở những phong tục tập
quán, tôn giáo tín ngưỡng và những giá trị văn hóa hiện hữu, mà tiếp cận nó thông
qua những sản phẩm vật chất (văn hóa vật thể) đã nằm sâu dưới lòng đất để làm rõ
yếu tố tinh thần trong đó.
Khảo cổ học là ngành khoa học nghiên cứu những nền văn hóa của loài
người qua quá trình phục chế, tìm hiểu tài liệu và phân tích những dữ liệu như: di vật,
di tích, hài cốt… Mục đích của khảo cổ học là đưa ra những lời giải đáp đầy đủ về
nguồn gốc, sự phát triển và tiến trình tiến hoá, bề dày lịch sử của loài người và của
văn hóa loài người. Đây là môn khoa học duy nhất đã thu thập và giải mã những
thông tin về thời tiền sử. Nó giúp cho con người hiểu biết về đời sống văn hóa - xã
hội của cư dân cổ đại [101, tr.29].
Văn hóa khảo cổ: là nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác
định trên cơ sở tổng thể của một nhóm di tích khảo cổ có những đặc điểm giống
nhau, phân bố liền khoảnh, tồn tại trong một khung thời gian nhất định, có một số
về đặc trưng di tích, di vật ổn định phân biệt rõ với các văn hóa khác và chủ nhân
của chúng thường là một tộc người nhất định [118, tr.14-15].
Trong một nền văn hóa khảo cổ có thể tồn tại nhiều loại hình văn hóa khác
nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều phản ánh những đặc tính của địa phương một cách
rõ nét. Để xác định được một nền văn hóa khảo cổ, cần phải nghiên cứu một tập hợp
các di tích khảo cổ, xác định giữa chúng có chung những đặc trưng, tính chất, niên
đại, chủ nhân, nguồn gốc, các giai đoạn phát triển… Khi nghiên cứu nền văn hóa
khảo cổ có thể phác thảo diện mạo văn hóa, làm rõ đời sống vật chất, tinh thần và
các hình thái kinh - tế xã hội của cư dân cổ.
11
Văn hóa Óc Eo: “Óc Eo” là tên gọi của một địa danh thuộc xã Vọng Khê,
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Khái niệm“Văn hóa Óc Eo” được hiểu là một nền
văn hóa khảo cổ, có những đặc điểm chung về di tích, di vật, được L. Malleret đặt
ra sau cuộc khai quật vào năm 1944. Nền văn minh này được hình thành và phát
triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dựa vào
các kết quả khai quật khảo cổ đã chứng minh văn hóa Óc Eo là sản phẩm vật chất
của Vương quốc Phù Nam.
Theo các nhà nghiên cứu, Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm “founan”
của người Trung Hoa. Còn phiên âm của tiếng Khmer cổ là “bnam”, ngày nay gọi là
“phnom” có nghĩa là “núi”. Vua Phù Nam có nghĩa như “vua núi” theo tiếng Phạn là
“parvatabhûpala”, tiếng Khmer là “kurung bnam” [56, tr.84]. Vương quốc Phù Nam
được coi là thể chế nhà nước đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Nó hình thành từ thế
kỷ I SCN, suy vong từ khoảng thế kỷ VI và mất hẳn từ thế kỷ VII.
Phù Nam được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa một bộ lạc Môn cổ sống
bằng nghề săn bắn, thu hoạch lâm sản và một bộ lạc Nam Đảo làm nông nghiệp, đánh
cá và buôn bán trên biển. Phù Nam là đế chế bao gồm nhiều tiểu vương quốc và lãnh
địa. Trong mỗi tiểu vương quốc thường có một vị tiểu vương làm thủ lĩnh lãnh đạo
các thủ lĩnh khác (chư hầu). Lãnh vực của vương quốc Phù Nam bao trùm một vùng
rộng lớn, gồm phía Nam Việt Nam, Malaysia, một phần Campuchia và Thái Lan.
Đời sống văn hóa là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam từ
những năm 80, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa nào thống nhất, có
tính chất thuyết phục.
Theo tác giả Trần Độ thì “phải hiểu đời sống văn hóa theo nghĩa rộng, không
bó hẹp tính văn hóa vào một số lĩnh vực đời sống văn hóa nào đó mà coi đời sống
văn hóa là một khái niệm rộng rãi, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội: sản xuất,
trao đổi, tiêu dùng, nhận thức, sáng tạo” [36; tr.24].
Theo GS.TS Hoàng Vinh “đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã
hội, mà đời sống xã hội là một phức thể của những hoạt động sống của con người,
nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó”. Trong đó “Nhu cầu vật
12
chất được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh
thần giúp cho con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức một nhân cách văn
hóa” [153, tr.149]. Như vậy, ở đây tác giả nhìn nhận đời sống văn hóa gắn liền với
những nhu cầu cơ bản của con người, con người không thể tách rời hai nhu cầu thiết
yếu, đó là nhu cầu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ có
ý nghĩa tương đối vì thực chất, nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần thường thống
nhất với nhau trong hoạt động sống của con người.
Theo GS. TS Đỗ Huy “đời sống văn hóa là hoạt động sản xuất của con người
trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Sản xuất của con người không chỉ duy
nhất tạo ra cuộc sống cá nhân, còn tạo ra đời sống nhiều người khác. Hoạt động sản
xuất vật chất cũng như hoạt động sản xuất tinh thần đều tạo ra những mối quan hệ,
ra các hình thức giao tiếp mới” [141, tr.15]. Như vậy, với quan điểm này, tác giả
cho rằng, đời sống văn hóa phải bắt nguồn từ hoạt động sống của con người. Theo
tác giả, “để hình thành đời sống văn hóa thì phải hình thành đời sống của con
người”, vì con người là một thực thể văn hóa.
Ngoài ra, còn có rất nhiều quan điểm khác nhau về đời sống văn hóa, mỗi
quan điểm đều có lý luận và thực tiễn riêng. Tuy nhiên, có thể hiểu đời sống văn
hóa là toàn bộ hoạt động văn hóa của con người, đáp ứng nhu cầu văn hóa vật chất
và tinh thần nhằm duy trì cuộc sống của con người. Đời sống văn hóa và đời sống
xã hội có sự giao thoa với nhau, song điểm khác biệt là đời sống văn hóa gạn lọc
dần những yếu tố phản tiến bộ của đời sống xã hội, nhằm đảm bảo các giá trị văn
hóa được biểu hiện ở mức độ cao nhất.
Đời sống văn hóa của một cộng đồng được thể hiện qua đời sống văn hóa vật
chất và đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng đó.
Đời sống văn hóa vật chất tồn tại hữu hình dưới dạng các sản phẩm văn hóa
vật thể như các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, tác phẩm văn học, di tích lịch
sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, cổ vật, bảo vật, các di tích khảo cổ học…
Đời sống văn hóa tinh thần không hiện hữu một cách cố định, tồn tại dưới
dạng các quan niệm về giá trị và chuẩn mực xã hội, được ghi nhận và lưu truyền
trong ký ức của xã hội. Đó là các huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, tín ngưỡng dân
13
gian, anh hùng dân tộc, nhân thần có công dựng nước và giữ nước, loại hình nghệ
thuật trình diễn như vũ điệu, âm nhạc, hò vè, sân chơi cổ truyền, đờn ca tài tử…;
các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân
đạo, ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung, đề cao nghĩa tình, đạo lý, lạc quan,
yêu đời. Đó là các giá trị về đạo đức, pháp lý và thẩm mỹ của dân tộc như lương
tâm, phẩm giá, danh dự, trách nhiệm…Với đề tài này thì đời sống văn hóa tinh thần
(những phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, các loại hình nghệ thuật…) được
thể hiện thông qua các di vật, tức là thông qua đời sống vật chất.
Như vậy, đời sống văn hóa mà chúng ta hiểu ở đây là một lát cắt trong đời
sống chung của xã hội. Nó là tổng hoà của những yếu tố đời sống vật chất và đời
sống tinh thần do con người sáng tạo ra.
1.2. Điều kiện hình thành văn hóa Óc Eo
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Vùng ĐBSCL ngày nay là địa phận của 13 tỉnh, thành phố gồm: Long An,
Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang, Kiên
Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, với diện tích tự nhiên khoảng
40.604 km2. Phía Đông Bắc giáp vùng Đông Nam Bộ, Tây Bắc giáp Campuchia, Tây
Nam giáp vịnh Thái Lan, Đông Nam giáp Biển Đông. Được xác định từ vĩ độ 8030’
Bắc - 10040’ Bắc và kinh độ 104026’ Đông - 106040’ Đông. Nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, có nền nhiệt độ cao và ổn định. Nhiệt độ
trung bình phổ biến khoảng từ 25 - 280C. Một năm chia làm hai mùa: mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4.
Vùng TNB có hai con sông lớn chảy qua: sông Tiền (ở phía Bắc) và sông
Hậu (ở phía Nam) là hạ lưu của hệ thống sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Trạng
(Trung Quốc).
Sông Tiền nhận 2/3 lưu lượng nước của sông Mê Kông, từ biên giới Campuchia
đến cửa sông dài khoảng 200 km, chạy qua các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long,
Trà Vinh, Bến Tre. Đến Cai Lậy (Tiền Giang), sông Tiền chia làm bốn con sông đổ ra
biển bằng 6 cửa: sông Mỹ Tho (Cửa Đại, Cửa Tiểu); sông Cổ Chiên (cửa Cổ Chiên,
cửa Cung Hầu); sông Hàm Luông (cửa Hàm Luông) và sông Ba Lai (cửa Ba Lai).
14
Sông Hậu chảy qua An Giang (Châu Đốc, Long Xuyên), đến Cần Thơ chia
thành nhiều nhánh làm ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Đồng Tháp và Cần Thơ,
Vĩnh Long và Cần Thơ, Hậu Giang và Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng rồi hội
nhập lại, cuối cùng đổ ra biển Đông bằng cửa Ba Thắc (bị bồi lấp vào khoảng
những năm 70 của thế kỷ XIX), cửa Định An và cửa Tranh Đề.
Ngoài ra, còn có một số sông như: sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây;
sông Sở Thượng, sông Sở Hạ; sông Giang Thành; sông Châu Đốc; sông Cái Lớn,
sông Cái Bé... và một hệ thống kênh đào chằng chịt thuận tiện cho việc đi lại và sản
xuất nông nghiệp của cư dân nơi đây.
TNB là sản phẩm bồi lắng phù sa của sông Mê Kông và bồi dần qua những
kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành
những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã
hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo ven sông lẫn một số giồng cát
ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười,
tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Địa hình
khá bằng phẳng với đa phần diện tích có cao độ nằm khoảng 0,5 - 1,5m, thấp dần
theo hướng Bắc - Nam và Tây - Đông.
Dựa theo đặc tính về địa hình, TNB có thể được chia thành hai vùng chính.
Đó là vùng cửa sông, ven biển và vùng ngập lũ:
Vùng cửa sông, ven biển có địa hình khá bằng phẳng và thấp. Khu vực có
địa hình cao hơn là do quá trình hình thành các giồng cát ở cửa sông (Tiền Giang,
Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng…), có độ cao từ 0,75 - 1,81m so với mực nước biển;
khu vực có địa hình thấp hơn bởi quá trình bồi lắng trầm tích phù sa (khu vực Bán
đảo Cà Mau, ven vịnh Thái Lan), có độ cao từ 0,25 - 0,50m so với mực nước biển.
Vùng ngập lũ nằm phía Bắc và Tây Bắc TNB, chủ yếu thuộc các tỉnh Long
An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, An Giang và Kiên Giang. Các khu vực
dọc sông Hậu và sông Tiền có địa hình tương đối cao hơn (1 - 3m) do quá trình bồi
đắp phù sa. Dựa vào phân vùng sinh thái đất nông nghiệp, vùng ngập lũ TNB có thể
chia thành 4 tiểu vùng chính: Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, khu vực Tây
sông Hậu và khu vực giữa sông Tiền - sông Hậu [5, tr.3-4].
15
Quá trình hình thành và biến đổi của vùng TNB cùng với những đặc điểm về
môi trường sinh thái là một trong những yếu tố rất cần thiết để hiểu hơn về sự phân
bố và cuộc sống của các cộng đồng cư dân vùng này qua các thời kỳ lịch sử.
Theo các nhà địa chất, quá trình hình thành vùng đất TNB diễn ra trong thời
gian khá dài và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: quá trình biển tiến,
biển thoái, vận động của vỏ trái đất qua hàng trăm triệu năm, các hoạt động bào
mòn và tích tụ… đã tạo nên những vùng sụt lún như vùng Đồng Tháp Mười hay
vùng trồi lên cao như dãy Bảy Núi (An Giang), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)…
Trong đó, các đợt biển tiến, biển thoái có tác động mạnh mẽ nhất đến sự hình thành
vùng đất Nam Bộ [PL1.2, tr.190].
Đợt biển tiến đầu tiên cách nay khoảng 11.000 đến 6.000 năm thì đạt đến
mức cực đại, cao hơn mực nước biển hiện tại 4 - 5m. Thời điểm đó, toàn vùng TNB
ngày nay tràn ngập nước mặn, trở thành vịnh biển nông rộng lớn. Những ngọn đồi,
quả núi trong vùng Bảy Núi (An Giang), Hà Tiên (Kiên Giang) đều trở thành những
hòn đảo nhấp nhô trong vịnh biển. Giai đoạn biển tiến này đã phân hoá đồng bằng
thành nhiều vùng có đặc điểm khác nhau: biển nông, biển nông ven bờ, đầm lầy ven
biển… Tại các vùng biển nông ven bờ động vật thân mềm, da gai, san hô phát triển
rất phong phú... Đặc biệt, thời kỳ này hình thành và phát triển phong phú thực vật
nhiệt đới, tạo điều kiện cho sự hình thành các vùng chứa than bùn rộng lớn ở thời
kỳ tiếp theo [27, tr.18; 30, tr.16]…
Sau khi biển tiến đạt đến cực đại (+4 đến +5m), thì bắt đầu rút liên tục khỏi
đồng bằng (khoảng 1.600 năm) và dừng ở mực cao +2m (trong vòng 700 năm). Quá
trình mực nước biển rút và sự bồi lắng của phù sa mới từ hệ thống sông Mê Kông,
miền TNB bắt đầu xuất lộ, hình thành nên các thềm phù sa ở độ cao +3, +2m lấn ra
phía biển [27, tr.18]. Quá trình này được thể hiện khá rõ trên các giồng cát từ Cai
Lậy trở xuống phía nam (có tuổi C14 khoảng 4.000 - 4.500 năm). Các giồng cát này
có hướng song song với đường bờ hiện tại. Khi mực nước biển rút đã để lại các vùng
đầm lầy rộng lớn thuận lợi cho sự phát triển của thực vật tạo than... [34, tr.16-17].
Sau đó, nước biển tiếp tục hạ thấp với tốc độ nhanh hơn (khoảng 250 năm),
đây được xem là đợt biển thoái đầu tiên. Từ năm 1650 - 1400 TCN (3650 - 3400
16
năm cách nay), mực nước biển từ độ cao khoảng +2m đã hạ thấp dưới mực nước
biển hiện nay. Khi mực nước biển hạ thấp đến độ cao 1,5 - 1m thì cửa biển Châu
Đốc, sông Mê Kông tách chia hai nhánh, đồng thời chuyển dòng chảy theo Tây Bắc
- Đông Nam. Hai dòng chảy này về sau trở thành hai con sông chính ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành và phát triển chung diện mạo của toàn vùng TNB… Tuy nhiên,
phải tiếp tục trải qua quá trình trên dưới ngàn năm, sau đợt biển tiến, biển thoái thứ
hai, vào khoảng TCN, bề mặt vùng TNB mới thực sự hiện rõ nét [27, tr.19].
Đợt biển thoái thứ ba kéo dài khoảng 500 năm đầu Công nguyên (từ năm 50
TCN đến năm 500 SCN) có thể được xem là thời điểm mở đầu một thời kỳ mới
trong quá trình hình thành vùng TNB ngày nay. Thời điểm đó, mực nước biển từ độ
cao +0,4m (50 năm TCN) hạ thấp dần dưới mực nước biển hiện tại là -0,8m, vùng
TNB theo đó lại được mở rộng thêm về phía Đông nhờ nước biển rút dần. Phù sa
của các dòng chảy ngày càng bồi tụ mạnh về phía biển.
Tiếp đến, từ khoảng giữa thế kỷ VI, lại bắt đầu đợt biển tiến mới kéo dài đến
800 năm (từ khoảng năm 550 đến khoảng năm 1150 SCN), với mực nước biển dâng
cao trung bình +0,8m. Nước mặn đã tràn ngập các vùng đất thấp ven biển, có thể xâm
nhập sâu vào những vùng trũng không có hệ thống giồng cát che chắn (vùng rừng U
Minh, Tứ Giác Long Xuyên). Ngoài ra, nước mặn còn theo các sông rạch, lan toả
vào các vùng trũng trong lòng châu thổ (vùng Đồng Tháp Mười). Sự xâm nhập của
nước biển đã ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên, môi trường sinh thái tại những địa
bàn thấp trũng của châu thổ. Đến giữa thế kỷ XII về sau, mực nước biển dần hạ thấp
rồi dừng lại ở mức hiện tại. Vùng TNB bước vào thời kỳ phát triển mới theo chiều
hướng không ngừng mở rộng, phù hợp với quy luật tự nhiên của nó [27, tr.20-21].
Theo thư tịch cổ: Khang Thái và Chu Ứng là quan triều đình nhà Ngô thời
Tam Quốc (230 - 280) được cử đi sứ đến nước Phù Nam. Khi về nước, hai vị quan
này viết một vài quyển sách nói về chuyến đi của mình đến đất nước Phù Nam như:
Phù Nam ký, Phù Nam thổ tục, Phù Nam thổ tục truyện, Phù Nam dị vật chí. Tuy
nhiên, các sách này đều đã thất lạc, chỉ còn biết đến qua các trích dẫn trong một số
thư tịch cổ được ghi chép từ thế kỷ V - VI SCN như: Lương Thư, Nam Tề Thư, Tuỳ
Thư, Đường Thư... Những nội dung này đã cho chúng ta những hình dung về địa
17
hình, thiên nhiên và môi trường sinh thái vùng TNB thời bấy giờ (tương đương với
thời kỳ biển thoái kéo dài khoảng 800 năm SCN).
Theo Nam Tề Thư: Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong vịnh
lớn phía Tây biển lớn, diện tích rộng hơn 3.000 dặm, nước ấy có một con sông lớn
chảy theo hướng tây ra biển [120, tr.268]. Theo Lương thư: Nước phù Nam cách
Nhật Nam khoảng 7.000 dặm, ở phía Tây Lâm Ấp, cách nước ấy 3.000 dặm. Kinh
thành cách biển 500 dặm. Trong nước có con sông lớn, rộng 10 dặm, chảy theo
hướng Tây Bắc sang phía Đông đổ ra biển. Diện tích cả nước rộng hơn 3.000 dặm.
Đất đai nước ấy thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục giống như Lâm Ấp [120,
tr.273]. Sách Tam Tạng kinh - Cao Tăng truyện còn có đoạn bổ sung “Phù Nam là
cửa biển có ngàn con sông” [27, tr.23].
Dựa vào những mô tả khái quát về nước Phù Nam qua các ghi chép của thư
tịch cổ Trung Quốc, đa số các nhà khoa học đều có chung nhận định: vị trí của nước
Phù Nam nằm ở phía Nam Đông Dương, phía Nam quận Nhật Nam (một phần đất
phía Nam Việt Nam xưa) và Lâm Ấp (Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay). Trong
đó, vịnh lớn phía Tây biển lớn là vịnh Thái Lan; con sông lớn, rộng 10 dặm chảy
theo hướng Tây đổ ra biển (hoặc chảy theo hướng Tây Bắc sang phía Đông rồi đổ ra
biển) tương ứng với phần hạ lưu sông Mê Kông, với đất đai thấp, trũng và bằng
phẳng. Có thể suy đoán đây là vùng TNB ngày nay. Từ đó có thể cho rằng, vào
khoảng thế kỷ V - VI vùng TNB đã hình thành, với đồng bằng rộng lớn (có phần
trũng thấp). Bên cạnh đó, theo thư tịch cổ, kinh thành cách biển 500 dặm (trên 200
km), chứng tỏ là vùng đất được con người khai phá với quy mô khá rộng lớn.
Đến thời kỳ tiếp theo, vùng đất này được xem là vùng đất của Thuỷ Chân Lạp,
Tuỳ thư mô tả nước này có bờ biển bao quanh và có nhiều hồ lớn. Tân Đường thư khi
viết về Thuỷ Chân Lạp thì viết là vùng đầm lầy rộng lớn. Theo mô tả như trên vào
khoảng thế kỷ VII - IX, vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn từ bằng phẳng, mênh mông,
nhiều sông ngòi đã bị biến thành nhiều hồ lớn, vùng đầm lầy rộng [27, tr.23-24].
Sự biến động này có thể liên quan trực tiếp đến đợt biển tiến thứ tư dâng cao đến +1m
diễn ra cùng thời.
18
Một số thư tịch cổ ghi lại cảnh quan vùng TNB từ thế kỷ XII trở về sau đều
có những mô tả khá giống nhau như: ký sự của Châu Đạt Quan trong“Chân Lạp
phong thổ ký” có đoạn viết: Từ Chân Bồ (Bà Rịa hay Vũng Tàu) theo hướng
Khôn-Thân (Tây Nam - 1/6 Nam), đi ngang qua biển Côn Lôn và vào cửa sông.
Sông này có hàng chục ngả, nhưng chỉ có thể vào được cửa thứ tư (Cửa Tiền
Giang vào Mỹ Tho ngày nay), các ngả khác có nhiều bãi cát thuyền lớn không đi
được. Nhìn lên bờ thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng,
thoáng qua không dễ gì biết được lối vào [116, tr.22]. Có đoạn khác lại viết: Bắt
đầu vào Chân Bồ hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa
rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm dặm, bóng mát um tùm của những cây
cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê. Tiếng chim hót và thú vật
kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, mới thấy lần đầu cánh
đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ
cây đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tụ họp từng bầy trong vùng này. Tiếp
đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm dặm [116, tr.73]… Đây là
quang cảnh của vùng TNB mà Châu Đạt Quan ghi lại trong chuyến đi sứ đến nước
Chân Lạp vào khoảng năm 1296 - 1297 SCN.
Vào cuối thế kỷ XVIII, trong cuốn sách “Phủ biên tạp lục”, Lê Quý Đôn có
những mô tả: Phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Soài Lạp, Cửa Đại,
Cửa Tiểu… toàn là rừng rậm hàng mấy trăm dặm [27, tr.24]. Qua mô tả từ các thư
tịch cổ cho thấy, từ thế kỷ thứ XII đến cuối thế kỷ XVIII vùng TNB phát triển theo
chiều hướng ngày càng hoang dã, cảnh vật thiên nhiên như chưa từng có ai khai phá.
Về khí hậu, theo các nhà nghiên cứu, những đặc điểm của các nhóm cổ sinh
đặc biệt là bào tử phấn hoa, cùng với đặc điểm của lớp vỏ phong hoá cổ có thể xác
định được khí hậu thời kỳ Pleistocen ở đồng bằng Nam Bộ có chế độ nhiệt đới gió
mùa rất rõ [34, tr.16-17]. Thảm thực vật toàn vùng đã phản ánh điều kiện khí hậu
thời kỳ Óc Eo mang tính nhiệt đới có sự xen kẽ nóng khô và nóng ẩm.
Như vậy, có thể thấy, điều kiện thiên nhiên và khí hậu những thế kỷ đầu
Công nguyên không khác nhiều so với ngày nay.
19
1.2.2. Dân cư
Qua các phát hiện khảo cổ học có thể thấy, con người đã có mặt trên vùng
đất Nam Bộ từ rất sớm. Trong quá trình phát triển (từ thời kỳ đồ đá cũ tiến đến thời
kỳ kim khí), con người nơi đây đã để lại trên vùng đất Nam Bộ một nền văn minh
rực rỡ. Vậy chủ nhân của nền văn minh đó (Óc Eo) là ai? Câu hỏi này được nhiều
học giả nghiên cứu, lý giải và tranh luận, đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thoả
đáng. Việc nghiên cứu dân cư Óc Eo từ khối tư liệu khảo cổ học lại càng gặp nhiều
khó khăn hơn do các tư liệu nhân chủng phát hiện trong các cuộc khai quật quá ít ỏi,
một số khu mộ được phát hiện là chủ yếu là mộ hoả táng khiến cho việc xác định
nhân chủng khó có kết quả chính xác và tin cậy. Tuy nhiên, bằng những tư liệu hiện có,
công trình cố gắng khái quát những nét cơ bản nhất về cư dân Óc Eo ở Tây Nam Bộ.
Trong các đợt khai quật những di chỉ sớm, thuộc giai đoạn tiền Óc Eo ở vùng
Nam Bộ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một số mộ huyệt đất. Đây có thể coi là
nguồn tư liệu xác thực nhất, để xác định lớp người đầu tiên sinh sống ở vùng Nam
Bộ Việt Nam ngày nay.
Tại di tích An Sơn (có niên đại 3820±70 BP và 2775±50 BP) vào những năm
1978, 2004, 2007, 2009 các nhà khảo cổ học đã phát hiện 35 mộ táng và nhiều di
cốt nằm rải rác trong các hố khai quật. Qua giám định về cổ nhân học cho biết,
những di cốt này thuộc nhiều lứa tuổi (từ trẻ nhỏ 2 - 3 tuổi đến người lớn trên 50
tuổi), giới tính khác nhau (có nam, có nữ) và đều thuộc giống người có tên khoa học
là Indonesien [18]. Như vậy từ những phát hiện trên, có thể xác định, người
Indonesien chính là lớp người đầu tiên mở đất, lập nghiệp ở vùng đất này. Đặc biệt,
các di cốt người phát hiện trong cuộc khai quật tại An Sơn năm 2009 đã được phân
tích bằng nhiều phương pháp khác nhau. Kết quả cho thấy có 3 người trưởng thành
(1 nữ 40-49 tuổi, 1 nữ 20-29 tuổi, 1 nam 30-39 tuổi), 3 trẻ em từ 1-4 tuổi và 1 thiếu
niên từ 10-14 tuổi. Việc phân tích nhân chủng cũng đi đến nhận định rằng trong khi
người An Sơn có các chỉ số răng gần gũi với răng của cư dân Jomon và Hoà Bình
thời kỳ Holocene, các số đo sọ cũng cho thấy sự gần gũi với cư dân Đông Sơn thời
kỳ Đồ Đồng, người Việt và những người Đông Á hiện đại. Điều đó gợi ý rằng cư
dân An Sơn bảo lưu một số đặc điểm gien của các nhóm cư dân bản địa Đông Nam
20
Á sớm hơn, nhưng cũng xuất phát từ một quá trình di cư từ các khu vực khác của
Đông Á [155, tr.165].
Tại địa điểm Giồng Phệt (Thành phố Hồ Chí Minh), trong đợt khai quật
tháng 2 năm 1993 đã phát hiện 59 mộ chum nhưng cho đến nay, chưa có kết quả
xác định. Vào tháng 4 năm 1993, các nhà khảo cổ tiếp tục phát hiện 5 mộ táng và 1
mộ vò, tuy nhiên, các di cốt không còn nguyên vẹn. Đến cuối năm 1993, cũng tại
địa điểm này, các nhà khảo cổ học tiếp tục phát hiện 3 mộ đất và 3 mộ chum. Trong
đó, có một bộ di cốt có hộp sọ còn tương đối nguyên được xác định giới tính nam,
khoảng 50-60 tuổi, có quan hệ gần gũi với sọ của người Mongoloid, cư dân Đông
Sơn (nhóm loại hình Đông Nam Á).
Tại địa điểm Giồng Cá Vồ, các cuộc khai quật trong các năm 1993, 1994 và
1997 đã phát hiện 359 mộ chum và mộ đất, trong đó 24 sọ (13 sọ nam và 11 sọ nữ)
đã được Nguyễn Lân Cường đưa đi nghiên cứu. Tuy nhiên chỉ 6 sọ có đủ yếu tố xác
định nhân chủng, trong đó có 5 sọ nữ khá gần với những sọ nữ thuộc nhóm loại
hình Đông Nam Á của văn hóa Đông Sơn có đặc trưng của chủng tộc Mongoloid
Nam Á [19, tr.187].
Tại địa điểm Lộc Giang (Long An) đã phát hiện một hộp sọ của phụ nữ
khoảng 30 - 35 tuổi trong tầng văn hóa Óc Eo. Tuy không còn nguyên vẹn, song
Nguyễn Lân Cường cho rằng sọ có một số nét của người Mongoloid [19, tr.185].
Tại khu vực Gò Rạch Rừng, huyện Mộc Hoá, Long An, nhân dân đã phát
hiện 8 bộ xương cốt cùng với một số đồ trang sức bằng đá, mảnh gốm, xương động
vật. Trong đó, có 3 sọ có thể nghiên cứu được: 1 sọ của một người phụ nữ khoảng
25 tuổi, cao 1,54m; 1 sọ của một người nam giới khoảng 60 tuổi, cao 1,65m; 1 sọ
của một người phụ nữ khoảng 65 tuổi, cao 1,57m; Nguyễn Quang Quyền cho rằng
họ thuộc loại hình “thượng cổ” gần giống với Melanesien. Tuy nhiên, Nguyễn Lân
Cường có các số đo hơi khác và cho rằng đây chính là những người Indonesien cổ.
Năm 1997 tại địa điểm Gò Ô Chùa, các nhà khảo cổ học đã phát hiện 2 di cốt
(trong số 12 di cốt) được xác định là của một cá thể nam, khoảng 40 tuổi, cao 1,67m
và một cá thể nam, khoảng 18-20 tuổi, cao 1,63m. Sọ của hai cá thể này gần nhất
với sọ người Việt [19, tr.182].
21
Tại di tích Cạnh Đền (Trăm Phố), Malleret phát hiện 7 sọ người và được xác
định là thuộc thời đại Đồng – Đá, cách ngày nay 4000 năm. Theo E. Genet Varcin,
đây là những sọ của người Indonesien. Hai sọ và một số xương cốt do các nhà khảo
cổ học Việt Nam phát hiện sau này, cũng trong khu vực phát hiện được nhóm di cốt
nói trên, được Nguyễn Quang Quyền cho là có các đặc điểm của người Thượng
(Indonesien), với nhiều đặc điểm của đại chủng Australoid [59, tr.247-250].
Tại di tích Gò Tháp, các nhà khảo cổ học cũng đã phát hiện một số di cốt
người cổ. Trong đó, sọ kí hiệu ĐT.84.TS.X.03 có dáng rất giống sọ Cạnh Đền (sọ
Thnal Mroy 24.359, nữ 30 tuổi). Lê Trung Khá cho rằng, sọ ở Gò Tháp và Cạnh
Đền thuộc cùng thời kì văn hóa Óc Eo hay sớm muộn hơn đôi chút, có nhiều nét
tương tự sọ nữ cổ ở An Sơn và Samrongsen và mang đặc điểm của người Thượng,
nhóm người được xếp vào tiểu chủng hay loại hình nhân chủng Indonesien. Di duệ của
lớp người này hiện nay vẫn còn ở Đông Nam Á lục địa và hải đảo [59, tr.247-250].
Một sọ cổ (OE84.TS.X01) của cá thể nam, khoảng 30 tuổi phát hiện ở Lung
Lớn cũng có dáng dấp giống sọ Gò Tháp nhưng kích thước lớn và thô hơn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy sọ có thể có cùng niên đại với sọ Gò Tháp và Cạnh Đền, thuộc
chủng Indonesian [59, tr.247-250].
Tại di tích Nhơn Thành (Cần Thơ), phát hiện 1 sọ nam khoảng 55-60 tuổi và 2 sọ
trẻ em khoảng 8-11 tuổi, được Nguyễn Quang Quyền xác định thuộc loại hình Thượng
hoặc Việt. Cũng tại di tích này, 2 sọ khác của một nam và một nữ, đều ở độ tuổi 60
được Nguyễn Lân Cường và nguyễn Kim Thuỷ xác định thuộc nhóm người Việt.
Tại địa điểm Gò Cây Tung (An Giang), trong các cuộc khai quật năm 1993-
1994 đã phát hiện 19 ngôi mộ và có tới 23 cá thể, có niên đại khoảng thế kỉ 6-5
TCN đến 4-5 SCN. Các di cốt đã được xác định gồm 7 nữ, 9 nam và 7 cá thể không
xác định, hầu hết các cá thể ở độ tuổi 20-50, 1 cá thể gần 70 tuổi. Các sọ thuộc loại
ngắn, mặt thuộc loại rộng trung bình, nghiêng về hẹp ở nữ và rộng ở nam, được cho
là gần gũi với sọ của cư dân Thái Lan, Việt và cư dân Đông Sơn cổ (nhóm loại hình
Đông Nam Á), khác biệt hẳn với người Thượng và người Khmer [19, tr.188-189].
Như vậy, từ những nghiên cứu nhân chủng, chủ yếu phát hiện trong các di
tích tiền Óc Eo và Óc Eo sớm, có thể thấy sự có mặt của nhiều nhóm tộc người khác
22
nhau trên vùng đất Nam Bộ. Trong đó, các nhà nghiên cứu nhân chủng cho rằng,
nét nổi bật của cư dân cổ ở vùng Nam Bộ là những người Mongoloid gần gũi với
người Việt, nhóm loại hình Đông Nam Á của người Đông Sơn.
Khi nói về chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo, thư tịch Trung Hoa cho biết
người Phù Nam có nước da đen, tóc quăn, mặt tròn, mũi ngắn. Nam sử và Thông chí
cũng mô tả người Phù Nam nước da đen, xấu, búi tóc (có lẽ là chỉ phụ nữ, như Lương
thư cũng nói đến), vẽ mình, ở trần, đi chân đất. Những mô tả này cho thấy những
phong tục gần gũi với các nhóm cư dân vùng Tây Nguyên (người Thượng), theo chế
độ mẫu hệ, vốn là hậu duệ của lớp cư dân bản địa có nguồn gốc từ sự kết hợp giữa các
tộc người nói tiếng Nam Đảo với các tộc người nói tiếng Môn-Khmer [132, tr.50-55].
Ngoài ra, qua các ghi chép của sứ thần Trung Hoa, truyền thuyết và bia kí, có
thể thấy rằng từ khoảng đầu Công nguyên người Ấn Độ đã có mặt trên vùng đất
này. Điều này được thể hiện trước hết qua cuộc hôn nhân của thủ lĩnh địa phương
(Liễu Diệp) với giới quý tộc người Ấn Độ (Hỗn Điền). Những dấu tích sớm của các
ngôi nhà lợp ngói kiểu Ấn Độ, các loại đồ gốm cao cấp có bề mặt miết bóng màu
vàng bò (buff ware) kiểu Ấn phủ thành lớp dày trong hố khai quật tại Gò Tư Trâm
cho thấy ở đây có thể đã có những kiều dân Ấn hoặc ít nhất là những người mang
hai dòng máu Ấn và bản địa. Từ những đồ trang sức và một số điêu khắc thể hiện
sâu đậm những ảnh hưởng Ấn Độ, có thể cho rằng đã có các nhóm thợ thủ công
người Ấn cư trú trong vùng. Các giáo sĩ và nhà sư người Ấn không chỉ theo các con
tàu đi truyền giáo, mà còn định cư một số nơi trong vùng Đông Nam Á, trong đó có
vùng đất Nam Bộ. Họ đặc biệt được coi trọng trong triều đình Phù Nam. Vào năm
484, vua Jayavarman (Đồ Gia Bạt Ma) còn cử nhà sư Na Gia Tiên (Nagasena) sang
sứ Trung Quốc. Từ các nguồn tư liệu trên, không thể phủ nhận rằng có một số
lượng cư dân gốc Ấn đáng kể trong thành phần dân cư nơi đây.
Ngoài ra, các tác phẩm mang tính chất tôn giáo, những tượng đất nung nhỏ
hoặc các hình nhân phát hiện ở Óc Eo (An Giang), Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò
Tháp (Đồng Tháp), cho thấy yếu tố của các nhóm cư dân ngoại lai từ Trung Hoa và
các khu vực khác. Các điêu khắc tôn giáo cũng đã phản ánh phần nào thành phần
dân cư trong cộng đồng Óc Eo. Điều này được thể hiện qua các điêu khắc của hai vị
23
thần Vishnu và Siva trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I với khuôn mặt khá nặng
nề, có đôi má bầu, mũi to, mặt hơi ngắn. Từ thế kỉ 7 trở đi, phát triển các điêu khắc
nhân thể có khuôn mặt vuông vức hơi dài, trán phẳng. Có thể cho rằng đây là các
hình ảnh của hai tộc người khác nhau trong xã hội Óc Eo.
Từ những kết quả phân tích cổ nhân học, khảo cổ học và tư liệu của thư tịch
cổ Trung Hoa cho thấy chủ nhân nền văn hóa Óc Eo - Phù Nam là người bản địa
thuộc chủng Indonesien. Trong quá trình phát triển, họ có sự tiếp xúc và cộng cư
với những yếu tố nhân chủng khác tạo nên cộng đồng cư dân Óc Eo cùng nhau xây
dựng nên vương quốc Phù Nam hùng mạnh.
1.3. Lịch sử nghiên cứu và các dấu tích văn hóa Óc Eo
1.3.1. Lịch sử nghiên cứu
Lịch sử phát hiện và nghiên cứu nền văn hóa Óc Eo ở đồng bằng Nam Bộ
không phải là một quá trình liên tục về thời gian. Nó được biết đến từ rất sớm qua
các thư tịch cổ Trung Quốc. Người đầu tiên thu thập và dịch những tư liệu này
chính là nhà nghiên cứu người Pháp P.Pelliot. Ông đã thu thập từ 22 tư liệu cổ
Trung Quốc liên quan đến vương quốc Phù Nam. Đây là nguồn tư liệu chữ viết quý
giá, các thông tin vô cùng phong phú, cho ta thấy được toàn cảnh đời sống xã hội
của cư dân Phù Nam lúc bấy giờ. Hầu hết các nhà nghiên cứu sau này đều sử dụng
nguồn tư liệu này để nghiên cứu, xem nó như là một công cụ hữu hiệu để tìm hiểu
về vương quốc cổ đại này. Tuy nhiên, những thông tin từ các thư tịch khá phức tạp,
vì có phần ghi trực tiếp qua các sứ giả, qua quan hệ bang giao, có phần ghi qua
những truyền thuyết trong khu vực, những lời kể gián tiếp, hoặc người sau chép lại
người trước [73, tr.178]…, không phải là những chứng cứ xác thực để xác minh
nền văn minh cổ đại này.
Đến nửa sau thế kỷ XVIII đầu thế XIX, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp và
các học giả phương Tây đã phát hiện một số bia ký và thu thập hàng loạt di vật khảo
cổ học có niên đại khoảng thế kỷ I đến thế kỷ X SCN ở nhiều tỉnh Nam Bộ: năm
1879, A.Corre đã lượm được một số cổ vật và thấy hai tấm bia đá khắc chữ Phạn;
đến năm 1912, O.Connel đã phát hiện một pho tượng thần Vishnu khổng lồ; trong
các năm 1922, 1928, 1936 Suzanne, Karpeles, Jean Bouchot, F.Fraisse, H.Parmenlier
24
đã lần lượt tìm thấy nhiều di tích, di vật mà phần lớn là tượng thần, linh vật thờ
bằng đá, tấm đá có chạm trổ. Những di vật này chủ yếu nằm ở khu vực Ba Thê.
Điều này đã phần nào chứng minh cho giả định ở vùng ĐBSCL đã từng có một
vương quốc tồn tại mà thư tịch cổ Trung Quốc nhắc đến là “vương quốc Phù Nam”.
Cũng trong khoảng thời gian này, ở vùng đồng bằng miền Tây như Cạnh
Đền, Tân Long, Prasat pream Loven (Gò Tháp), di tích những đường nước cổ từ
Angkor Borei đến Ba Thê cũng đã được phát hiện. Chính từ những phát hiện này đã
thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, trong đó, nhà
khảo cổ học người Pháp L. Malleret - là người có những đóng góp quan trọng trong
việc phát hiện và có những nghiên cứu tiên phong cho nền văn hóa này.
Những năm sau đó (1938 - 1945), L.Malleret và các cộng sự đã tổ chức
nhiều cuộc thăm dò, khảo sát, khai quật và phát hiện nhiều di tích mới ở vùng đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long. Đến năm 1959 - 1963, những nghiên cứu trước đó
của ông, chủ yếu là cuộc khai quật ở Óc Eo, lần lượt được giới thiệu trong 4 tập
sách: “L’archéologie du Delta du Mékong”. Tập I (1959) mô tả khá chi tiết các loại
hình di tích, di vật được phát hiện ở vùng Hậu Giang. Tập II (1960) trình bày những
nghiên cứu của mình về các hiện vật thu được, đặc biệt là đồ gốm. Tập III (1962)
khảo cứu các loại hình đồ trang sức bằng kim loại quý, đá quý… Tập IV (1963)
ngoài phần trình bày những phát hiện mới ở vùng Tiền Giang, ông còn phân tích
diện mạo của nền văn minh Óc Eo ở vùng ĐBSCL. Công trình này (4 tập) đã công
bố những phát hiện, mở ra hướng nghiên cứu mới cho các nhà khoa học. Nhiều dấu
vết kiến trúc bằng gạch, bằng đá; nhiều cọc gỗ, nhà sàn; nhiều di vật bằng gốm, đất
nung, đá, đồng, chì, thiếc, vàng, bạc, đá quý, thuỷ tinh…; nhiều tàn tích thực vật,
xương cốt động vật nằm trong hai lớp cư trú khác nhau, ở độ sâu từ 0,60 - 2,20m đã
được L.Malleret phân tích, từ đó đưa ra nhận định: Óc Eo là một đô thị có hoạt
động mậu dịch, thương mại - là một thành phố cảng có vị trí quan trọng về kinh tế,
văn hóa và chính trị. Tại địa điểm di tích Óc Eo đã có một quá trình cư trú lâu dài
và đây được coi là một cảng biển quốc tế đặc biệt phát triển lúc bấy giờ. Thông qua
các hiện vật, nội dung của tập sách đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đời
sống của cư dân Óc Eo. Tuy nhiên, tập sách chủ yếu trình bày những phát hiện khảo
25
cổ ở vùng châu thổ sông Cửu Long trong vòng mấy chục năm trước đó. Còn rất
nhiều vấn đề mang tính chất khoa học về nền văn hóa này chưa được làm rõ như
phạm vi phân bố, đặc điểm, nội dung, quá trình phát triển và suy vong của văn hóa
Óc Eo. Vấn đề cuội nguồn và mối liên hệ của văn hóa Óc Eo với vương quốc Phù
Nam, Chân Lạp và Chămpa… vẫn cần chúng ta tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu.
Từ sau các hoạt động nói trên của các nhà khảo cổ người Pháp, vì chiến tranh
và các lý do khác nhau nên trong vài thập niên sau đó, không có một cuộc khai quật,
nghiên cứu nào về văn hóa Óc Eo ở vùng TNB. Các công trình nghiên cứu trước đó
chỉ mang tính chất mô tả, giới thiệu, giải thích sơ lược dưới nhiều giác độ khác nhau
về nền văn hóa Óc Eo ở miền TNB, là hướng gợi mở cho các công trình nghiên cứu
tiếp theo, chưa đi sâu vào phân tích từng khía cạnh và minh định một cách có hệ
thống về nền văn hóa này.
Sau năm 1975, khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước hoà bình
thống nhất, việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ trong cả nước được nhiều cơ quan
khoa học, cơ quan quản lý nhà nước và các nhà khoa học, các cuộc hội thảo đặc biệt
quan tâm. Không ít nghiên cứu sinh chọn những vấn đề có liên quan đến nền văn
hóa Óc Eo làm đề tài nghiên cứu của luận án. Có nhiều NXB, tạp chí khoa học đã
đăng tải những công trình nghiên cứu của các tác giả viết về văn hóa Óc Eo như
Đào Linh Côn, Lê Xuân Diệm, Võ Sĩ Khải, Lê Thị Liên, Nguyễn Thị Hậu, Bùi Phát
Diệm, Đặng Văn Thắng…; một số cơ quan quản lý nhà nước, viện nghiên cứu
chuyên ngành cũng đã triển khai nghiên cứu các đề tài, dự án cấp Nhà nước, cấp bộ
như Viện Khảo cổ học, Viện KHXH tại TP.HCM… Đến nay, có thể cho rằng, đã có
hàng trăm công trình nghiên cứu liên quan đến từng mặt của văn hóa Óc Eo, trong
đó, chủ yếu là của các nhà khảo cổ học nghiên cứu về các di tích, di vật đang nằm
sâu dưới lòng đất. Bức tranh về vương quốc Phù Nam và nền văn minh Óc Eo ngày
càng hiện ra một cách rõ ràng hơn.
- Nghiên cứu về đời sống văn hóa vật chất của văn hóa Óc Eo
Về lương thực, thực phẩm: Đã được một số tác giả nhắc đến qua việc phát
hiện dấu tích lúa gạo và các loại xương động vật trong các di tích cư trú. Trong một
bài viết, Võ Sĩ Khải đã đề cập đến, Óc Eo “là một xã hội nông nghiệp trồng lúa
26
nước, lương thực chính hiển nhiên là cơm. Thức ăn gồm cả các loại thịt rừng, hải
sản và thú nuôi (tôm, cá, sò, ốc, trâu, bò, hươu, nai, lợn rừng, lợn nhà, chó và cả
voi), các loại rau củ (dừa, trám, củ năng...)” [65, tr.399]. Trong một nghiên cứu
khác, tác giả cùng với Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn cũng đã khẳng định việc “phát
hiện dấu vết của nhiều cánh hoa, cọng hoa và lá cây tương đối còn nguyên dạng” và
hàng chục tiêu bản xương răng động vật như: “lợn rừng, lợn nhà, hươu đầm lầy,
voi, trâu, bò, cá sấu, cá, rùa, chuột...” [26, tr.429].
Tuy nhiên, trong những công trình này, các tác giả chỉ đề cập đến các dấu
tích lúa gạo, di cốt động vật, các loại rau củ... dưới dạng báo cáo khảo cổ học hoặc
là những phát hiện mới về mặt khảo cổ học. Đây sẽ là những cứ liệu xác thực nhất
mà luận án kế thừa nhằm làm rõ những đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của cư dân
Óc Eo ở miền TNB.
Về trang phục, theo Võ Sĩ Khải, trang phục của cư dân Óc Eo có sự khác
biệt, tuỳ theo tầng lớp trong xã hội mà có những cách mặc khác nhau “phụ nữ mặc
váy dài, phần trên để trần hoặc phủ kín; đàn ông đóng khố ngắn, phần trên để trần,
cả nam lẫn nữ đều đeo nhiều đồ trang sức, bùa đeo” [149, tr.399]. Theo các tác giả
Lê Thị Liên [85], Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải [26], có thể nhận biết
trang phục trong xã hội Óc Eo thông qua các tượng người, tượng thần và tượng
Phật. Tượng nam thần và nữ thần đều có trang phục tương đối giống nhau: đầu đội
mũ, phần trên cơ thể để trần, phía dưới quấn sampot (nam) hay mặc váy (nữ) và đeo
thắt lưng. Với tượng Phật, tác giả chia làm hai loại trang phục: Loại thứ nhất khoác
áo cà sa hở một bên vai; loại thứ hai khoác áo cà sa kín hai vai, dài đến mắt cá chân.
Như vậy, qua những di vật tìm thấy ở các di tích cư trú, di tích kiến trúc văn
hóa Óc Eo như các pho tượng người, tượng thần, tượng Phật và các hình vẽ trên một
số di vật khác các tác giả đã đưa ra những nhận định về trang phục của cư dân Óc Eo.
Tuy nhiên, những nhận định này chỉ được các tác giả nhắc đến một cách khái quát
trong quá trình phân tích các di vật. Tác giả luận án dựa vào các báo cáo khảo cổ,
những nhận định của các tác giả đi trước về trang phục của các vị thần, phật để phân
tích các loại trang phục của cư dân Óc Eo, thông qua đó làm rõ thái độ ứng xử của
con người với môi trường tự nhiên vùng TNB những thế kỷ đầu Công nguyên.
27
Về cư trú, các tác giả Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải [26] đã lần
lượt liệt kê các di chỉ cư trú, kiến trúc tôn giáo, mộ táng trong văn hóa Óc Eo. Theo
các tác giả, cư dân Óc Eo chủ yếu sống trên nhà sàn, có một số dấu vết của kiến trúc
gạch ngói, nhưng đó có thể là kiến trúc của các đền thờ. Tác giả Lê Thị Liên cũng
cho rằng, “kiến trúc nhà sàn là một trong những hình thức cư trú của cư dân Óc Eo”
còn cấu trúc kiên cố chủ yếu ở “trên gò hoặc vùng cao, dấu vết kiến trúc chỉ được
nhận thấy qua các mảnh gạch vỡ trong tầng văn hóa hoặc trên bề mặt” [80, tr.437-
442]. Còn theo Võ Sĩ Khải, cư dân Óc Eo sống chủ yếu trên nhà sàn hoặc thuyền
bè, chỉ có những ngôi đền, chùa mới được xây dựng kiên cố [149, tr.400]. Cũng trên
quan điểm cư dân Óc Eo cư trú trên nhà sàn, Huỳnh Công Bá cho rằng, “cư trú trên
nhà sàn là một truyền thống lâu đời” và họ còn biết “đắp đất thành các gò rộng hàng
hécta làm nền móng cho kiến trúc đền thờ hay khu mộ táng” [1, tr.288].
Những công trình này đã đề cập đến một số hình thức cư trú của cư dân Óc
Eo như: cư trú trên nhà sàn, thuyền bè và nền gạch. Tuy nhiên, nó chỉ dừng lại ở
việc nêu lên một cách sơ lược về các hình thức cư trú, chứ chưa đi sâu phân tích, lý
giải tại sao cư dân Óc Eo lại chọn những hình thức cư trú này. Trên cơ sở các công
trình đi trước, tác giả luận án sẽ kế thừa, làm rõ hơn về mô hình cư trú, các hình thức
cư trú và thái độ ứng xử của con người đối với môi trường tự nhiên mà họ đang sinh
sống thông qua việc lựa chọn các hình thức cư trú thích hợp với môi trường sống.
Về giao thông, Các tác giả Võ Sĩ Khải [65], Đào Linh Côn [14] đều cho rằng,
cư dân Óc Eo đi lại bằng cả đường thuỷ (đường biển, đường sông và các kênh đào)
lẫn đường bộ (sử dụng các loài voi, ngựa và có thể cả trâu bò). Các tác giả khẳng
định rằng, giao thông đường sông và đường biển trong thời đại Óc Eo khá phát triển
và đóng vai trò thiết yếu trong việc giao lưu văn hóa, kinh tế giữa các vùng trong
khu vực với nhau. Đặc biệt, theo Bùi Phát Diệm, chức năng của hệ thống kênh đào
không chỉ là tiêu, thoát nước cho đồng bằng ngập nước mà còn phục vụ rất hữu hiệu
cho việc đi lại. Người ta còn “thiết kế nhiều con tàu có thể di chuyển trên chính
những dòng kênh đó” [152, tr.363].
Trong một công trình khác [148], Dương Văn Truyện, Võ Sĩ Khải, Lưu
Nghĩa cho rằng, những di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Óc Eo phần lớn được phân
28
bố ở các điểm tụ, đầu mối của những tuyến giao thông và được nối liền với nhau
bằng những đường nước cổ tạo thành một hệ thống đường thuỷ rộng lớn trên phần
châu thổ phía nam sông Hậu.
Về phương tiện giao thông, hiện nay, 3 di tích văn hóa Óc Eo đã tìm thấy
dấu tích thuyền gỗ. Đó là địa điểm Xoa Ảo, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
Tại đây, Phan Thanh Toàn và các đồng nghiệp ở BTKG đã phát hiện phần mũi
thuyền gỗ, đầu mũi thuyền có xích và neo sắt, trong thuyền tìm thấy khá nhiều gốm
Óc Eo và tiền Óc Eo. Do chưa khai quật nên di tích tại thời lấp lại [139, tr.706-708].
Phát hiện thuyền thứ hai ở Giàn Gừa, Kiến Lương, Kiên Giang và thứ ba là ở xã
Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ. Những phát hiện này được
Nguyễn Quốc Mạnh, khoa Khảo cổ, trường Đại học KHXH Tp. Hồ Chí Minh công
bố trong các bài báo cáo khảo cổ học.
Những phát hiện và các công trình nghiên cứu này sẽ là gợi ý quan trọng, là
chứng cứ xác thực để chúng tôi mạnh dạn đưa ra những lý giải của mình trong vấn
đề đi lại của cư dân Óc Eo.
Về các ngành sản xuất, thông qua những di vật phát hiện được có thể thấy,
các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp đặc biệt phát triển.
Các tác giả đều cho rằng, nông nghiệp có vị trí, vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội của cư dân Óc Eo, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước.
Theo Võ Sĩ Khải “cảng thị Óc Eo đã hình thành từ một xã hội nông nghiệp lúa
nước, thuộc dạng trồng lúa đầm lầy với một hệ thống kênh đào hỗ trợ cho cây lúa”,
cư dân Óc Eo đã biết cấy các loại lúa (Oryza sativa) và khai thác các loại lúa trời
(Oryza prosativa và Oryza nivara proparte). Tác giả còn khẳng định “nền kinh tế
nông nghiệp của cư dân Óc Eo đã thoát khỏi tình trạng tự phát, đã có tính cộng
đồng, có tổ chức quy mô rộng lớn trên toàn miền TNB vào những thế kỷ đầu Công
nguyên” [149, tr.394-395].
Theo tác giả Huỳnh Công Bá [1] và Đinh Trung Kiên [67]: Óc Eo chính là
quê hương của các loài lúa nổi, người Óc Eo có thể trồng nhiều loại lúa khác nhau,
còn có thể làm nương rẫy, khai thác thuỷ, hải sản. Còn tác giả Nguyễn Xuân Hiển
thì cho rằng, nghề trồng lúa ở ĐBSCL đã phát triển từ rất sớm, khoảng từ thế kỷ I
29
đến thế kỷ VII SCN. “Nghề trồng lúa có nhiều phần chắc chắn là một nội dung
chính của hoạt động nông nghiệp, chi phối toàn bộ hoạt động này trong một môi
trường phổ biến là sình lầy, ẩm thấp” [38, tr.239].
Cùng chung quan điểm này, tác giả Đào Linh Côn [14] cho rằng, xã hội Óc Eo
đã có nghề trồng lúa phát triển ở cả vùng cao lẫn vùng thấp. Trong đó, tác giả đã phân
tích bốn khía cạnh của nghề nông: nghề trồng lúa của cư dân Óc Eo đã phát triển
đến một trình độ nhất định, họ biết sản xuất nhiều giống lúa khác nhau (lúa cạn, lúa
nước và lúa nổi); có hệ thống kênh đào chằng chịt trên khắp vùng, vừa đáp ứng nhu
cầu trong sinh hoạt, giao thông, vừa đáp ứng nhu cầu tưới tiêu cho nghề nông; nghề
làm vườn trồng các loại cây ăn củ, ăn quả, trồng hoa đã khá phát triển (dừa, cau,
mãng cầu xiêm, các loại hoa sen, Actisô, cúc...); nghề nông phát triển, lương thực
dồi dào là cơ sở cho hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển theo…
Để so sánh sự khác nhau trong sản xuất nông nghiệp của một số nước thuộc
vùng Nam Bộ cổ đại, Lê Thị Liên và Tống Trung Tín cho rằng, Phù Nam và Chân
Lạp đều là những nước có nền nông nghiệp phát triển. Trong đó, “Người Phù Nam
trồng lúa nước đại trà, phải đương đầu với việc thoát thuỷ cho cả một vùng đất châu
thổ rộng lớn hơn là việc dẫn thuỷ nhập điền”; còn “Người Chân Lạp, trái lại, quen
khai thác đất núi đồi, lợi dụng nước thiên nhiên chảy theo sườn dốc. Họ phải dự trữ
nước mùa mưa để tưới ruộng vào mùa khô” [4, tr.19].
Trong khuôn khổ các bài báo cáo khoa học, bài tạp chí, những kiến thức mà
các tác giả đưa ra là những thông tin khoa học, với cách lý giải xác đáng. Các tác
giả không chỉ dựa vào những dấu tích lúa gạo mà còn dựa vào các tư liệu thư tịch cổ
để lý giải, phân tích. Vì vậy, đây là những tư liệu quan trọng bên cạnh tư liệu khảo
cổ học, để giúp chúng tôi mạnh dạn thực hiện luận án của mình.
Về thủ công nghiệp, tác giả Võ Văn Khải [64] khẳng định, các nghệ nhân ở
đây có tay nghề rất cao, có thể nói đã đạt đến trình độ tinh xảo. Bằng chứng là
những vật dụng trong sinh hoạt thường ngày và trong sản xuất hay những đồ trang
sức được các nghệ nhân trang trí bằng nhiều đề tài hoa văn từ đơn giản đến tinh vi.
Theo tác giả, người thợ thủ công ở đây đã để lại những dấu ấn riêng của cá nhân và
của nhóm thợ. Còn theo tác giả Đào Linh Côn [14], có thể phân loại được nhiều
30
ngành nghề: mộc, đá, tạc tượng, xây dựng, đóng thuyền, gốm, dệt, đúc thuỷ tinh,
luyện kim... Thời kỳ này đã có những người thợ với tay nghề khéo léo và sự phân
công lao động rõ ràng trong từng ngành nghề. Tuy nhiên, những công trình này
cũng chỉ đề cập một cách khái quát, chưa đi sâu phân tích sự thể hiện của từng
ngành nghề thông qua các di vật. Những gợi ý của những công trình trên có ý nghĩa
quan trọng để luận án kế thừa và có hướng đi đúng đắn.
Theo tác giả Vương Thu Hồng, “ngay từ đầu Công nguyên, vùng Đồng Tháp
Mười đã có một cụm di tích xưởng chế tác hạt chuỗi và đồ kim hoàn có mối quan hệ
gần với di chỉ Óc Eo (An Giang), Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ (Cần Giờ, Tp. HCM) và có
mối quan hệ xa với các di chỉ sản xuất hạt chuỗi nổi tiếng của Thái Lan [150, tr.823].
Khi phân tích các loại hình gốm ở di chỉ cư trú Gò Tháp, Nguyễn Quốc
Mạnh [95] khẳng định, đồ gốm trong di tích Gò Tháp rất đa dạng, phong phú về
chủng loại cũng như công dụng của nó, được thể hiện qua các hiện vật: bình, nồi,
vò, chậu có quai cầm, bát bồng, bát, tô nhỏ, nắp đậy, ly cốc, chum nhỏ, chai gốm, cà
ràng, khuôn làm gốm. Đồ gốm ở đây được sản xuất rất tinh xảo; hoa văn đa dạng về
loại hình, “được tạo bởi nhiều kỹ thuật tạo văn khắc khác nhau, gồm: văn đập, in,
vạch, đắp nổi, cắt lộng và vẽ - tô màu” [tr.78] đã thể hiện được tay nghề điêu luyện
của người thợ làm gốm. Tác giả khẳng định rằng, “đồ gốm được sản xuất tại chỗ”,
tuy nhiên, nó lại được “tiếp nhận mạnh mẽ các yếu tố văn hóa từ bên ngoài, đặc biệt
là từ văn hóa Ấn Độ” [tr.122].
Các công trình nêu trên đã đề cập đến các ngành nghề thủ công một cách khá
cụ thể, thông qua việc phân tích các di vật được phát hiện. Đây là tài liệu liên quan,
xuyên suốt đề tài. Bởi các di vật được phát hiện và những phân tích trong các công
trình trên không chỉ sử dụng cho các ngành nghề thủ công mà còn là minh chứng
cho những phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, giao lưu văn hóa mà luận án sẽ
choc hiện. Các tác giả mô tả, phân tích các di vật để người đọc thấy được sự phát
triển phong phú, đa dạng của nhiều ngành nghề thủ công khác nhau và làm tăng tính
tin cậy của tư liệu. Nhưng điều mà chúng tôi còn thấy trăn trở ở đây chính là cách
giải mã văn hóa của các di vật tìm thấy trong văn hóa Óc Eo. Nhìn chung, các di vật
còn ẩn chứa nhiều ý nghĩa hơn thế.
31
Cùng với nông nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển rực rỡ trong xã hội Óc
Eo. Tại đây đã xuất hiện những trung tâm thương mại mang tầm cỡ quốc tế, điều
này được các tác giả Hà Văn Tấn [148], Võ Sĩ Khải [150] chứng minh qua một số
di vật ngoại nhập phát hiện trong các di tích Óc Eo. Các tác giả Cao Xuân Phổ [113,
tr.238], Bùi Phát Diệm [150] cũng cho rằng, Óc Eo đã từng phồn thịnh trong 4 thế
kỷ đầu Công nguyên, họ đã biết tổ chức thu mua các loại hàng hoá từ sản phẩm thô
đến qua chế biến; trao đổi hàng hoá thông qua các thương nhân bên ngoài. Theo các
tác giả, “Sự thịnh vượng của Óc Eo chủ yếu là dựa trên buôn bán” và sự suy thoái
của Óc Eo chủ yếu cũng chỉ vì dựa trên buôn bán”. Tuy nhiên, sự suy thoái của
vương quốc Phù Nam không chỉ vì sự suy thoái nền thương nghiệp mà còn nhiều lý
do khác. Song các bài viết này là những tư liệu quý giá, gợi ý cho nghiên cứu của
chúng tôi trong việc tìm hiểu về nguyên nhân suy vong của vương quốc Phù Nam
và tầm quan trọng của việc giao thương đối với Phù Nam và các quốc gia cổ đại.
- Nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Óc Eo
Khi nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng của cư dân, các tác giả đều thống
nhất, thời kỳ này, cả Phật giáo và Hindu giáo đều đã phát triển một cách mạnh mẽ.
Điều này được tác giả Lê Thị Liên [85; 139] phân tích một cách khá cụ thể trong một
số công trình đã công bố. Theo tác giả, khi lan truyền đến vùng ĐBSCL thì Phật giáo
và Hindu giáo đã biến đổi không còn giống như nơi phát sinh nữa. Đồng nhất quan
điểm này, tác giả Trương Sỹ Hùng [51] cho rằng, ở Phù Nam, các tôn giáo được du
nhập từ rất sớm, chủ yếu là Ấn Độ giáo và sau đó là Phật giáo. Ấn Độ giáo có vai trò
rất quan trọng trong đời sống của cư dân Phù Nam. Theo tác giả, khi được du nhập
vào vùng đất này, các tôn giáo đều được thế tục hoá, bản địa hoá cho phù hợp với đời
sống văn hóa và con người nơi đây.
Nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Duy Hinh [40] cho rằng, Phật
giáo truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam rất sớm, sau đó mới tiếp thu một số
ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc. Cảng thị Óc Eo được xem là trung tâm thương
mại quốc tế, các thuyền buôn muốn đến Trung Quốc đều phải qua cảng Óc Eo. Theo
ông, “Cửa biển Óc Eo là nơi thuyền buôn từ Ấn Độ đến đậu. Nhiều nhà sư Ấn Độ
mang theo kinh Phật cung cấp nguồn tư liệu cho người Phù Nam…” [tr.169-170].
32
Trong công trình này, tác giả còn cho rằng, Phù Nam và Trung Quốc có mối quan hệ
rất mật thiết thể hiện qua việc các “kinh Phật được đưa từ Phù Nam sang triều đình
nhà Lương để dịch” [tr.163]. Tuy nhiên, công trình chỉ giới thiệu một cách sơ lược
mối quan hệ của Phật giáo giữa hai nước, còn mối quan hệ đó diễn ra như thế nào và
sự thể hiện mối quan hệ đó qua các di vật thì chưa được đề cập đến. Đây là khoảng
trống cho luận án tiếp tục nghiên cứu.
Trong bài viết đăng trên tạp chí Khảo cổ học, tác giả Đặng Văn Thắng và Võ
Thị Huỳnh Như [127], Dương Thị Ngọc Minh [98] khẳng định, Gò Tháp là một
trung tâm tôn giáo của cư dân Óc Eo ở miền TNB. Các tác giả đã thống kê một số
lượng lớn các di vật tìm thấy để chứng minh cho điều này.
Chúng tôi được chỉ dẫn và kế thừa nhiều qua những lý giải, phân tích sâu sắc
từ các công trình này. Bên cạnh hệ thống các tượng thờ trong các bảo tàng, các bài
viết này góp thêm những thông tin, minh chứng cho những nhận định mà chúng tôi
sẽ phân tích trong luận án.
Khi nghiên cứu về nghệ thuật, Lê Thị Liên [85] đã phân tích những nét đặc
sắc của tượng tròn và phù điêu, trang trí trên vật liệu kiến trúc và các hiện vật nhỏ.
Tác giả đã chia sự phát triển nghệ thuật ở khu vực này ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ
thứ nhất, từ khởi đầu đến thế kỷ IV SCN; thời kỳ thứ hai, từ thế kỷ V đến đầu thế
kỷ VII SCN; thời kỳ thứ ba, từ cuối thế kỷ VII đến thế kỷ VIII SCN; thời kỳ thứ tư,
vào thế kỷ IX đến thế kỷ X. Công trình này đã phân tích một cách sâu sắc, cụ thể
các trường phái nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở vùng ĐBSCL.
Theo tác giả Lê Xuân Diệm “các tượng thần được tạc với trình độ nghệ thuật
cao, điêu luyện, với tầm vóc lớn... thể hiện đầy đủ trình độ cao của nghệ thuật tạc
tượng và phản ánh tập trung nhất sự phát triển của Ấn Độ giáo trong cộng đồng
người sáng tạo nên nền văn hóa Óc Eo” [148, tr.57-58]. Cũng quan điểm này, Võ Sĩ
Khải [64] đã phân tích những biểu hiện nghệ thuật trong văn hóa Óc Eo. Trước hết
là nghệ thuật trang trí, công trình đi sâu vào phân tích tính nghệ thuật và trình độ
thẩm mỹ của các đề tài hoa văn được trang trí trên các vật dụng gốm, đồ trang sức
của cư dân Óc Eo. Ngoài ra, công trình còn đề cập đến tính thẩm mỹ trong các
phong cách nghệ thuật tạc tượng của văn hóa Óc Eo.
33
Tác giả Trương Sỹ Hùng cho rằng, nghệ thuật Ấn Độ giáo và Phật giáo trước
thế kỷ X ở Đông Nam Á nói chung, miền Nam Việt Nam (Phù Nam) nói riêng đã
đạt được những thành tựu đáng kể. Đó là sự xuất hiện hàng loạt những pho tượng
mang phong cách nghệ thuật Amaravati và Gupta… Sự hiện diện này chứng tỏ, nền
văn minh Ấn Độ đã có mặt ở đây từ rất sớm, đặc biệt nghệ thuật Ấn Độ đã “gieo
mầm” làm nền tảng cho giai đoạn sau, nghệ thuật bản địa sẽ “nhân giống”. Theo tác
giả, tất cả những tác phẩm nghệ thuật nơi đây đều “được diễn tả bằng những hình
khối cơ thể no đầy, tạo dáng khoẻ với nét mặt mơ mộng… tác phẩm chịu ảnh hưởng
của nghệ thuật Gupta và hậu Gupta rõ nét. Bước đầu những đặc tính của nền nghệ
thuật bản địa đã được thể hiện trên từng chi tiết” [51, tr.370].
Những công trình này làm điểm tựa vững chắc cho luận án khi nghiên cứu về
nghệ thuật của cư dân Óc Eo, đặc biệt là công trình “Nghệ thuật Phật giáo và
Hindu giáo ở ĐBSCL trước thế kỷ X” của tác giả Lê Thị Liên. Bởi lẽ, nghệ thuật Óc
Eo chủ yếu được thể hiện qua các đề tài tôn giáo.
Về phong tục tập quán, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống. Một số phong tục được đề cập sơ lược trong thư tịch cổ. Chỉ có cách
thức mai táng được rất nhiều tác giả đề cập đến, đặc biệt là trong các báo cáo khảo
cổ học về loại hình mộ táng, hay các tư liệu thư tịch cổ Trung Hoa cũng từng nhắc
đến vấn đề này. Trong các công trình, các tác giả miêu tả một cách cụ thể về hình
dáng huyệt, xây cất bằng gạch, đá hoặc ghép bằng thanh gỗ và chôn theo loại hình
nào, trong các hố huyệt mộ chôn theo những vật tuỳ táng gì.
Tác giả Đào Linh Côn đã phân tích từ quá trình phát hiện, cấu tạo của các
loại hình mộ nơi đây cho đến các vật tuỳ táng chôn theo ở di tích Nền Chùa. Tác giả
cho rằng, “Trong các huyệt mộ, ở đáy hộc hoặc đáy huyệt thường có ít than tro. Đó
là dấu tích thể hiện những mộ ở khu di tích Nền Chùa được chôn theo tục hoả táng”
[148, tr.187].
Nguyễn Thị Lệ Hằng [146] cũng giới thiệu sơ lược quan niệm về cái chết và
tục hoả táng của người Ấn Độ và Phù Nam để đưa ra sự so sánh về điểm khác biệt:
đối với người Phù Nam sau khi chết được thiêu và cho tro cốt vào tope hay stupa rồi
xây huyệt mộ chôn cất kiên cố để trường tồn với thời gian; người Ấn Độ thì xem
34
nước là một chất thiêng liêng, có thể tẩy uế thân xác và linh hồn, cho nên sau khi
hoả táng, tro cốt được đem rải xuống sông.
Còn các tác giả Lương Ninh, Võ Sĩ Khải thì cho rằng, người Phù Nam có
“phong tục để tang thì cắt tóc, cạo râu; tang lễ thì có 4 cách: thuỷ táng, hoả táng, thổ
táng, điểu táng” [104, tr.21]. Cư dân cổ nơi đây quan niệm “cái chết là một chuyến
đi, đi đến một thế giới khác” [65, tr.62], nên khi chết họ chôn theo các vật dụng
thường ngày, những biểu tượng thần linh và vật điêu khắc thể hiện cảnh vật, hoạt
động chăn nuôi, sản xuất...
Nguyễn Văn Long [88] đã phân tích cấu trúc các ngôi mộ ở đây và thống kê
các vật tuỳ táng. Từ đó, tác giả đưa ra giả thuyết “người chết đã được cúng, tế, hoả
thiêu rồi đem chôn”. Bên cạnh đó, Nguyễn Lân Cường [46], Huỳnh Phước Huệ
[146] lại cho rằng, cư dân cổ Nam Bộ thường có hai hình thức mai táng là hung
táng trong chum và huyệt mộ đất.
Tác giả Nguyễn Trung Chiến và Lê Hải Đăng [10] lại bắt đầu từ việc thống kê
các địa điểm di tích mộ táng trên các hải đảo vùng biển miền Nam Việt Nam theo
trục dọc từ biển Đông đến vịnh Thái Lan đã chỉ ra sự phân bố các di tích, dung lượng,
số lượng, tình trạng phát hiện, nghiên cứu và bảo tồn các di tích.
Qua các cuộc khai quật mộ táng, các tác giả có những giả thuyết về cách
thức chôn cất của cư dân Óc Eo. Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở việc miêu tả
các ngôi mộ, số lượng các vật tuỳ táng dưới góc độ khảo cổ, chưa làm rõ được
những phong tục tập quán trong việc chôn cất người chết của cư dân nơi đây, và
việc chôn cất như vậy đã nói lên điều gì. Đó chính là những khoảng trống mà luận
án cần tiếp tục nghiên cứu.
Chữ viết của cư dân Óc Eo chủ yếu được nhận biết qua các bản văn khắc,
trên những miếng vàng, miếng niêm hàng... Phạm Đức Dương cho rằng, nền văn
hóa Ấn Độ được chuyển tải qua con đường truyền giáo và buôn bán hoà bình. Vì
vậy, con đường tiếp xúc ngôn ngữ và văn tự chủ yếu qua đạo Bàlamôn, đạo Phật.
Từ những thế kỷ đầu Công nguyên, vương quốc Phù Nam tiếp nhận nhiều yếu tố
văn hóa Ấn Độ. Các tôn giáo đóng vai trò quốc giáo. Con đường vay mượn ngôn
ngữ được chuyển tải qua chữ viết trước hết là các kinh sách. Các vua quan bản địa
35
đều thiết lập chế độ vương quyền kết hợp với thần quyền, do đó, nhà vua cùng với
tăng lữ rất giỏi ngôn ngữ và văn tự Ấn Độ. Chính quyền triều đình và tăng lữ đã du
nhập hệ thống chữ viết miền Đông Nam Ấn Độ thuộc kiểu chữ Brahmi, “chữ
Brahmi thể hiện ngôn ngữ Sanskrit, là chữ của thần linh” [32, tr.230]. Cũng với
quan điểm này, Võ Sĩ Khải cho rằng, “chữ viết ở vùng châu thổ sông Mekong vào
khoảng đầu Công nguyên là một sản phẩm của sự giao lưu văn hóa do các thương
nhân, các tu sĩ Phật giáo và Ấn giáo đem đến. Văn tự ở di tích Óc Eo là loại chữ
Phạn cổ” [65, tr.49].
Tác giả Đào Linh Côn, Bùi Xuân Long cho rằng, trong số 8 bản văn khắc chữ
Phạn cổ trên đá phát hiện ở Gò Tháp, có 7 bản nói đến vấn đề liên quan đến tôn giáo
tín ngưỡng, chỉ có một bản là liệt kê các loại tô, thuế mà các làng xã phải đóng góp
cho một ngôi đền, được định niên đại vào thế kỷ VI - VII [150; tr.878-879]. Còn các
tác giả Bùi Phát Diệm, Đào Linh Côn, Vương Thu Hồng đề cập đến bản minh văn
xuất hiện ở Gò Xoài. Các tác giả đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng đều
thống nhất đây là một bài kệ Pháp thân trong kinh Phật. Theo các tác giả, bản minh
văn này “được viết bằng ngôn ngữ Pali lai (hybrid Phali) có dấu vết Sanskrit và một
thứ văn tự Deccan (Nam Ấn) [25, tr.195-196].
Nhìn chung, những công trình trên chủ yếu là các bài viết mang tính chất
giới thiệu khái quát về chữ viết trên các bia ký ở miền TNB. Đây là những định
hướng quan trọng giúp chúng tôi hiểu sâu sắc hơn khi tiếp xúc với các bản minh
văn cổ. Đặc biệt, trong một công trình nghiên cứu chuyên biệt về chữ viết cổ tác giả
Thái Văn Chải [9] đã thống kê, phân tích, nhận định và giới thiệu một số bia ký ở Đông
Dương. Đây là nguồn tư liệu quý giá, tác giả đã kế thừa và tiếp thu có phê phán, chọn
lọc những thành tựu nghiên cứu về chữ viết của cư dân Óc Eo ở TNB.
- Mối quan hệ giữa các nước trong khu vực với vương quốc Phù Nam
Từ những kết quả khai quật cho thấy, chủ nhân nền văn hóa Óc Eo - Phù
Nam có quan hệ kinh tế và văn hóa với các nước trong khu vực. Phạm Đức Dương
đã phân tích khá đa chiều để giải thích những vấn đề về ngôn ngữ, văn hóa ở Đông
Nam Á; minh chứng về sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người và xem Đông Nam
Á là ngã tư đường của sự giao lưu; phân tích sự tiếp xúc văn hóa giữa Việt Nam,
36
Đông Nam Á với Trung Hoa và Ấn Độ thời cổ đại. Tác giả cho rằng, nhờ tính cởi
mở, không kỳ thị các tôn giáo mà cư dân Óc Eo đã tiếp nhận các tôn giáo, khoa học
kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa... đến từ bên ngoài và đồng thời, bản địa hoá những
yếu tố văn hóa ngoại lai tạo nên một nét văn hóa rất riêng của cư dân nơi đây.
Tác giả Ngô Văn Doanh cũng đã đề cập đến vai trò của Ấn Độ đối với sự ra
đời các quốc gia Hindu giáo cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á, phân tích vai trò của
Brahman trong việc truyền bá và phổ biến văn hóa, tôn giáo... Tuy nhiên, chỉ có ở
Phù Nam, những người Bàlamôn (Brahman) Ấn Độ mới trở thành các vị vua quan
trọng của vương quốc. Tác giả còn cho rằng, “để củng cố và phát triển nhà nước của
mình, các vị vua của vương quốc Phù Nam đã tiếp nhận những thành tựu của Ấn
Độ về tổ chức vương quyền. Vì vậy mà, dù không phải là thuộc địa của Ấn Độ,
vương quốc Phù Nam vẫn tiếp nhận những thành tựu về mọi mặt chính trị, xã hội và
văn hóa của Ấn Độ để xây dựng đất nước của mình” [30, tr.26] phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử của địa phương.
Các tác giả Lương Ninh [110], Bùi Phát Diệm [150] cho rằng, cư dân Óc Eo
có mối quan hệ rộng rãi với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Quốc, Vịnh
Bengal, La Mã và các nước Địa Trung Hải... Từ các hiện vật lạ, có nguồn gốc xuất
xứ từ bên ngoài được phát hiện trong các di chỉ thuộc văn hóa Óc Eo, các tác giả
cho rằng, những hiện vật này chủ yếu được đưa đến đây qua giao lưu mua bán, có
một số di vật được chế tạo tại chỗ với kỹ thuật được du nhập từ các nước bên ngoài.
Nói về khả năng tiếp nhận nền văn hóa từ bên ngoài, Hà Văn Tấn [148],
Đặng Ngọc Kính cũng cho rằng, sự hình thành của nước Phù Nam dựa vào hai yếu
tố nội sinh và ngoại sinh. Yếu tố nội sinh là bắt nguồn từ nền văn hóa tiền sử và bắt
đầu có mối quan hệ với Trung Hoa, Đông Sơn vào thời kỳ sắt sớm; yếu tố ngoại
sinh “chính là sự vay mượn từ Ấn Độ những yếu tố kiến trúc thượng tầng như kết
cấu nhà nước, chữ viết và tôn giáo” [152, tr.368].
Hai tác giả Lê Đình Phụng và Nguyễn Thị Lệ Hằng [146] cho rằng, hai vùng
văn hóa Champa và Óc Eo được hình thành và phát triển trên cơ sở văn hóa tín
ngưỡng bản địa, đồng thời tiếp thu nền văn hóa Ấn Độ nên hai nền văn hóa có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
37
Khi nói đến mối quan hệ giữa Óc Eo và Ấn Độ, tác giả G.Coedès cho rằng,
“Đây không chỉ là một ảnh hưởng đơn thuần, mà là của một công cuộc thực dân hoá
thực thụ” [56, tr.51]. Tác giả phân tích khái niệm về Ấn Độ hoá, và đưa ra những
nguyên nhân của việc bành trướng, phương thức và những tuyến đường bành
trướng của người Ấn Độ, mức độ thâm nhập của nền văn minh Ấn Độ vào các xã
hội bản địa, trong đó có Phù Nam.
Cũng nói về mối quan hệ này, tác giả Geetesh Sharma cho rằng, “Phù Nam
là một quốc gia có tổ chức đầu tiên ở vùng Đông Nam Á và là một cầu nối quan
trọng nhất trong thương mại hàng hải giữa các nước phương Đông với phương Tây”
[57, tr.57].
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu có liên quan ở nhiều góc độ khác
nhau, có thời gian tồn tại song song, có nền văn hóa tương đồng với nền văn hóa Óc
Eo...; phân tích vị trí địa lý, địa hình, đặc điểm và môi trường vùng đất Nam Bộ thời
cổ đại, cũng như những nghiên cứu, thống kê dưới góc độ tài liệu khảo cổ học thông
qua các di vật tìm thấy, nghiên cứu từng di tích riêng lẻ của các tác giả trong nước,
ngoài nước.
Từ sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, nền
văn hóa cổ Óc Eo ngày càng được quan tâm, các công trình nghiên cứu văn hóa Óc
Eo càng ngày nhiều. Tất cả các công trình nghiên cứu đã được công bố trên đều rất
có ý nghĩa, góp phần quan trọng trong việc bổ sung những kiến thức cho luận án cả
về phương diện nhận định lẫn cung cấp tư liệu. Liên quan đến vấn đề đời sống văn
hóa của cư dân Óc Eo, nhiều vấn đề được gợi mở, chủ yếu là phân tích các di tích di
vật dưới góc độ khảo cổ học, hoặc chỉ nghiên cứu văn hóa Óc Eo dưới cái nhìn
riêng lẻ, từng mảng, chưa đi sâu nghiên cứu đời sống văn hóa Óc Eo trong cái nhìn
tổng thể dưới góc độ văn hóa học. Vì vậy, khi nghiên cứu văn hóa Óc Eo thì đời
sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB là khoảng trống mà chúng tôi cần tiếp
tục nghiên cứu trong luận án của mình.
Tóm lại, trên cơ sở tổng quan những nội dung và kết quả chính của các công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo, cho thấy:
những công trình nghiên cứu chuyên biệt, mang tính học thuật về đời sống văn hóa
38
của cư dân Óc Eo không nhiều. Phần lớn các công trình tập trung tiếp cận dưới góc
độ nghiên cứu khảo cổ học, hoặc theo hướng nghiên cứu lịch sử, rất ít nghiên cứu
theo hướng văn hóa học. Tiếp cận văn hóa Óc Eo dưới góc nhìn văn hóa học là
mảng đề tài mới lạ. Các tài liệu hiện có chủ yếu chỉ nằm trong phạm vi một bài báo,
các báo cáo khảo cổ, chỉ mang tính khai mở, nhỏ lẻ, chưa mang tính hệ thống trong
nghiên cứu. Có lẽ, vì văn hóa Óc Eo mới được các học giả phương Tây phát hiện và
nghiên cứu từ năm 1944, chỉ sau 1975 các học giả Việt Nam mới bắt đầu nghiên
cứu. Hơn nữa, văn hóa Óc Eo là nền văn hóa khảo cổ bị chôn vùi dưới lòng đất, chủ
nhân của nó hiện nay không tồn tại. Vì thế rất khó xác định được một cách đầy đủ,
chính xác đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo diễn ra như thế nào. Tuy nhiên,
những thành quả nghiên cứu của các công trình đi trước sẽ là những viên gạch đặt
nền móng cho các công trình nghiên cứu tiếp theo, có tác dụng định hướng, gợi mở
các hướng nghiên cứu mới, là nguồn tư liệu bổ ích và quý giá để các công trình
nghiên cứu tiếp theo có thể kế thừa.
1.3.2. Các dấu tích văn hóa Óc Eo
1.3.2.1. Các loại hình di tích và đặc trưng phân bố
Văn hóa Óc Eo tồn tại trong một không gian văn hóa rộng lớn, với một thời
gian dài phản ánh nhiều thời kỳ [PL4, tr.258]. Qua quá trình nghiên cứu có thể thấy
sự phân bố các di tích văn hóa Óc Eo rộng khắp cả vùng miền Tây và miền Đông
Nam Bộ, trong đó, tập trung nhiều nhất ở miền TNB. Có thể phân chia những di
tích này thành các tiểu vùng cùng với những đặc điểm riêng của nó:
- Một số cảng thị
Phù Nam được nhìn nhận là một “vương quốc” cổ đại đầu tiên được hình
thành ở Đông Nam Á, từng thống trị cả một vùng Nam Đông Dương. Dưới thời kỳ
cai trị của Phạm Sư Man (220 - 225), vương quốc Phù Nam đã kiểm soát cả vùng
đất phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam
(Thái Lan), về phía Nam đến gần phía Bắc bán đảo Malaysia [1, tr.349]. Đến giữa
thế kỷ III - VI, Phù Nam khống chế nền thương nghiệp hàng hải ở Đông Nam Á
và bành trướng các lãnh thổ trong khu vực, trở thành một đế chế hùng mạnh trong
khu vực.
39
Với một đế chế hùng mạnh, mang nhiều yếu tố của văn hóa biển như Phù
Nam, việc hình thành các khu cảng thị là điều tất yếu. Các khu cảng thị của Phù
Nam không chỉ có những cảng biển quốc tế, mà còn hình thành những cảng thị dọc
các con sông, ven biển. Những cảng thị ven sông, ven biển có vai trò rất quan trọng
trong việc giao lưu, buôn bán với các vùng trong khu vực, hay còn gọi giao lưu,
buôn bán nội địa. Những cảng thị ven sông đồng thời cũng là những khu xưởng chế
tác thủ công quan trọng của Phù Nam như: di tích Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Hàng
(Long An)… Theo giới nghiên cứu khảo cổ di tích Nhơn Thành (Cần Thơ), có
nhiều hoạt động sống, không gian sống của cộng đồng cư dân bản địa mang sắc thái
của một “đô thị sông nước” thời cổ, phản ánh đặc trưng của một vùng cư trú chủ
yếu trên sông rạch, có quan hệ giao thương chặt chẽ với các di tích khác ở vùng Tứ
giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười. Di tích này thể hiện tầm vóc của một trung
tâm dân cư, thương mại phát triển của văn hóa Óc Eo.
Di tích Óc Eo được nhìn nhận là cảng thị quốc tế quan trọng nhất của vương
quốc Phù Nam; nó luôn giữ vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa; là trạm dừng chân
trên tuyến đường biển nối liền Nam Á và Bắc Á với hai trung tâm văn minh lớn của
nhân loại là Ấn Độ và Trung Hoa. Tại đây, các nhà khảo cổ học phát hiện nhiều dấu
hiệu của một cảng thị có sự giao lưu rộng rãi với bên ngoài. Trước hết, về vị trí địa
lý, khu di tích Óc Eo từng nằm ngay cạnh bờ biển. Các hiện vật được phát hiện
trong các di tích đã cho thấy một cảng thị có quan hệ rộng rãi với bên ngoài được
thể hiện rất rõ nét: đó là hai chiếc huy chương vàng đúc nổi hình Hoàng đế La Mã;
chiếc gương đồng thời Hán; một chiếc đèn kiểu Ba Tư; các đồng tiền được cắt tư,
cắt tám, những miếng niêm hàng và nhiều hiện vật ngoại nhập khác… Đây là những
vật được đưa đến từ nhiều nơi trên thế giới, chứ không phải sản xuất tại chỗ. Qua đó
cho thấy, tính chất cảng thị của di tích Óc Eo được thể hiện rất rõ.
Cạnh Đền (Trăm Phố) thuộc xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên
Giang, được coi là một thành phố cảng thị ven biển quan trọng của vương quốc Phù
Nam. Nó nằm ở vị trí ven biển phía Nam, cách khu di tích Óc Eo - Ba Thê khoảng
90 km. Trong đợt khai quật năm 1981 và năm 1986, đã ghi nhận ở vùng đất thấp
dưới chân các “gò nổi” có dấu vết cư trú nhà sàn, cọc gỗ cắm dưới đáy các mương
40
nước, nhiều mảnh gốm, trái cây, hạt lúa, di cốt người, xương động vật; loại hình di
tích xưởng thủ công làm đồ sắt, đồ trang sức bằng vàng, bạc, đá quý, thuỷ tinh;
những kiến trúc đền đài, mộ táng… Đặc biệt, trong phạm vi Cạnh Đền, các nhà
khảo cổ học đã thu thập được rất nhiều di vật liên quan đến hoạt động giao lưu
nhiều mặt với Ấn Độ và Phương Tây. Đó là những con dấu bằng đá quý, bằng kim
loại, trên mặt có khắc chạm hình người, hình động vật, chữ cổ [15]… Qua đó có thể
thấy, Cạnh Đền là một cửa ngõ quan trọng của vương quốc Phù Nam trong việc
giao thương với thế giới bên ngoài.
Như vậy, có thể thấy trên vùng đất thấp ở miền TNB vào những thế kỷ đầu
Công nguyên, đã hình thành các khu cảng thị quan trọng, có mối quan hệ giao lưu buôn
bán rộng rãi với các nước trong khu vực và quốc tế. Sự hình thành các thành phố cảng
thị chắc hẳn được đặt trên một nền kinh tế phát triển; các hoạt động thủ công phong
phú, có trình độ kỹ thuật cao; các hoạt động buôn bán diễn ra sôi nổi, sầm uất.
- Một số khu trung tâm tôn giáo, chính trị
Vương quốc Phù Nam chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc bởi văn hóa Ấn Độ,
nó được xem là một trong những “quốc gia Ấn Độ hoá ở Viễn Đông” đầu tiên. Sự
ảnh hưởng này được thể hiện trong tất cả các mặt đời sống của cư dân nơi đây:
chính trị, kỹ thuật, văn hóa, tôn giáo, phong tục... Trong đó, tôn giáo đóng vai trò
quan trọng nhất, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động khác. Chính vì thế, trong vương
quốc lúc bấy giờ đã hình thành nên những trung tâm tôn giáo, chính trị quan trọng
như di tích Gò Tháp, Đá Nổi, Gò Xoài...
Di tích Gò Tháp (Prasat Pram Loven) là tên gọi chung cho một khu vực gồm
nhiều gò nhỏ nằm trên một giồng đất rộng thuộc ấp 1, xã Tân Kiều, huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp. Đây là một tập hợp gồm nhiều công trình kiến trúc mang
tính chất tôn giáo như: kiến trúc Gò Tháp Mười - được xem là đền thờ thần Vishnu;
di tích 10GT.H11 và di tích Bà Chúa Xứ - được xem đền thờ thần Surya; các di tích
93GT.M1, 93GT.M2, 93GT.M3, 93GT.M4, 93GT.M5 và 10GT.H10 - đền thần
Vishnu và thần Siva; Gò Minh Sư - đền thần Siva [127, tr.71-90]... Trong các di tích
này, xuất hiện dày đặc các di vật, tượng thờ hoặc các hoá thân của các vị thần, phật.
Đặc biệt, tại đây, các nhà khảo cổ học còn tìm được 8 bản văn khắc. Trong đó, có
41
bản văn khắc (ký hiệu K5) nhắc đã tới việc hoàng tử Gunavarman thuộc dòng tộc
Kaundinya cho dựng một tượng đôi bàn chân của thần Vishnu, người được mệnh
danh là Sri Cakratirtha. Văn bia còn cho biết, đây chính là vùng đầm lầy được chinh
phục bởi vua Phù Nam và phong cho con trai là Gunavarman cai quản. Như vậy, có
thể xem, di tích Gò Tháp là một trung tâm tôn giáo, chính trị quan trọng của vương
quốc Phù Nam.
Di tích Nền Chùa (Tà Keo) thuộc xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên
Giang. Nơi đây từng được xem là trung tâm thương mại lớn nhất vùng Đông Nam
Á lúc bấy giờ. Qua các đợt khảo sát, L.Malleret đã cho rằng, di tích này được coi là
“tiền cảng” của “thành phố cảng Óc Eo” [15], là một trung tâm văn minh và là vùng
cảng thị cực Tây Nam của vương quốc Phù Nam. Sự cường thịnh của nền văn minh
này được thể hiện qua các dấu tích để lại.
Đặc biệt, nơi đây phát hiện nền móng của một ngôi đền khá lớn được xây
bằng đá, dạng hình chữ nhật dài 25,6m, rộng 16,3m [16, tr.335]. Toàn bộ phía trên
đã bị sụp đổ, đá được phủ lên toàn bộ mặt gò. Nền móng được nện chặt bằng đất sét
rất vững chắc, có tác dụng chống nước muối ngấm vào. Bên ngoài có một chiếc
linga bị vỡ còn phân nửa bằng sa thạch, cao khoảng 1m cùng với nhiều hiện vật
khác như linga, yoni bằng đá, con dấu khắc hình thuyền, hình ốc, bùa đeo đúc hình
người, mảnh gốm có hình nghệ nhân chơi đàn, nhiều hạt chuỗi, đá quý… Tại đây,
19 ngôi mộ hoả táng cũng được phát hiện. Trong các ngôi mộ có chôn theo nhiều lá
vàng mỏng có in hình người, hình thần, hình bò Nandin, rùa, rắn, những đồng tiền,
nhẫn, đá quý…
Như vậy, di tích Nền Chùa ngoài những dấu tích của cư trú, cảng thị thì còn
có nhiều dấu tích của một trung tâm tôn giáo. Di tích có vai trò rất quan trọng, phản
ánh nhiều mặt về hoạt động kinh tế, tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân nơi đây.
Di tích Gò Xoài nằm trong quần thể di tích Bình Tả, thuộc xã Đức Hoà Hạ,
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đây là một quần thể di tích có từ thời tiền sử tới sơ
sử, được phân bố theo các trục lộ cổ và sông Vàm Cỏ Ðông. Cụm di tích này có
niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN bao gồm các di tích như: Gò Xoài, Gò
Đồn, Gò Năm Tước.
42
Di tích Gò Xoài được xây bằng gạch, có dạng gần vuông với mỗi cạnh dài
khoảng 20 mét, nền móng của di tích có cấu tạo rất chắc chắn và phức tạp, gồm
nhiều loại vật liệu khác nhau như cuội basalt (badan), sỏi đỏ, cát trắng… Kiến trúc
Gò Xoài có hố thờ hình vuông, cạnh 2,2m; sâu trên 2,5m, ở gần đáy hố thờ đã phát
hiện được tro và một bộ sưu tập hiện vật quý giá gồm nhiều mảnh vàng nhỏ, mỏng
khắc chạm hình những linh vật như rùa, rắn, voi; những chiếc nhẫn và mề đay nạm
đá quý; một bản văn minh Pali lai gồm 5 dòng: dòng thứ nhất ghi một đoạn Pháp
Thân Kệ, dòng thứ hai ghi một đoạn Kinh Pháp Cú (cả hai đoạn minh văn trên đều
thuộc về Phật giáo), dạng mẫu tự trên minh văn này được nhận định thuộc loại mẫu
tự Nam Ấn (Deccan), thế kỷ VIII - IX SCN [93]. Căn cứ trên các sưu tập di vật,
dạng thể và quy mô của các kiến trúc và nhất là nội dung của bản minh văn đã phát
hiện tại di tích Gò Xoài, có thể nhận định rằng, đây là một trong những di tích quan
trọng của văn hóa Óc Eo.
- Các khu cư trú chủ yếu
Cư dân Óc Eo ở TNB thường cư trú trong những vùng thuộc châu thổ thấp
trũng miền Tây sông Hậu, vùng rừng U Minh, vùng Đồng Tháp Mười. Những loại
hình di tích này có đặc điểm chung là phân bố trên các gò đất sét pha cát, diện tích
rộng trung bình từ 1.000 - 6.000m2, có tầng văn hóa mỏng, đã bị xáo trộn do mưa lũ
hoặc do nhiều lý do khác nhau, đặc biệt là việc canh tác của con người hiện nay trên
bề mặt di chỉ. Trong tầng văn hóa của các di tích này, ngoài mảnh gốm thô, mịn,
mang đặc điểm của truyền thống gốm Óc Eo, ít tìm thấy hiện vật bằng kim loại
hoặc đá quý.
Di tích cư trú là loại hình di tích quan trọng, nhưng cho đến nay, loại hình
này ít được khai quật, nghiên cứu triệt để. Qua nhiều cuộc khảo sát và kết quả một
số cuộc khai quật cho thấy, cư dân Óc Eo cư trú trên nhiều địa hình khác nhau, cuộc
sống của con người khá đa dạng, phong phú và đã có những biểu hiện của một cuộc
sống ổn định (tầng văn hóa cư trú dày trên dưới 1m, mạng lưới thuỷ lợi rộng lớn.
Ngoài các dấu tích nhà sàn còn có nhiều kiến trúc bằng vật liệu nặng…). Những di
tích ở miền TNB phần lớn được phân bố tại các tụ điểm, đầu mối của những tuyến
giao thông và được nối liền với nhau bằng những kênh đào cổ tạo thành một hệ
43
thống đường thuỷ rộng lớn, nhất là trên phần châu thổ phía nam sông Hậu. Các di
tích cư trú tiêu biểu ở vùng TNB:
- Di tích gò Cây Da nằm trong quần thể di tích Óc Eo - Ba Thê, thuộc huyện
Thoại Sơn, tỉnh An Giang có tầng văn hóa dày trung bình từ 1m trở lên, nằm dưới
lớp đất màu xám đen chứa mảnh gốm, gạch vỡ, xương động vật, công cụ bằng gỗ,
bát gáo dừa, cọc gỗ, vò gốm thô, chum nhỏ, nồi đáy tròn. Tại đây, đã phát hiện
nhiều dấu vết của kiến trúc nhà sàn (có thể được dựng trên mặt đất hoặc trên mặt
nước), với những cọc gỗ tập trung thành nhóm trên cánh đồng, ven chân gò và cả
dưới lòng lung, có độ sâu từ 2,2m trở xuống với sự hiện diện của những vùng than
tro, than cục, những mảnh gốm vỡ lớn, những hố tròn, vùng đất cháy đen cùng với
những di vật như bánh chì, hạt cườm, xương răng động vật [11, tr.369].
- Di chỉ cư trú Gò Minh Sư (Gò Tháp) nay thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp. Qua kết quả khai quật cho thấy, Gò Minh Sư gồm 3 tầng
văn hóa, mỗi tầng có một đặc trưng riêng, trong đó, tầng văn hóa 1 và 2 mang tính
chất của di tích cư trú và đền tháp. Tầng văn hóa thứ 2 tập trung nhiều cọc nhà sàn,
mảnh gốm, mai rùa và xương răng động vật…
- Di tích Gò Thành: Di tích Gò Thành thuộc ấp Tân Thành, xã Tân Thuận
Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Năm 1987, Viện KHXH tại TP.HCM đã
khai quật và phát hiện 12 hố thờ và mộ có dạng hình giếng nằm rải rác trên mặt gò
và nhiều mảnh gốm, bình có vòi, vỏ trái cây, thanh gỗ có vết gia công, xương trâu
bò, xương cá cùng nhiều vết than củi, than tro. Tại hố thám sát 89-GT.TS dưới độ
sâu 1,7m đã phát hiện được dấu vết của một lớp lá dừa nước lẫn phía dưới là những
thanh gỗ có vết gia công [26, tr.160] cùng với những vết tích của quá trình cư trú và
sinh hoạt của cư dân Óc Eo. Như vậy có thể đoán định, di tích Gò Thành ngoài khu
đền tháp còn có tính chất là khu cư trú, tập trung dân cư Óc Eo sinh sống. Ngoài các
dấu tích trên gò, dấu tích cư trú còn được phát hiện phân bố rải rác trên các cánh
ruộng xung quanh.
- Các khu xưởng chế tác thủ công
Trong văn hóa Óc Eo, các ngành nghề thủ công đặc biệt phát triển. Điều này
có thể dễ dàng nhận thấy, phần lớn các di tích thuộc văn hóa Óc Eo đều phát hiện
44
dấu tích của xưởng thủ công. Trong đó, nghề chế tác kim hoàn là phát triển nhất, để
lại nhiều dấu vết trong các di tích, tạo thành những khu chế tác thủ công quan trọng
trong văn hóa Óc Eo. Di tích xưởng thủ công kim hoàn thường lưu lại dấu tích ở lớp
đất văn hóa cư trú, thành những vũng, ô có diện tích không lớn. Trong những vũng, ô
đó thường tích tụ ở mật độ cao những hạt vàng nhỏ như trứng cá, những mạt, bụi, lá
vàng nhỏ, các mảnh nguyên liệu đá quý, tinh thể thạch anh; thậm chí, có cả những
dụng cụ làm đồ kim hoàn. Theo thống kê sơ bộ, có đến 30/45 di tích có dấu tích liên
quan đến hoạt động của nghề thủ công [17, tr.415]. Loại di tích này thường được phát
hiện trong các vùng thấp trũng như ở di tích Óc Eo, Phum Quao, Đá Nổi… (An
Giang), Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên Giang), Vĩnh Hưng (Bạc Liêu), Nhơn Thành
(Cần Thơ), Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò Hàng, Gò Dung (Long An)… Đặc biệt, tại di
tích Gò Hàng (còn gọi là “Cánh đồng vàng”) thuộc địa phận xã Vĩnh Đại, huyện Vĩnh
Hưng, tỉnh Long An có dấu tích của xưởng chế tác kim hoàn. Trên bề mặt di tích có
nhiều di vật như gốm, cọc gỗ, nhiều hạt chuỗi bằng thuỷ tinh, đất nung, đá quý, đặc
biệt là nhiều mạt vàng nhỏ li ti như trứng cá, vàng cám và các loại đồ vật kim loại
khác… Tại một địa điểm gần trung tâm của gò, còn phát hiện được một “sàn” rất
cứng cùng nhiều mảnh gốm mịn kết dính ở phần địa tầng bị xáo trộn [26, tr.160].
Như vậy, có thể nghĩ rằng, Gò Hàng là nơi có di tích thủ công kim hoàn và sản xuất
gốm lớn nhất, sản phẩm đa dạng, số lượng lớn. Những năm 80 của thế kỷ XIX, hàng
ngàn người từ khắp nơi về đây để đào bới, có nhiều người đã giàu lên nhờ vào công
việc này. Cũng chính vì vậy mà di tích bị xáo trộn và huỷ hoại nghiêm trọng.
Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo được phát hiện rất nhiều, phức tạp và đa dạng
về loại hình, chất liệu, kỹ thuật chế tác và cả về hoa văn trang trí. Trong từng di tích
có sự khác nhau về số lượng, nhưng có những đặc điểm khá giống nhau về nội
dung. Điều này cho thấy, nghề sản xuất gốm thời kỳ này rất phát triển, tuy nhiên, nó
không tạo thành những khu xưởng chế tác thủ công với quy mô lớn. Các xưởng sản
xuất đồ gốm thường nằm trong các khu cư trú hoặc các trung tâm thương mại.
Chẳng hạn, trong các khu di tích lớn như Óc Eo, Cạnh Đền, Gò Tháp… đã có dấu
tích của xưởng làm đồ gốm, gồm có những dụng cụ làm gốm như: bàn xoa, bàn
dập, bàn xoay và nhiều bán thành phẩm khác.
45
1.3.2.2. Các loại hình di vật tiêu biểu
Các loại di vật trong văn hóa Óc Eo đã được phát hiện, thu thập từ đầu thế kỷ
XIX, với số lượng lớn, phong phú các chủng loại với các chất liệu khác nhau như:
đá, đất nung, đồng, sắt, vàng, gỗ… Số lượng di vật được phát hiện, công bố và lưu
giữ đến nay có tới hàng nghìn, bao gồm các hiện vật được phát hiện trong các đợt
khai quật và các hiện vật sưu tầm trong nhân dân. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau,
nên hiện nay chưa có một thống kê chính thức về các hiện vật được phát hiện trong
các di tích thuộc văn hóa Óc Eo. Theo số liệu của BTLS HCM hiện có khoảng
1.860 di vật đang được bảo quản tại đây, trong đó, có hơn 500 di vật sưu tầm, khai
quật từ sau năm 1975. Chỉ riêng ở BTLA, bộ sưu tập về đá ngọc đã lên đến 695 di
vật, chế tác từ 6 chất liệu với 20 loại hình khác nhau [1, tr.277-278]. Ngoài ra, số
lượng di vật được trưng bày trong nhà truyền thống ở các tỉnh, cũng như những bộ
sưu tập của tư nhân chiếm số lượng đáng kể với nhiều hiện vật có giá trị.
- Gốm là di vật quan trọng, được tìm thấy nhiều nhất trong văn hóa Óc Eo, nó
gắn liền với đời sống sinh hoạt thường nhật của cư dân nơi đây, cũng như phản ánh
nhiều mặt đời sống văn hóa - xã hội của con người trong từng giai đoạn tồn tại và
phát triển trên vùng đất này. Đồ gốm có mặt hầu hết trong các di tích thuộc văn hóa
Óc Eo ở ĐBSCL, nhưng nhiều nhất là trong các di tích cư trú và các ngôi mộ táng.
Qua các cuộc khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện hàng nghìn di vật gốm liên
quan đến hoạt động sản xuất cũng như sinh hoạt hàng ngày như nồi, nồi nấu kim loại,
vò, bình kendi, chậu rửa… Tuy nhiên, đồ gốm còn nguyên vẹn không nhiều, chủ yếu
là những mảnh gốm được đập nhỏ chôn theo người chết? với quan niệm để cho
những người đã mất sang thế giới bên kia sử dụng.
Tại các di tích như Óc Eo, Gò Tháp, Nền Chùa, Giồng Xoài… các nhà khảo
cổ học đã phát hiện được nhiều loại hình gốm tiêu biểu như các loại gốm đồ gia
dụng, đồ thờ cúng và công cụ sản xuất.
+ Đồ gốm gia dụng:
Hũ, lọ là những đồ đựng có nhiều kích cỡ to nhỏ, loại hình, kiểu dáng khác
nhau phù hợp với nhu cầu cất trữ các loại đồ ăn, hạt giống của mỗi gia đình. Có
những cái miệng nhỏ, cổ ngắn, bản miệng loe cong (như ở Gò Hàng), cũng có
46
những cái cổ cao, chân đế thấp, đường kính miệng rộng (như ở Gò Xoài)… Nhưng
đa số hũ, lọ gốm trong văn hóa Óc Eo đều có thân phình rộng, chiều rộng của thân
luôn lớn hơn chiều cao [PL2.1, h18-21, tr.196]. Thân thường được trang trí bởi các
hoa văn hình tam giác, hình sóng nước hoặc các đường tròn đồng tâm…
Ấm (bình có vòi, Kendi) [PL2.1, h28-32, tr.198] là hiện vật đặc trưng, rất phổ
biến trong văn hóa Óc Eo ở vùng đồng bằng Nam Bộ. Mọi người thường biết đến
chiếc bình có vòi như là một loại đồ dùng đựng rượu hoặc nước trong việc thờ
cúng, tuy nhiên, nó còn được dùng đựng hay để đun nước uống...
Chai gốm là loại đồ đựng khá độc đáo, được phát hiện chủ yếu ở di tích Nền
Chùa, Gò Tháp và Giồng Xoài. Có hình dáng, kích thước gần giống nhau: có miệng
cao, mép miệng tròn và như trào ra ngoài, cổ hẹp, thân hình ống tròn dài, đáy tròn.
Trên thân trang trí hoa văn chải thô xiên theo chiều dọc. Chất liệu là đất sét pha cát
trộn bã thực vật, xương gốm màu xám đen hoặc xám nâu, áo ngoài màu đỏ son có
nhiều chỗ bị tróc, còn lại màu xám nhạt.
Chậu có quai cầm có nhiều loại hình, kiểu dáng khác nhau nhưng có chung
một đặc điểm là được sản xuất bằng gốm thô, dày, xương gốm màu xám đen, áo
gốm màu đỏ gạch, miệng loe. Chiếc chậu có quai cầm được phát hiện tại Gò Tháp,
hiện được lưu giữ tại BTĐT (BTĐT.CV.1131/Gm.50.2), có kích thước và hình
dáng khá độc đáo. Chậu có miệng loe xiên, bẻ hai gờ gấp khúc, thân và đáy tròn,
sâu lòng, trên vành miệng có một quai cầm lớn.
Tô, bát, đĩa được phát hiện chủ yếu ở Gò Tháp, An Giang và Long An. Qua
các hiện vật cho thấy, trong văn hóa Óc Eo có rất nhiều bát nhỏ được sản xuất, với
những kích cỡ khác nhau như bát nhỏ, bát vừa, tô, đĩa. Những di vật này thường
được làm bằng loại gốm mịn, kỹ thuật nặn bằng bàn xoay, những chiếc bát thô,
nặng, áo gốm dễ bong tróc, không bóng, không trang trí hoa văn. Ở Gò Minh Sư đã
phát hiện một chiếc bát bồng. Đây là chiếc bát bồng còn nguyên vẹn nhất được tìm
thấy ở miền TNB, được trang trí 3 hàng chấm màu nâu đen ở vành miệng, có chân
đế thấp, miệng loe cong.
Nồi là loại hình được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Óc
Eo, nhưng đa số đều bị vỡ. Chúng có sự khác nhau về kiểu dáng, kích thước nhưng
47
đều có chung một đặc điểm là miệng loe, cổ lượn, bụng nở, đáy tròn rất thuận tiện
trong việc đun nấu. Phía trên thân thường được trang trí các loại hoa văn in thừng,
hoa văn chải tạo thành những đường xiên chéo hoặc đường dọc.
Bếp lò (cà ràng) [PL2.1, h11, tr.194] là loại bếp lò gốm đã được tìm thấy rất
nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Đồng Nai thời tiền sử, đồng thời, đây cũng là
di vật tiêu biểu được tìm thấy trong nhiều các di tích thuộc văn hóa Óc Eo. Tuy chỉ
còn các mảnh vỡ nhưng có thể nhận dạng di vật này qua sự so sánh với loại bếp lò
bằng gốm hiện nay vẫn phổ biến ở ĐBSCL, được người Khmer gọi là “cà
ràng”. Bếp lò bằng gốm xuất hiện trong nhiều di tích cư trú và cả trong mộ
táng (với chức năng là đồ tuỳ táng), trở thành di vật đặc trưng của văn hóa Óc Eo.
Nắp đậy được phát hiện rất nhiều trong các di tích văn hóa Óc Eo với các
kiểu dáng, kích thước và chức năng khác nhau. Đây là đồ dùng phổ biến, được tìm
thấy hầu như ở khắp các di tích văn hóa Óc Eo ở vùng đồng bằng miền TNB, và là
một trong những loại hình đồ gốm điển hình của nền văn hóa này.
Đèn gốm là di vật khá hiếm, chỉ mới tìm thấy ở các di tích Óc Eo và Nền
Chùa. Nó được làm bằng đất, chắc nặng, đế hình đĩa có vành, đường kính lớn hơn
đĩa đèn. Phía trên đặt một đĩa đèn đường kính nhỏ hơn đế, đĩa này có chỗ lõm để
gác bấc đèn. Có thể có các loại đĩa đèn đơn giản hơn, chỉ nhận rõ bằng một phần
lõm nhỏ ở phía trên.
+ Các di vật gốm được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo hoặc dùng để thờ
cúng thường được làm bằng các loại gốm mịn. Cũng chính vì chịu ảnh hưởng của
những quy định tôn giáo mà các loại hình gốm thuộc dòng gốm mịn có tính ổn định
và thống nhất cao về mặt loại hình và có mặt hầu hết ở các di tích thuộc văn hóa Óc
Eo ở miền TNB. Về cơ bản, cấu trúc loại hình, chất liệu hầu như không thay đổi,
luôn tuân thủ theo một khuôn mẫu được định sẵn. Những di vật gốm này “có xuất
xứ từ Ấn Độ, có đặc điểm riêng khác hẳn loại đồ gốm bản địa. Xương của gốm
thường mịn do nguyên liệu được sàng lọc kỹ, tạo dáng khá cận thận và cầu kỳ” [28,
tr.327-328]. Việc tìm thấy nhiều mảnh vỡ của một số loại đồ đựng có áo phủ ngoài,
xương gốm cứng, chắc quanh khu vực các di tích kiến trúc và mộ táng, cùng với
một số hình chạm dập bình, bình có vòi trên đồ trang sức, trên vàng lá… khiến ta
48
nghĩ rằng, đây là loại đồ gốm được sản xuất để phục vụ các tầng lớp trên và dùng
trong các nghi lễ tôn giáo. Trong văn hóa Óc Eo xuất hiện một số đồ dùng được sử
dụng trong nghi lễ tôn giáo như:
Bình Kendi (gồm kendika và kendi) vừa là đồ gia dụng (kendi), vừa sử dụng
trong các nghi lễ tôn giáo, thờ cúng (chủ yếu là kendika, cũng có khi cả kendi).
Bình Kendi có hình dáng rất đặc trưng, được tìm thấy rất nhiều trong văn hóa Óc
Eo. Đây là loại hình tiêu biểu cho sản phẩm chịu ảnh hưởng của đồ gốm Ấn Độ cả
về chất liệu, kỹ thuật cũng như tạo hình. Bình được làm bằng loại gốm mịn, thân
hình cầu, phình tròn ở giữa, thu nhỏ ở cổ và đáy bình. Miệng bình loe cong, nhiều
chiếc có hoa văn khắc vạch tam giác hay sóng nước ở thân, có chiếc tô màu đỏ (thổ
hoàng) hay màu đen chì rất đẹp. Những bình Kendi này thường được tìm thấy trong
các phế tích đền tháp, hầu hết bị gãy vòi hoặc xuất hiện trên các điêu khắc ở trong
tay các vị thần hay Bồ Tát. Tại Gò Tháp còn tìm thấy một cái còn nguyên, là vật
cầm trên cánh tay trái của tượng thần. Điều này chứng tỏ bình Kendi chắc chắn
được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo Bàlamôn.
Ly (cốc có đế cao hay cốc chân đế con tiện) là một trong những hiện vật đặc
trưng của văn hóa Óc Eo ở vùng đồng bằng thấp, được tìm thấy khá nhiều trong các
di tích Óc Eo, Nền Chùa, Gò Hàng và Cạnh Đền... Nó trông giống ly uống sam-
panh ngày nay, kiểu dáng hiện đại, có thân hình bán cầu, chân đế rộng, mép đế xiên
gần ngang, khoảng tiếp giáp giữa thân và đế thóp mạnh, trên thân không có trang trí
hoa văn. Chất liệu là đất sét mịn được người thợ gạn lọc kỹ, không có tạp chất, kỹ
thuật nặn bằng bàn xoay, độ nung cao. Xương và áo gốm có cùng màu hồng gạch,
hồng vàng, trắng xám hoặc xám ghi.
Những chiếc nắp gốm hình tháp có trổ các lỗ nhỏ ở phía trên để thoát hơi khi
sử dụng, có thể được dùng để đậy bình đốt hương trong các nghi lễ hoặc thờ cúng
được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo.
+ Ngoài đồ gốm gia dụng và đồ gốm dùng trong nghi lễ tôn giáo, còn có các
loại công cụ sản xuất bằng gốm như nồi nấu kim loại, bàn dập, chì lưới và dọi xe chỉ…
Nhìn chung, qua tập hợp đồ gốm tìm được trong các di tích ở miền TNB đã
cho thấy tính kết nối truyền thống của đồ gốm thuộc giai đoạn tiền sử ở vùng Nam
49
Đông Dương. Đồ gốm ở đây có những nét giống với gốm Samrong Sen và gốm Sa
Huỳnh, cũng như đồ gốm ở một vài địa điểm khác của Đông Nam Á, kể cả gốm
Đông Sơn ở miền Bắc [124, tr.837]. Tuy nhiên, những điểm gần gũi với gốm Đông
Nam Á không làm mất đi bản sắc của đồ gốm Óc Eo ở miền TNB. Tính bản địa (địa
phương) của đồ gốm Óc Eo ở miền TNB cũng được thể hiện rất rõ qua các di vật
gốm tìm được. Đó là những đồ gốm có cổ và miệng hẹp hay những chiếc ấm có vòi,
những chiếc cà ràng, nồi có nắp đậy ngửa… phù hợp cho cư dân sống trên ghe
xuồng sông nước.
- Các điêu khắc, chủ yếu bằng chất liệu đá và gỗ được phát hiện nhiều trong
các di tích thuộc văn hóa Óc Eo ở miền TNB. Nó thường là những di vật thờ, tượng
thờ Phật giáo và Hindu giáo, được phát hiện trong các di tích có tính chất là trung
tâm tôn giáo, kinh tế, chính trị quan trọng như di tích: Gò Tháp, Gò Thành, Đá Nổi,
Óc Eo… Ngoài ra, các loại hình di vật này trong nhiều trường hợp có liên quan khá
chặt chẽ với các phế tích kiến trúc quan trọng, chẳng hạn như các tượng Vishnu
phát hiện ở Gò Tháp Mười (Gò Tháp, Đồng Tháp), một số tượng phát hiện ở Gò
Thành (Tiền Giang), Nền Chùa (Kiên Giang)… Các điêu khắc này được tìm thấy
trong văn hóa Óc Eo rất phong phú, đa dạng cả về số lượng lẫn loại hình.
+ Tượng Phật giáo: chủ yếu xuất hiện các loại tượng Phật với các chất liệu
và kiểu dáng khác nhau. Trong đó, tượng Phật bằng gỗ được phát hiện nhiều nhất.
Tượng nằm rải rác trong các di tích Óc Eo ở miền TNB, tập trung nhiều nhất ở tỉnh
Đồng Tháp, là nơi có nhiều loại gỗ quý, hiếm. Theo các nguồn tư liệu, hiện nay, “có
khoảng 28 pho tượng và 2 bàn tay tượng Phật bằng gỗ được phát hiện ở ĐBSCL.
Trong đó, Gò Tháp là nơi xuất lộ nhiều tượng gỗ nhất, có 22 tượng và mảnh vỡ”
[85, tr.42]. Phần lớn, các tượng đều trong tình trạng bị gãy vỡ, mất đầu, mất cánh
tay hoặc bệ tượng do thời gian và điều kiện môi trường, cũng có tượng bị sơn phết (2
tượng được phát hiện tại Gò Tháp) nên rất khó nhận ra được đặc trưng của chúng.
Tượng Phật bằng đá mặc dù khó thể hiện hơn các chất liệu mềm khác, nhưng
là di vật được phát hiện khá nhiều (có khoảng 22 tượng và mảnh vở [85, tr.48])
trong các di tích Óc Eo ở vùng TNB. Phần lớn là các tượng trôi nổi, không nằm
trong địa tầng khảo cổ. Các tượng được thể hiện trong nhiều tư thế khác nhau,
50
nhưng nhiều nhất vẫn là ở tư thế ngồi thiền, nét mặt mang dáng vẻ của cư dân Đông
Nam Á, mũi nở, miệng rộng.
Tượng Phật bằng đồng chiếm số lượng ít, hình khối nhỏ, nhưng vẫn thể hiện
được đầy đủ chân dung với gương mặt từ bi, nhân hậu. Loại tượng Phật bằng đồng
hiện nay mới chỉ phát hiện được 2 tượng còn nguyên vẹn và 1 đầu tượng. Đầu
tượng bằng đồng được phát hiện tại di tích Ba Thê, có niên đại khoảng thế kỷ II -
III. Hai tượng còn lại được phát hiện tại Gò Cây Thị (Óc Eo - An Giang), đều có tư
thế đứng trên toà sen, đỉnh đầu có chóp nhọn tròn, tóc xoăn mịn từng cụm nhỏ, nét
mặt hiền từ, mắt khép hờ, có niên đại khoảng thế kỷ V. Hiện nay, các tượng này
được trưng bày tại BTAG và BTLS HCM.
Tượng Phật bằng đất nung tìm được không nhiều, loại này mới chỉ tìm thấy 2
tượng màu xám ở Gò Tháp, tượng bị vỡ mất đầu và chân. Tuy nhiên, qua những
phần còn lại của tượng cho thấy, tượng Phật này được thể hiện trong tư thế ngồi
thiền, hai chân vuông góc với đùi, niên đại của nó có thể vào thế kỷ VII.
Các vị Bồ Tát: Cùng với sự phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ và Trung Hoa,
Phật giáo Đại thừa xuất hiện làm thay đổi đời sống tinh thần của cư dân vương quốc
Phù Nam. Đó là sự “xuất hiện của các vị Bồ Tát (Bodhisattva), những người đã giác
ngộ Phật đạo nhưng từ chối cõi Niết Bàn và nguyện dẫn dắt chúng sinh đi theo
chính đạo” [85, tr.56]. Cho đến nay, người ta mới chỉ bắt gặp sự có mặt của hai vị là
Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokitesvara, đôi khi là sự kết hợp dưới dạng Lokesvara)
và Di Lặc Bồ Tát (Maitreya).
Quan Thế Âm Bồ Tát: hiện nay chỉ mới phát hiện 2 tượng, cả hai đều được
làm bằng đồng. Tượng thứ nhất phát hiện tại di tích Óc Eo (An Giang), tượng này
rất nhỏ, chỉ mang tích chất phù điêu, khoảng thế kỷ IV - V. Tượng thứ hai được
phát hiện ở chùa Ông Đùng (Trà Vinh) có niên đại muộn hơn, khoảng thế kỷ VII
[85, tr.56] với khuôn mặt đầy đặn, tóc xoăn được búi cao, trang phục dài tới đầu gối.
Di Lặc Bồ Tát chỉ phát hiện được 3 tượng ở ĐBSCL. Các tượng đều có niên
đại muộn, khoảng cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII: tượng thứ nhất được phát hiện ở
Văt Cett Dei (Trà Vinh), khuôn mặt thon tròn, thân hình nở nang, vai rộng, ngực nở,
phía dưới quấn sampot ngắn đến gối, trên không mặc áo; Tượng thứ hai phát hiện
51
được ở Trung Điền (Vĩnh Long), mặt tròn to, bụng hơi phệ, cơ bắp nổi rõ, tượng có
sự hoà lẫn giữa hai yếu tố Vishnu và Maitreya [PL2.12, h.4, tr.229]; tượng thứ ba
do một người dân tìm thấy ở Rạch Giá [PL2.12, h.10, tr.231], trang phục lộng lẫy,
quý phái, có đeo trang sức như vòng cổ, dây thắt lưng và vương miện [85, tr.56-57].
+ Tượng Hindu giáo: Hindu giáo luôn là tôn giáo chính, lớn nhất và có ảnh
hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp nhân dân Ấn Độ. Trong Hindu giáo, các vị thần đã
được trừu tượng hoá thành những biểu tượng, tượng trưng cho những hiện tượng
thiên nhiên được quy tụ lại thành tam vị nhất thể (Trimurti), đó là Braham, Shiva,
Vishnu, đại diện cho ba lực lượng phổ biến của vũ trụ: sáng tạo, bảo vệ và huỷ diệt.
Đây cũng là ba vị thần tối cao của Ấn Độ giáo. Tượng Hindu giáo được tìm thấy
khá nhiều trong các di tích văn hóa Óc Eo, trong đó, tượng thần Vishnu, Siva và
Brahma được tìm thấy nhiều nhất.
Trong đó, Tượng thần Vishnu được phát hiện rất nhiều (khoảng 54 tượng và
một số mảnh vỡ), nhưng hầu hết đều trong tình trạng bị hư hại, không còn nguyên
vẹn. Đa số tượng được làm bằng đá, chỉ có 1 tượng duy nhất làm bằng đồng được
phát hiện ở Kiên Giang.
Tượng thần Siva xuất hiện ít hơn, đa số tượng xuất hiện ở giai đoạn rất muộn
(khoảng thế kỷ XII - XIII).
Tượng thần Brahma: Cho đến nay, ở vùng ĐBSCL mới chỉ phát hiện khoảng
4 tượng. Tất cả đều được thể hiện dưới hình thức vị thần có 4 khuôn mặt nhìn ra 4
hướng với đầu đội mũ trụ cao, thu nhỏ dần lên, tóc dài uốn cao tới đỉnh, gương mặt
thanh tú. Tượng đáng chú ý nhất được phát hiện ở phía nam gò Giồng Xoài thuộc
khu di tích Óc Eo - Ba Thê. Tượng được làm bằng đá sa thạch, có niên đại khoảng
thế kỷ VI - VII. Tượng bị vỡ chỉ còn đầu, phần vai và một phần ngực bên phải. Một
tượng đồng ở khu vực Tháp Vĩnh Hưng, tượng bị gãy phần thân chỉ còn lại phần đầu.
Tượng thần Surya: Cho đến nay, có 4 tượng thần Surya được phát hiện.
Tượng thứ nhất được phát hiện ở Tháp Mười (Đồng Tháp) bị gãy hai tay và chân,
hiện đang được trưng bày tại BTLS HCM. Tượng thứ hai được phát hiện ở Ba Thê
(An Giang) [PL2.12, h.2, tr.229]. Hai tượng còn lại đều được phát hiện ở Tây Ninh,
đều đã bị gãy tay chân.
52
Tượng thần Ganesa trong các di tích ở ĐBSCL phát hiện không nhiều, chủ
yếu ở các di tích Trường Sơn, Gò Thành, Cát Tiên, Óc Eo… Trong số 9 tượng được
tìm thấy ở vùng ĐBSCL thì có 7 tượng trong tư thế đứng, còn 2 tượng ngồi.
Tượng nam thần: Tượng nam thần được tìm thấy rất nhiều trong các di tích
Óc Eo ở ĐBSCL. Tất cả các tượng này đều trong tình trạng bị gãy, vỡ, mất đầu,
chân tay, không còn rõ các biểu tượng. Các tượng mới liên tục được phát hiện trong
các đợt khảo sát, khai quật cho nên việc phân loại cũng như thống kê số lượng
tượng một cách đầy đủ khó mà thực hiện được. Tuy nhiên, dựa vào những đặc
điểm, trang phục, có thể chia tượng thành ba nhóm: tượng mặc trang phục dày
nhiều nếp gấp, trong tư thế đứng chống nạnh; tượng nam thần mặc dhoti; Các tượng
nam thần đứng thẳng, mặc sampot [85, tr.105].
Tượng nữ thần: Giống tượng nam thần, các tượng nữ thần cũng trong tình
trạng gãy vỡ, nên rất khó xác định một cách chính xác tên gọi và các đặc trưng của
nó. Bên cạnh đó, các tượng nữ thần trong văn hóa Óc Eo thường có xu hướng
Vishnu hoá, nên việc nhận diện tượng càng khó hơn. Tuy nhiên, dựa vào đặc điểm
một số tượng chưa bị vỡ có thể thấy có các tượng nữ thần sau:
Nữ thần Mahisasuramardini: Đây là loại tượng được phát hiện nhiều nhất
trong số các nữ thần ở ĐBSCL, tượng thường trong thế đứng, có 4 tay cầm các biểu
tượng, đứng trên bệ có hình đầu trâu hoặc trên lưng trâu. Tượng được phát hiện ở
nhiều địa điểm khác nhau như: Kè Một phát hiện 1 tượng bằng đồng, thế kỷ VI - VII,
ở Cát Tiên phát hiện được tượng nữ thần đứng trên lưng 1 con trâu khoảng thế kỷ VII;
và một số địa điểm khác như An Giang, Trà Vinh [85, tr.107]…
Nữ thần Laksmi: Ở ĐBSCL, tượng nữ thần Laksmi được tìm thấy không
nhiều, đa số đều bị gãy, vỡ do thời gian. Các tượng thường có chung một đặc trưng,
đó là hông nở, ngực đầy đặn, tượng thường được làm bằng chất liệu đá. Trong số
những tượng nữ thần Laksmi được tìm thấy ở ĐBSCL, thì chỉ có duy nhất tượng ở Sóc
Trăng còn nguyên vẹn (nay được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Thuật).
Các tượng nữ thần khác: Ngoài những tượng có đặc điểm riêng có thể nhận
biết và phân loại được, còn có một số tượng do gãy vỡ chỉ còn lại đầu hoặc thân nên
khó có thể xếp vào đó là tượng của thần nào như đầu tượng ở Gò Tháp có khuôn mặt
53
thon, dài, “lông mày, mũi và đôi mắt thể hiện một vẻ đẹp nhẹ nhàng thánh thiện” [85,
tr.110]; hay tượng được phát hiện ở Châu Đốc, An Giang bị gãy mất đầu, chỉ còn
ngang ngực trở xuống, rất có thể đây là tượng của nữ thần Uma.
Nhìn chung, các tượng nam thần, nữ thần ở ĐBSCL xuất hiện khá nhiều,
nhưng thường trong tình trạng bị gãy, vỡ khó xác định được tên gọi cho tượng.
Tượng nam thần xuất hiện trong cả ba giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một đặc trưng
riêng, còn các tượng nữ thần chủ yếu xuất hiện trong thế kỷ VI - VIII, đều có xu
hướng nhấn mạnh tính nữ, mang tính phồn thực với bộ ngực đầy đặn, hông to, thân
hình nở nang của cư dân nông nghiệp.
+ Các linh vật (linga, linga-yoni, yoni, bệ thờ) là những sưu tập hiện vật đặc
sắc, phổ biến được phát hiện nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo ở miền
TNB. Cho đến nay, số lượng các loại di vật này có khoảng 60 cái đã được thống kê,
phân loại, trong đó, linga có khoảng 22 cái; linga-yoni có khoảng 10 bộ; yoni có
khoảng 18 cái và nhiều loại bệ thờ khác [26, tr.306-328]. Ngoài ra, còn nhiều di vật
nằm rải rác trong nhiều bảo tàng, nhà văn hóa hoặc trong nhà dân nên chưa thống
kê, phân loại, thu gom được. Các sưu tập di vật này có kích thước lớn nhỏ khá
chênh lệch nhau, được làm bằng các loại chất liệu khác nhau như: đá hoa cương, sa
thạch, diệp thạch, đá thuỷ tinh, đất nung…
- Công cụ sản xuất trong văn hóa Óc Eo được phát hiện không nhiều, nhưng
có nhiều loại khác nhau, phản ánh những hoạt động sản xuất phong phú của cư dân
nơi đây.
Đá có lỗ được tìm thấy không nhiều, chủ yếu ở di tích Óc Eo (3 bản), được
làm bằng loại diệp thạch màu xám tro, dạng hình khối chữ nhật dẹt, bị gãy vỡ. Trên
bề mặt của các khối đá này có 2 - 3 lỗ hình bán cầu nằm thành hàng. Có thể đây là
những lỗ khuôn đúc các vật hình bán cầu hoặc là loại đồ nghề của những người thợ
kim hoàn.
Khuôn đúc hoặc khuôn ép được phát hiện trong các di tích Óc Eo, Gò Tháp
và Nhơn Thành. Trong đó, có hai khuôn ở Óc Eo và Gò Tháp được làm bằng sa
thạch màu xám, dạng hình khối chữ nhật dẹt. Trên bề mặt có hình vật đúc là một
khuyên tai hình con cá ngựa tương tự khuyên tai bằng chì tìm thấy ở di tích Đá Nổi.
54
Khuôn ở di tích Nhơn Thành được làm bằng loại diệp thạch, dạng hình khối vuông
dẹt, trên mặt khuôn là một tập hợp nhiều loại hình vật đúc như 2 hình nhẵn, 1
khuyên tai tròn, một khuyên tai hình con đỉa, 1 bùa đeo hình chữ nhật, 1 dây chuyền
đúc liền với 7 hạt hình bán cầu, 1 hình con hươu ngẩng cao cổ, 1 hình lá và dây
cách điệu, 1 hình đúc con bò bị vỡ còn lại hai chân sau [26, tr.376]. Ngoài ra, còn có
một vài khuôn đúc có hình con vật đúc bị vỡ không nhận được hình dạng của nó.
Đá dùng làm mặt giáp khuôn được phát hiện ở di tích Nhơn Thành. Trong đó
có 2 tiêu bản nguyên, 1 vỡ, được làm bằng loại diệp thạch màu xám xanh, dạng hình
khối vuông dẹt, kích thước mỗi cạnh rộng từ 10cm đến 13cm, dày từ 1cm đến 1,4cm
[26, tr.377]. Cả ba hiện vật trên đều có một mặt nhẵn, một mặt có hoa văn trang trí ở
xung quanh rìa cạnh, gồm những hình bông hoa bốn cánh, những đường chéo cắt
nhau, hình tam giác cân và hình những đường dích dắc đơn giản.
Nồi nấu kim loại có dáng nhỏ, có khi chỉ bằng một chiếc chum nhỏ, miệng
hơi thu hẹp, bụng nở ở gần đáy, thân thẳng đứng, đáy bằng ngang. Nồi có thân thấp,
xương gốm khá dày, đặc biệt là ở phần đáy, mặt trong tương đối phẳng, giữa lòng
đáy có dấu tay ấn thành lỗ sâu, mặt ngoài không trang trí hoa văn. Chất liệu là đất sét
pha cát, xương gốm màu xám tro, mặt ngoài màu xám trắng, kỹ thuật nặn bằng tay.
Bàn dập là loại dụng cụ có hình nấm làm bằng chất liệu đất sét lọc kỹ, khá
mịn, màu trắng ngà hay hồng nhạt, rất nhẹ, thuận lợi cho người thợ làm gốm khi cầm.
Mặt xoa hình tròn cong lồi có hoa văn khắc chìm khá sắc nét kiểu chân chim, dấu
nhân hay những đường tròn đồng tâm, cũng có chiếc mặt để trơn láng không có hoa
văn. Có một lỗ nhỏ xuyên dọc chính giữa tay cầm đến tâm mặt xoa.
Chì lưới thu thập trong các di tích Óc Eo (11) và Gò Tháp (2) [26, tr.377].
Bao gồm các loại hình thỏi dài, bánh dẹt chữ nhật, bánh dẹt bầu dục, bánh tròn, hình
cầu và hình viên trụ. Phần lớn các chì lưới đều có rãnh sâu chạy quanh thân, không
có hoặc có từ 2 - 4 lỗ tròn xuyên qua thân để buộc dây. Được làm bằng đất sét mịn
hoặc đất sét pha cát với các màu gạch, xám đen, xám trắng, xám nâu, được nung ở
nhiệt độ khá cao.
Dọi xe sợi [PL2.3, h.21, tr.206] được tìm thấy 32 chiếc, nằm rải rác trong các di
tích Óc Eo, Nền Chùa, Gò Tháp, Cạnh Đền, nhiều nhất là ở Gò Thành [26, tr.377].
55
Chúng gồm các loại: hình quả trám, bán cầu, nón cụt, hình cầu hai đầu dẹt… được
làm bằng loại đất sét mịn, nung ở nhiệt độ cao, rất chắc. Nhiều chiếc có mặt ngoài
khá láng, có các màu đen, xám nâu và xám nhạt, trên thân có lỗ xuyên trục dọc.
Bàn dập: Bàn dập hình nấm phát hiện được 12 chiếc trong các di tích Óc Eo,
Nền Chùa, Cạnh Đền, Thạnh Trungvà Gò Tháp. Còn bàn dập hình e-líp, tìm thấy 8
cái ở các di tích Gò Thành, Cạnh Đền [26, tr.379-381]. Phần lớn những hiện vật này
đều bị gãy một đầu, trên thân được trang trí hoa văn vạch những đường xiên chạy
song song và chéo nhau, tạo thành ô hình bình hành. Chất liệu là đất sét pha cát
mịn, màu đỏ hồng, đỏ sẫm và màu trắng mốc.
- Các loại di vật nhỏ: Các loại hình di vật nhỏ như đồ trang sức, tấm niêm
hàng, tiền… được phát hiện tập trung trong các trung tâm sản xuất và buôn bán, trao
đổi lớn như: Óc Eo, Nền Chùa, Cạnh Đền, Gò Hàng. Các thánh tích tôn giáo phát
hiện tại chỗ trong các trung tâm đền tháp như Gò Tháp, Đá Nổi, Gò Xoài, Nền Chùa.
Đồng tiền là loại di vật hiếm, chiếm số lượng khá ít trong các di tích văn hóa Óc
Eo nhưng chúng có giá trị nghiên cứu lớn. Cùng với con dấu, sự có mặt của đồng tiền
luôn gắn với một xã hội văn minh, có nền kinh tế thị trường [26, tr.377].
Tấm niêm hàng có khi được gọi là bùa hoặc cặp chì (niêm hàng), được làm
bằng chất liệu chì, có loại có chữ, cũng có loại không có chữ. Những tấm niêm hàng
được tìm thấy khá nhiều trong di tích Óc Eo. Theo G.Coedè, căn cứ những chữ
Phạn khắc trên các di vật, thì có lẽ đây là dấu niêm phong các gói hàng chuyên chở
từ nơi này đến nơi khác. Có chữ nêu lên một yêu cầu thận trọng như apramadam
(chú ý), đánh dấu bản sao, lưu Upamité (giống nhau), hoặc đánh dấu quyền sở hữu
dhanapaté (chủ nhân) [92, tr.389]… tất cả những chữ này đều có ý nghĩa giao dịch,
khẳng định chủ quyền.
Đồ trang sức trong văn hóa Óc Eo có số lượng lớn, nhiều loại hình với
những chất liệu khác nhau. Về mặt chất liệu, đồ trang sức khá phong phú, đa dạng
gồm vàng, bạc, đá quý, mã não. Từ những chất liệu đó, người thợ thủ công chế thạo
thành các đồ trang sức như vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi, vật đeo, nhẫn… Sưu tập
hiện vật lần đầu tiên về văn hóa Óc Eo với 1.062 hạt ngọc, 1.311 di vật vàng nặng
tới 1.120gram do L.Malleret công bố đã cho thấy, đồ trang sức là nét đặc sắc của
56
nền văn hóa này. Vàng là đồ trang sức phổ biến trong văn hóa Óc Eo. Vàng được
gia công thành các loại: lá dát mỏng có khắc hình tượng Phật, tượng thần, chim,
thú, cá; nhẫn, vật đeo, khuyên tai…
Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn phát hiện nhiều vật dụng ngoại nhập như:
2 huy chương vàng đúc nổi hình Hoàng đế La Mã Antoninus (138 - 161) và
M.Aurelius (161 - 180), một đèn đồng Ba Tư kiểu dáng Sassanid (226 - 652), một
phần chiếc gương đồng Trung Quốc thời hậu Hán (25 - 220), một chữ Mã Lai khắc
trên mặt nhẫn ngọc, 12 mảnh thiếc làm nhẫn, dây chuyền, vòng tay khắc chữ
Brahmi [110, tr.39].
Nhìn chung, các di vật ở đây đa dạng về loại hình với trình độ về kỹ thuật và
thẩm mỹ cao, có những sắc thái riêng, độc đáo, thể hiện yếu tố văn hóa của từng
vùng, đồng thời, cũng có những đặc trưng chung của văn hóa Óc Eo ở TNB. Các di
vật là những tư liệu để tìm hiểu các ngành nghề thủ công, những phong tục tập quán
trong xã hội của cư dân Óc Eo cũng như mối quan hệ với các nước láng giềng.
Chính nó đã góp phần khẳng định nhiều mặt hoạt động của đời sống trong các di
tích văn hóa Óc Eo.
Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã hệ thống hoá các khái niệm có liên quan đến
đề tài như Văn hóa, Đời sống văn hóa, Văn hóa khảo cổ và Văn hóa Óc Eo để hiểu
được bản chất của nó, từ đó, có hướng đi đúng đắn. Các khái niệm này có tính chất
“chìa khoá” mở ra hướng nghiên cứu cho đề tài về đời sống văn hóa của cư dân Óc
Eo ở miền TNB. Nó đem đến sự thống nhất tạm thời, tránh hiểu lầm trong khuôn
khổ một luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học.
ĐBSCL hay còn gọi là TNB là một vùng châu thổ mới được hình thành
khoảng hơn 3.000 năm. Trải qua quá trình bồi lắng phù sa của sông Mê Kông và
những đợt biển tiến, biển thoái, sự vận động của vỏ trái đất hàng trăm triệu năm đã
hình thành nên vùng châu thổ phì nhiêu như hiện nay. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, tạo điều kiện thuận lợi cho một nền văn minh đô thị - thương mại phát
triển rực rỡ từ những thế kỷ đầu Công nguyên.
57
Từ tài liệu nhân chủng, chủ yếu phát hiện trong các di tích tiền Óc Eo và Óc
Eo sớm, có thể thấy sự có mặt của nhiều nhóm tộc người khác nhau trên vùng đất
Nam Bộ. Trong đó, nhóm người Indonesien chính là lớp người đầu tiên mở đất, lập
nghiệp trên mảnh đất này. Trong quá trình phát triển, họ có sự tiếp xúc và cộng cư
với những yếu tố nhân chủng khác tạo nên cộng đồng cư dân Óc Eo cùng nhau xây
dựng nên vương quốc Phù Nam hùng mạnh.
Những phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học là nguồn tài liệu vô cùng quý
giá, là cơ sở để nghiên cứu đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB. Trên
cơ sở bức tranh tổng quan những nội dung và kết quả chính của các công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo, những thành
quả nghiên cứu của các công trình đi trước sẽ là những viên gạch đặt nền móng, chỉ
dẫn, định hướng, gợi mở, mở ra hướng nghiên cứu mới. Những di vật, hiện vật đã
được phát hiện và công bố là cơ sở cho những nhận định, nghiên cứu về đời sống
vật chất, tinh thần của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
58
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ÓC EO
2.1. Đời sống sinh hoạt
2.1.1. Ăn uống
Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ, chủ nhân của nó đã đi đâu, ở đâu đến
nay không ai biết một cách chính xác. Vì vậy, để xác định cư dân Óc Eo ở miền
TNB ăn cái gì? ăn như thế nào? (cách chế biến), ăn bằng cái gì? uống gì? là một vấn
đề không dễ dàng. Tuy nhiên, dựa vào những tài liệu khảo cổ học, thư tịch cổ Trung
Quốc và một nghề nông phát triển (sẽ được đề cập trong những phần sau) có thể
đoán định một cách khái quát về những thói quen ăn uống của cư dân Óc Eo ở miền
TNB trong mười thế kỷ đầu Công nguyên.
Tập quán ăn uống của một cộng đồng cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau. Trong đó, môi trường tự nhiên là yếu tố quan trọng nhất quyết định các
món ăn, cách thức và thói quen ăn… của cộng đồng cư dân đó.
Cư dân Óc Eo là cộng đồng sống trong vùng chịu ảnh hưởng bởi khí hậu
nhiệt đới gió mùa và hệ sinh thái đa dạng, phong phú, phù hợp cho các loại cây cối
phát triển. Lượng phù sa từ các con sông bồi đắp hằng năm làm cho ruộng đồng
thêm màu mỡ. Qua các phát hiện khảo cổ học và bảng phân tích kích thước của vỏ
trấu [PL5, tr.257] cho thấy, nghề trồng lúa nước ở vùng ĐBSCL mười thế kỷ đầu
Công nguyên đã rất phát triển, với nhiều giống lúa khác nhau, chủ yếu là giống lúa
gạo tẻ, họ “trồng một năm thu hoạch ba năm” (Tấn Thư). Cư dân nơi đây còn biết
tách các hạt lúa để nấu thành cơm. Điều này được thể hiện qua việc phát hiện
nhiều dấu tích của lúa gạo, vỏ trấu trong các di tích Gò Tháp, Óc Eo, Nền Chùa
[PL2.9, h.4-5, tr.224]… Bên cạnh đó, các sử liệu Trung Quốc cũng đề cập đến một
số phong tục của người Phù Nam liên quan đến truyền thống ăn cơm như trong
quyển Ngoại quốc truyện: “Khi trong nhà một người Phù Nam mất đồ đạc, gia chủ
lấy một hũ cơm đem vào đền thờ nhờ Thần Thánh bắt kẻ trộm” [53, tr.18]. Như
vậy, từ những phát hiện khảo cổ đến những ghi chép của thư tịch cổ, có thể khẳng
định, nguồn lương thực chính nuôi sống cư dân Óc Eo là lúa gạo (gạo tẻ).
59
Ngoài ra, trong thành phần lương thực và thực phẩm của cư dân Óc Eo, có
thể còn sử dụng các loại hoa màu khác như khoai lang, khoai mì, khoai mỡ… hoặc
xay các loại gạo thành bột để chế biến các loại bánh, làm cho bữa ăn thêm phong
phú. Tuy nhiên, đây chỉ là suy đoán, cho đến nay, chưa có một phát hiện nào liên
quan đến các loại lương thực và cách chế biến này.
Nguồn lương thực, thực phẩm thường bị chi phối bởi môi trường khí hậu, đất
đai của từng địa phương. Vùng ĐBSCL là vùng đất màu mỡ, phì nhiêu do được phù sa
bồi đắp hàng năm, thuận lợi cho cây cối phát triển. Điều này đã được chứng minh qua
kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong địa tầng một số di tích ở sườn núi Ba Thê cho
thấy, nơi đây có nhiều họ - bộ như: rau giền (Amaranthacées); trúc đào (Apocynacées
t. Alysia); Boraginacées; cẩm chướng (Caryophyllacées); rau muối (Chénopodiacées);
cúc Composées (Asteraceae, Anthemidae); thông (conifères); cói (Cypéracées); thầu
dầu (Euphorbiacées); huệ tây (liliacées); mã đề (plantaginacées); poaceae; rau răm
(polygonacées); táo ta (rhamnacées); cà phê (rubiacées); đậu (légumineuses); dương
xỉ (fougèré); cọ (palmées); bần (sonneratia); họ sonneratiacées và họ gai [96].
Như vậy từ những kết quả này cho thấy, các loại rau, củ, quả ở đây rất phong
phú, đa dạng. Cư dân Óc Eo có thể trồng các loại rau hoặc cũng có thể hái những
loại rau dại xung quanh nhà để bổ sung nguồn dinh dưỡng cho bữa ăn.
Bên cạnh đó, còn có các loại hoa quả để bổ sung thêm nguồn dinh dưỡng,
làm cho bữa ăn của thêm phong phú. Điều này đã được chứng minh qua đợt thám
sát năm 2011, tại Gò Tư Trâm (Ba Thê, An Giang), các nhà khảo cổ đã phát hiện
các loại hạt trái cây [PL2.9, h.8, tr.224] ở độ sâu 3m. Ngoài ra, hình ảnh các loại trái
cây cũng được thấy trên các lá vàng chôn trong các ngôi mộ táng. Với những phát
hiện này đã chứng minh cho những gì thư tịch cổ nhắc đến: nơi đây được xem là
vùng đất của các loại hoa quả như dừa, xoài, cam, quýt, bòn bon, dâu da…
Được hình thành từ những vùng đất phù sa mới phì nhiêu, các nhánh sông
lớn nhỏ của hệ thống sông Mê Kông đổ ra biển, cùng với hệ thống các con kênh đào
chằng chịt của ĐBSCL đã tạo điều kiện cho các loài thuỷ hải sản sinh sôi, tạo nguồn
thức ăn dồi dào cho cư dân nơi đây. Cùng với cơm, cư dân Óc Eo đã đánh bắt tôm,
cua, cá… sẵn có trong tự nhiên để phục vụ cho bữa ăn của mỗi gia đình. Điều này
60
được chứng minh qua việc tìm thấy nhiều dấu vết của các loài thuỷ hải sản như
xương cá, mai rùa [PL2.9, h.2, tr.223], vỏ ốc, nghiêu, hàu [PL2.9, h.6, tr.224]…
trong các di tích cư trú, trong các đống rác bếp cùng thời.
Những lúc bắt được nhiều tôm cá, họ có thể chế biến thành thức ăn khô, hay
làm mắm. Dấu tích của những món ăn này chính là sự xuất hiện của những chiếc hũ,
lọ với nhiều kích cỡ to, nhỏ, kiểu dáng khác nhau [PL2.1, h26, tr.197]. Có những cái
miệng nhỏ, cổ ngắn, bản miệng loe cong (như ở Gò Hàng), cũng có những cái cổ cao,
chân đế thấp, đường kính miệng rộng (như ở Gò Xoài)… Nhưng đa số hũ, lọ, vò gốm
trong văn hóa Óc Eo đều có thân phình rộng, kích thước chiều rộng của thân luôn
lớn hơn chiều cao, miệng thu nhỏ [PL2.1, h.18, tr.196]. Tuỳ vào loại hình, kích cỡ
của hũ, lọ, cư dân Óc Eo sử dụng chúng cho những mục đích khác nhau. Những
chiếc hũ lớn có thể dùng để làm mắm - một trong những món ăn được cư dân Óc Eo
xưa kia cũng như cư dân Nam Bộ ngày nay ưa thích, đây cũng là một trong những
cách tích trữ thực phẩm những lúc bắt được nhiều thuỷ hải sản. Cũng có khi những
chiếc hũ có kích thước lớn hơn được dùng để đựng hạt giống...
Bên cạnh đó, thịt cũng là một loại thực phẩm được cư dân nơi đây chú trọng.
Họ có thể chăn nuôi gà, chó, heo hoặc săn bắt các loại thú rừng như hươu, nai… để
bổ sung nguồn thực phẩm cho gia đình. Minh chứng cho giả thuyết này chính là dấu
tích của các loại xương, răng gia súc, gia cầm [PL2.9, h.1-7, tr.213-224] mà các nhà
khảo cổ học đã phát hiện trong các đống rác bếp trong di tích cư trú.
Như vậy, có thể thấy, cơ cấu bữa ăn của cư dân Óc Eo không khác nhiều so
với ngày nay. Họ ăn cơm, rau là chính, sau đó đến tôm cá là nguồn thực phẩm sẵn
có trong thiên nhiên, và cuối cùng mới đến thịt.
Các loại lương thực, thực phẩm có thể đã được người dân nơi đây chế biến
theo nhiều cách khác nhau. Điều này được thể hiện trước hết qua nhiều loại hình
gốm gia dụng. Một số nồi nhỏ, đáy sâu có thể được dùng để nấu cơm, canh; nồi lớn,
miệng rộng, hay đồ gốm đáy rộng, thành thấp có thể nấu hoặc xào các loại rau, củ
[PL2.1, h.4-6, tr.193]. Ngoài ra, với những chiếc cà ràng [PL2.1, h.11, tr.194]
được phát hiện rộng khắc các di tích Óc Eo ở TNB, nó được sử dụng để nấu chín
các món ăn.
61
Bên cạnh đó, những chiếc tô, bát, đĩa là vật dụng để đựng thức ăn không thể
thiếu trong môi trường khí hậu nóng, oi và thích ứng với cơm - thứ sản phẩm của nền
nông nghiệp lúa nước. Nó là một trong những loại đồ dùng thiết yếu trong đời sống
xã hội, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của cư dân Óc Eo ở
miền TNB, mà qua đó, những phong tục và tập quán ẩm thực được thể hiện một
cách rõ nét nhất. Có những chiếc bát, cốc nhỏ, giống với kích thước những chiếc bát
đựng nước chấm ngày nay, có thể chúng được dùng đựng nước chấm, đựng cơm và
cũng có thể được dùng để uống nước, uống rượu [PL2.1, h1-3, tr.192]. Ngoài ra,
còn có loại bát (tô) lớn hơn có thể dùng để đựng canh. Những di vật bát, đĩa, tô
bằng gốm cho thấy, đó là những chiếc bát thô, nặng, áo gốm dễ bong tróc, không
bóng, không trang trí hoa văn. Ở Gò Minh Sư đã phát hiện một chiếc bát bồng, có
thể cũng được dùng với mục đích đựng cơm hoặc canh. Đây là chiếc bát bồng còn
nguyên vẹn nhất được tìm thấy ở miền TNB, có chân đế thấp, miệng loe cong.
Gia vị: cư dân Óc Eo có thể đã sử dụng các loại gia vị trong chế biến món ăn.
Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều chiếc hũ, lọ nhỏ bằng gốm trong các di tích
cư trú, có thể nó được dùng để đựng gia vị trong nấu nướng [PL2.1, h.16-17, tr.196].
Bên cạnh đó, các loại gia vị là một trong những đặc sản của cư dân vùng Đông Nam
Á nói chung, cư dân Óc Eo nói riêng. Nó trở thành loại hàng hoá đặc biệt, được đưa
đến các nền văn minh ở châu Âu và Tây Á, rồi tiếp tục theo bờ Đông châu Phi đến
trung tâm văn hóa cổ đại ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Là nơi cung cấp các nguồn hàng
gia vị như ở Phù Nam, thì chắc hẳn cư dân nơi đây đã sử dụng các loại gia vị trong
việc chế biến các món ăn.
Như vậy, từ việc phát hiện nhiều loại hình gốm và các loại gia vị có thể đoán
định, trong bữa ăn của cư dân Óc Eo ở miền TNB có thể được chế biến thành nhiều
món khác nhau, trong đó, có thể có món cơm, canh, kho hoặc luộc. Ngoài ra, có thể
còn nhiều cách chế biến khác (nướng, hấp, gỏi, làm khô) mà chứng cứ khảo cổ học
chưa đủ để xác minh.
Đồ uống: có một số ý kiến cho rằng, cư dân Óc Eo có thói quen dự trữ nước
mưa, nước ao hồ, nước sông để uống, ít khi đun nấu. Điều này có thể đúng và hiện
nay, cư dân ở TNB vẫn thường dự trữ nước mưa để uống. Tuy nhiên, cũng có thể
62
họ sử dụng các loại lá để nấu nước uống. Điều này được thể hiện qua việc phát hiện
nhiều chiếc ấm (bình có vòi, Kendi) trong các di tích Óc Eo ở vùng đồng bằng Nam
Bộ. Khi nói đến chiếc bình Kendi, người ta thường nghĩ đến một loại đồ dùng đựng
rượu hoặc nước trong việc thờ cúng, ngoài ra, nó còn được dùng đựng hoặc đun nước
uống hàng ngày... Việc tìm thấy mảnh vỡ của những chiếc ấm gốm (gốm thô dùng để
đun nấu) ở Gò Tháp và Nhơn Thành (Cần Thơ) có vòi rót [PL2.1, h.27-32, tr.196] và
thân được đục những lỗ tròn đều nhau có chức năng lọc, chứng tỏ họ đã dùng những
chiếc ấm này cùng những loại cây để nấu nước uống, hoặc pha nước giống như ấm
pha trà ngày nay. Việc phát hiện những chiếc ấm cùng những nhận định của các nhà
khoa học cũng cho rằng: cư dân Óc Eo đã trồng các loại hoa sen, hoa súng, hoa
Actisô, hoa cúc, hoa trang, hoa cẩm chướng... [14, tr.123], có thể suy đoán cư dân
Óc Eo đã sử dụng các loại lá, hoa để nấu uống.
Ngoài ra, cư dân Óc Eo còn biết chế biến các loại rượu. Theo sử liệu Phù
Nam, nơi đây còn “có loại cây để làm rượu giống cây lựu. Người ta lấy mật và bông
để vào lu nhiều ngày thì hoá thành rượu” [53, tr.12]. Như vậy, loại hình chai bình,
vò gốm [PL2.1, h.24-25, tr.197] đã được phát hiện là bằng chứng thiết thực nhất
cho giả thuyết này. Các loại chất lỏng như nước, rượu, dầu là rất cần thiết cho đời
sống của mọi người dân, đặc biệt là những người sống trên thuyền bè, nay đây mai
đó, không phải lúc nào cũng có thể dừng lại để mua bán. Việc dự trữ các loại nhu
yếu phẩm này là rất cần thiết, nhưng không phải dễ dàng đối với những người sống
trên thuyền bè, trên nhà sàn như họ. Mặc dù chưa có sự thống nhất về ý kiến của
các nhà nghiên cứu nhưng có thể cho rằng, bình kendi, vò, lu… là những vật đã
được sử dụng với rất nhiều công dụng khác nhau như đựng nước, rượu, dầu… Đây
là loại đồ đựng rất tiện dụng cho những người sống trên thuyền bè, sông nước như
cư dân Óc Eo. Họ có thể đổ các chất lỏng vào trong, rồi lấy dây buộc vào cổ miệng
chai treo trên thuyền mà không bị vỡ lúc di chuyển trên sông nước. Loại đồ đựng
này được phát hiện chủ yếu ở di tích Nền Chùa, Gò Tháp và Giồng Xoài.
2.1.2. Trang phục
Nhu cầu về mặc xuất hiện sau nhu cầu ăn uống, nhưng không kém phần quan
trọng trong quá trình phát triển của loài người. Áo quần trong giai đoạn đầu của loài
63
người không chỉ có tác dụng che chắn những bộ phận của cơ thể mà còn có tác dụng
chống lại thời tiết, đối phó với các loại côn trùng, ruồi, muỗi - nhất là trong một môi
trường mà “muỗi kêu như sáo thổi” như vùng ĐBSCL. Ngoài ra, trang phục còn thể
hiện trình độ phát triển của con người trong từng giai đoạn lịch sử.
Cho đến nay, chưa có một tài liệu nào viết về cách ăn mặc, đầu tóc của cư dân
Óc Eo một cách đầy đủ, cụ thể. Tuy nhiên, thông qua một vài gợi ý từ thư tịch cổ
Trung Quốc và hệ thống các tượng thờ Phật giáo, Hindu giáo cùng những di vật là đồ
trang sức có thể cho ta đoán định được một hình ảnh tương đối về cách ăn mặc, đầu
tóc của cư dân vùng ĐBSCL trong những thế kỷ đầu Công nguyên.
Đầu tóc: Qua các di vật để lại cho thấy, cư dân Óc Eo thường có những cách thể
hiện kiểu tóc khác nhau, ít nhất là có sự phân biệt giữa đầu tóc của nam và nữ.
Đối với đàn ông, qua một số hình ảnh như tượng thờ, hình mặt người, các bức
phù điêu… cho thấy, đàn ông trong xã hội Óc Eo thường có mái tóc cắt ngắn. Cụ thể,
bức chân dung hình người đàn ông đắp nổi bằng đất nung được phát hiện tại Óc Eo -
Ba Thê [PL2.4, h.4, tr.207] cho thấy, tóc của người này được cắt ngắn, xoăn, có màu
đen. Cũng trong một hình khác ở BTAG [PL2.4, h.5, tr.208] cho thấy, tóc được cắt
cao qua hai tai, hơi xoăn. Ngoài ra, một đầu nam thần được tìm thấy ở An Giang
[PL2.4, h.7, tr.208] cho thấy, tóc xoăn, ngắn, để lộ hai lỗ tai, tạo thành từng lọn nhỏ.
Như vậy, qua một số hình ảnh trên cho thấy, đa số các tượng nam thần đều có mái tóc
cắt ngắn, để hở hai tai, một số kiểu tóc được làm theo tiêu chí chung của tôn giáo.
Chẳng hạn như tượng Phật thường có mái tóc xoăn; thần Siva tóc tết hoặc để tự
nhiên, đôi khi lại thể hiện là các lọn tóc hình con rắn; thần Vishnu thường đội mũ trụ.
Ở Nam Việt Nam cũng như trong nghệ thuật tiền Ăngkor ở Campuchia, sự thể hiện
tóc của các thần có thể đã phản ánh kiểu tóc mà cư dân cũng từng ưa chuộng.
Một cách thể hiện khác được thấy qua hình mặt người ở BTĐT [PL2.4, h.8, tr.208]
với mái tóc được búi cao, đầu đội mũ. Tượng bị bào mòn bởi thời gian nên không rõ
mặt mũi, không phân biệt được nam hay nữ. Hay tấm phù điêu một nam, một nữ
đang ngồi ân ái được tìm thấy ở Óc Eo, An Giang [PL2.4, h.6, tr.208], người nam
nhìn không rõ, nhưng có thể được thể hiện với mái tóc ngắn, còn người nữ tóc
ngang vai hoặc quấn ngang vai.
64
Đặc biệt, kiểu tóc được búi về một bên hoặc tết đuôi sam, sau đó quấn quanh
đầu có thể là kiểu tóc đặc trưng của phụ nữ Óc Eo. Những kiểu tóc này được tìm
thấy rất nhiều trong các tượng nữ thần và hình mặt người. Trong một di vật đầu
người mặt sư tử, được tìm thấy ở Óc Eo, An Giang cho thấy, tóc được tết thành đuôi
sam sau đó quấn tròn, búi cao sang bên phải. Hình mặt người phụ nữ được trưng
bày tại BTAG [PL2.4, h.3, tr.207], tóc cũng được quấn tròn, búi sang bên trái tạo
thành hình xoáy trôn ốc rất đẹp. Hay một số tượng nữ thần Laksmi tóc được vuốt
lên thành búi trên đầu và buông thành các lọn lớn hai lớp, kết thúc trên đỉnh bằng
một vành tròn trơn. Kiểu tóc này gần gũi với một số tượng Hindu giáo với lối tóc tết
buông thành nhiều lọn quanh đầu [85, tr.109]. Đầu tượng nữ thần được phát hiện ở
di tích Gò Tháp [PL2.12, h.6, tr.230]; tượng thần Brahma được phát hiện ở Giồng
Xoài, Óc Eo [PL2.12, h.5, tr.230], có lối “vuốt tóc thành búi cao trên đỉnh và buộc
ngang bằng những sợi ruy băng, có khi được trang trí các viên ngọc tròn” [85, tr.110].
Với lối buộc tóc này đã thể hiện được những nét gần gũi với các tượng thần Siva ở
Kausambi (Ấn Độ) thuộc nghệ thuật Gupta thế kỷ III-IV. Tuy nhiên, vẫn có nhiều
sự biến đổi trong cách thể hiện. Việc kéo dài chiều cao của búi tóc, những đường
tóc dọc có độ lớn, độ sâu vừa phải và dây ruy băng được trang trí nhẹ nhàng, kết hợp
với nét thanh mảnh trên khuôn mặt tạo cho pho tượng một vẻ đẹp nữ tính rất duyên
dáng [85, tr.110]. Đa số tượng Phật được phát hiện ở Nền Chùa, Kiên Giang đều có
kiểu tóc xoắn ốc được thể hiện bằng các chấm li ti, chỏm Usnisa nổi cao [85, tr.54].
Như vậy, kiểu tóc búi cao hoặc một bên (trái hoặc phải) có thể là kiểu phổ biến nhất
trong giới nữ của cư dân Óc Eo trong cả giai đoạn sớm và giai đoạn muộn.
Ngoài ra, còn một kiểu tóc khác là búi trễ sau gáy. Kiểu tóc này được thấy ở
hình người phụ nữ chơi đàn trên mảnh gốm ở BTKG và trên mảnh vàng phát hiện ở
Gò Xoài, Long An [PL2.11, h.7, tr.228]. Trên một mảnh gốm mịn ở Nền Chùa
[PL2.4, h.9, tr.209] có đắp nổi hình hai nhạc công, một nam, một nữ. Nhân vật nữ
tóc búi sau gáy, còn nhân vật nam do quấn khăn trên đầu nên không thấy rõ mái tóc.
Có thể đây là kiểu tóc dành cho những người phụ nữ thuộc tầng lớp thường dân hay
các nhạc công, vũ nữ... trong xã hội Óc Eo?
65
Như vậy, có thể thấy, những kiểu tóc cắt ngắn, búi trễ sau gáy, búi cao hay
tết tóc đuôi sam là những kiểu tóc đã xuất hiện trong đời sống của cư dân Óc Eo.
Những kiểu tóc này phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất và những
sinh hoạt của người dân nơi đây. Nó thể hiện sự thích ứng của con người với môi
trường tự nhiên nơi đây.
Mũ đội đầu: Các tượng thần Hindu thường có những chiếc mũ hình ống tròn,
đôi khi có những hoa văn khác nhau. Các tượng thần Vishnu ở vùng ĐBSCL đa số
là những chiếc mũ hình ống, ít hoa văn. Riêng tượng Vishnu ở Óc Eo, An Giang có
chiếc mũ khá đặc biệt với hình ống dẹt, chỉ gắn trên đỉnh đầu có dây buộc xuống
cằm, để lộ một phần đầu trơn nhẵn. Tượng thần Harihara ở Ba Thê, An Giang
[PL2.12, h20, tr.234] đội chiếc mũ hình ống, chia thành hai nửa. Một bên được
trang trí như những lọn tóc, nửa còn lại không có hoa văn cho thấy sự kết hợp giữa
hai vị thần Vishnu và Siva. Tượng thần Brahma được tìm thấy ở Ba Thê, An Giang
có ba đầu với ba chiếc mũ có hoa văn rất đẹp. Như vậy cho thấy, mỗi vị thần đều có
những chiếc mũ riêng. Điều này chứng tỏ trong xã hội Óc Eo, rất có thể những
chiếc mũ đại diện cho các tầng lớp trong xã hội, nhất là những người theo Hindu
giáo. Mỗi tầng lớp trong xã hội có thể được quy định bởi những chiếc mũ có hình
dáng, hoa văn khác nhau.
Bên cạnh đó, cư dân Óc Eo còn có thể quấn những chiếc khăn làm thành mũ
đội đầu được thấy ở trong hình mảnh gốm mịn ở Nền Chùa (Kiên Giang) như đã đề
cập ở trên. Trên khăn đã được quấn thành chiếc mũ còn được trang trí nhiều đồ
trang sức rất đẹp.
Như vậy, có thể nói rằng, lối để tóc trần hoặc búi sau gáy (nữ) hay cuốn lại
bằng khăn (nam) rất phổ biến trong cư dân Óc Eo. Ngoài ra, sử liệu Trung Hoa còn
nhắc đến kiểu “tóc để xoã trên lưng” (Lương Thư) [53, tr.14] nhưng không đề cập
đến kiểu tóc để xoã ngang vai là kiểu của nam hay nữ. Rất có thể kiểu tóc này
không có sự phân biệt của nam hay nữ mà được cả nam và nữ bình dân sử dụng.
Trong khi đó, người quyền quý, có nhiều kiểu tóc khác nhau, sử dụng khăn, ruy
băng, chuỗi ngọc, mũ… để trang trí.
66
Trang phục: Theo truyền thuyết thời kỳ đầu lập quốc, người dân Phù Nam lúc
ban đầu có tục “xăm mình và trần truồng, tóc để xoã trên lưng và không biết quần áo
gì cả” [53, tr.14]. Nhưng sau khi lấy Liễu Diệp làm vợ, Hỗn Điền “không thích thân
hình loã lồ (của vợ) nên lấy vải (tức xà rông) luồn qua đầu” [2, tr.155]. Tuy nhiên,
trong các di tích Óc Eo xuất hiện rất nhiều dọi xe sợi, với kiểu dáng khác nhau,
chứng minh cho nghề dệt đã rất phát triển. Đặc biệt, thời kỳ này có thể các loại vải
được dệt ra với nhiều loại dày, mỏng, kẻ ngang, kẻ sọc, kẻ ô vuông và có thể đã có
những hoa văn khác nhau. Như vậy, có thể thấy, cư dân Óc Eo, mặc không phải chỉ
để che chắn mà còn để làm đẹp. Vải có thể đã được các thợ nhuộm nhuộm thành
nhiều màu sắc với những hoạ tiết khác nhau. Theo Nam Tề Thư, Lương Thư ghi lại
rằng: con trai nhà giàu cắt gấm thành từng tấm mà quấn ngang, người nghèo thì lấy
vải bố che thân [2, tr.155]. Như vậy cho thấy, trong cách ăn mặc của cư dân Óc Eo đã
có sự phân chia giàu nghèo rất rõ nét.
Ngoài ra, trang phục của cư dân Óc Eo còn để lại những dấu vết đáng tin cậy
trên các tượng thần, phật và qua những hình người khắc hoạ trên vàng được phát hiện
trong các di chỉ mộ táng. Những bộ trang phục trên các tượng thần rất phong phú, đa
dạng. Tuỳ vào giới tính, địa vị xã hội…, các bức tượng có những cách thể hiện trang
phục khác nhau. Những trang phục có hoa văn kẻ ô vuông, kẻ ngang, kẻ sọc có thể là
của những người có địa vị trong xã hội, những người thuộc tầng lớp trên. Trang phục
của những nô lệ, người thuộc tầng lớp dưới được thể hiện một cách đơn giản hơn.
Điều này đã được thể hiện qua một pho tượng đồng được coi là tượng người nô lệ
được phát hiện ở di tích Óc Eo, An Giang. Tượng có thân dưới đóng khố, dây buộc
trước bụng, thả dài đến chân, mình để trần, chân đất, không đeo đồ trang sức. Một
hình phụ nữ chạm nổi trên tấm thiếc được coi là thuộc tầng lớp dưới, tầng lớp lao
động, phía trên để trần, phía dưới mặc váy. Hay hình hai nhạc công gồm một nam,
một nữ dập trên đồ gốm phát hiện được ở khu di tích Nền Chùa [PL2.4, h.9, tr.209]
có thể thuộc tầng lớp giữa. Trong đó, hình nữ có tóc búi trễ sau gáy, thân trên để
trần, cổ và tay đeo nhiều vòng trang sức, thân dưới mặc váy dài, mỏng, có nếp gấp
nhỏ; hình nam đầu đội mũ vải, thân trên để trần, cổ đeo vòng, ngồi trong tư thế
chống chéo chân nên không nhận biết được đồ mặc bên dưới [14, tr.129].
67
Các tượng nam thần hầu như có lối trang phục gần giống nhau. Các thần
Vishnu, Siva, Brahma, Harihara và các nam thần khác đều để mình trần, phía dưới
quấn xà rông hoặc sampot, có dây buộc ngang bụng [PL2.4, h.10, tr.209]. Trang
phục của nam có nhiều kiểu khác nhau, có thể chia thành hai nhóm: nhóm khố ngắn
đến đầu gối và nhóm dài đến chân.
Các tượng nữ thần đều để mình trần, để lộ bộ ngực đầy đặn, phía dưới mặc
váy dài phủ đến chân, có dây buộc ở eo [PL2.12, h.13-14, tr.232]. Chẳng hạn như
hình chạm người đàn bà trên lá vàng ở Đá Nổi mình đển trần, dưới mặc váy mỏng
để lộ những đường nét của cơ thể. Đây có thể là nữ thần Devata hoặc vũ nữ Apsara.
Ngoài ra, trên nhiều lá vàng phát hiện được trong các di chỉ mộ táng
85ĐN.M2 và 85ĐN.M3 có chạm hình người hoặc thần, khoác trên người một số
kiểu trang phục khác lạ: hình 10 người có đội mũ, mình để trần hay có mặc áo bó
sát thân, dưới mặc quần, đi một loại giày giống ủng; hình 7 người có trang phục khá
giống nhau như đầu đội mũ vải hoặc vấn khăn, mặc áo có xẻ giữa và bó sát mình,
quần giống như quần xà cạp, bên hông phải có đeo một túi vải nhỏ. Những kiểu
trang phục này chắc hẳn có nguồn gốc từ bên ngoài. Đó là lối trang phục của những
“ngoại kiều”, quý tộc, tăng lữ từ phương Bắc đến sinh sống hoặc truyền đạo ở đây.
Còn đối với các tượng Phật, có hai kiểu trang phục khác nhau: Các pho
tượng bằng gỗ thường là trang phục dài đến gót chân. Nhiều tượng còn có dấu vết
của một loại áo khoác rộng. Trên một tượng Phật bằng đồng tìm thấy ở Gò Cây Thị
thuộc khu di tích Óc Eo [PL2.12, h.17, tr.233] có trang phục thân trên là áo nhiều
lớp, bên ngoài khoác áo cà sa dài đến bàn chân.
Các tượng thần, Phật thường không mang giày dép, tuy nhiên, các lá vàng
được chôn trong mộ táng ở di tích Đá Nổi đã đề cập ở trên, có hình người đi một
loại giày giống ủng. Điều này cũng đã được sử liệu Trung Hoa ghi lại “năm thứ 6
triều Thái Khương (285) vương quốc Phù Nam dâng lễ cống 100 đôi giày gọi là
Bảo hương lý” [53, tr.21]. Như vậy, thời kỳ này cư dân Óc Eo có thể đã sử dụng
những đôi giày để đi lại.
Từ những quan sát nói trên, có thể xác định được rằng, vào thời đại Óc Eo,
trang phục đã khá phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội. Đó là kiểu trang phục mộc
68
mạc, bình dị, giống nhau từ người đến thần với đặc điểm chung là mình trần, chân
đất, tai, cổ và tay thường có đeo đồ trang sức; nam đóng khố hay vấn sampot, nữ
mặc váy, thường là dài xuống đến chân. Nhìn chung, đây là lối ăn mặc truyền thống
của cư dân vùng Đông Nam Á, vốn đã có từ trước đó trong các cộng đồng cư dân cổ
sống ở vùng khí hậu nhiệt đới. Tuy nhiên, những kiểu trang phục này chưa hẳn đã
tiêu biểu cho mọi tầng lớp cư dân mà có thể chỉ đại diện cho một tầng lớp nhất định
trong xã hội Óc Eo. Các nghệ nhân bản địa đã khóac lên mình vị thần những bộ
trong phục có thể do họ tưởng tượng ra hoặc từng thấy nó trong xã hội, với mong
muốn, những vị thần linh có thể phù hộ cho họ cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trang sức có thể coi là một bộ phận của trang phục. Người Óc Eo rất thích
đeo đồ trang sức, họ đeo trang sức lên tay, tai, cổ và cả trên đầu. Nếu cư dân tiền Óc
Eo chủ yếu đeo các loại đồ trang sức bằng đá, xương thì đến thời kì này, trang sức
của họ phong phú về chủng loại, đa dạng về chất liệu như vàng, đồng, thuỷ tinh, đá
quý… Đặc biệt là trang sức bằng vàng rất phát triển, được chế tác cầu kỳ hơn trước.
Đối với người Óc Eo, đeo đồ trang sức nhiều khi không phải chỉ làm đẹp
mà còn để khẳng định vị trí xã hội, sự giàu sang của mình. Điều này được thể hiện
qua những đồ trang sức được chế tác cầu kỳ, tinh xảo với chất liệu vàng, đá quý là
chủ yếu. Chẳng hạn, những chiếc nhẫn được gắn đá quý [PL2.7, h.7, tr.218] rất
tinh tế, sang trọng; hay những chiếc vòng tay bằng vàng có chạm nổi hình cánh
hoa [PL 2.7, h.6, tr.218].
Đặc biệt, đeo đồ trang sức đối với cư dân Óc Eo nhiều khi còn thể hiện niềm
tin, tôn thờ tôn giáo của mình. Điều này được thể hiện rõ qua những chiếc nhẫn có
chạm hình bò Nandin [PL2.7, h9, tr.218], là vật cưỡi của thần Siva, hay những đôi
khuyên tai có hình vòi voi, được chạm khắc nhiều hoa văn rất đẹp [PL2.7, h.12, tr.219].
Phải chăng đây cũng là một hình thức thể hiện tín ngưỡng phồn thực của cư dân
nông nghiệp?
Ngoài ra, có thể nhận thấy sở thích đeo các loại đồ trang sức được thể hiện
trên những bức tượng tròn ở vùng ĐBSCL. Những bức tượng thần được đeo nhiều
vòng trên cổ, tay và chân. Chẳng hạn trên tượng thần Siva phát hiện ở Gò Đồn
(Long An [PL2.12, h.15, tr.232] cổ đeo ba vòng hạt chuỗi hình tròn rất đẹp, trên búi
69
tóc cũng được trang trí bởi các hạt chuỗi, sau lưng được trang trí một bông hoa to;
hình ảnh này cũng được thấy trên mảnh gốm mịn ở Nền Chùa [PL2.4, h.9, tr.209]
với nhiều lớp hạt chuỗi được đeo trên cổ và tay của người phụ nữ chơi đàn.
Nhìn chung, từ những hiện vật khai quật cũng như từ tư liệu thư tịch cổ
Trung Hoa có thể hình dung trang phục của cư dân Óc Eo: phụ nữ mặc váy dài,
phần trên để trần hoặc phủ kín; đàn ông đóng khố ngắn, phần trên để trần, cả nam
lẫn nữ đều đeo nhiều đồ trang sức, bùa đeo. Người giàu có dùng trang sức vàng, bạc,
kim cương, đá quý; người nghèo đeo trang sức bằng đồng, thiếc, các loại hợp kim
chì, thuỷ tinh, đất nung… Đó cũng là trang phục của thần linh, nam và nữ [65, tr.53].
Thông qua trang phục, có thể thấy được phần nào trình độ phát triển của xã hội Óc
Eo, có sự phân hoá giàu nghèo rõ rệt, đồng thời vừa phản ánh quan niệm thẩm mỹ
của cư dân vùng nhiệt đới nóng ẩm nơi đây.
2.1.3. Nơi ở
2.1.3.1. Không gian
Nhìn vào bản đồ di tích khảo cổ học [PL1.1, tr.188] có thể nhận thấy địa bàn
phân bố của văn hóa Óc Eo khá rộng khắp trên cả vùng Đông và TNB. Trong đó,
miền TNB là nơi tập trung nhiều nhất các di tích với các loại hình khác nhau. Tuỳ
theo điều kiện tự nhiên của từng vùng, các di tích có sự phân bố khác nhau: trên các
giồng đất ven sông, các gò cao vùng đồng bằng và các gò thấp dọc triền sông. Dù
phân bố ở các gò cao hay ven các con sông, ven biển thì hình thức cư trú theo mô
hình “vệ tinh” cũng được cư dân Óc Eo chọn lựa. Nghĩa là xung quanh các trung
tâm đô thị có các khu dân cư, sản xuất nông nghiệp, sản xuất các loại hàng thủ
công, cũng có thể là các địa điểm trao đổi, mua bán bao quanh, tạo thành “vệ tinh”.
Các khu trung tâm thường là nơi tập trung hoạt động chính trị, văn hóa, tôn giáo và
có cả các xưởng sản xuất thủ công quan trọng. Chẳng hạn:
Khu di tích Óc Eo - Ba Thê được coi là một trung tâm kinh tế, chính trị, tôn
giáo - văn hóa quan trọng nhất của cư dân Óc Eo ở vùng ĐBSCL; là trung tâm
quyền lực lớn trong giai đoạn từ thế kỷ V đến thế kỷ VII. Nơi đây còn có cảng biển
quốc tế, có sự giao lưu buôn bán với các nước trên thế giới. Theo Louis Malleret,
xung quanh di tích Óc Eo - Ba Thê trong vòng 20km có khoảng 5 di tích: tích Lung
70
Giầy Mé cách 2km về phía Bắc; di tích Định Mỹ cách 3km về phía tây Bắc; di tích
Lung Mốp Văn cách 8km về phía Tây Bắc; di tích Lung Lỗ - Mô; di tích Tráp Đá
cách núi Ba Thê 12km về phía Đông Bắc; 2 di tích Lung Giếng Đá và Tà Kêv cách
12km về phía Tây Nam, di tích Đá Nổi cách 20km về phía Đông. Như vậy, khu di
tích Óc Eo được coi là trung tâm và các di tích này là những điểm “vệ tinh” có vai
trò “hậu cứ” trong phức hợp di tích Óc Eo - Ba Thê. Đây là hình thức cư trú nổi bật
và rõ nét nhất theo mô hình vệ tinh.
Khu di tích Gò Tháp - Tháp Mười được coi là khu trung tâm quan trọng thứ
hai. Nó là di tích lớn nhất trong vùng Đồng Tháp Mười, là trung tâm tôn giáo, văn
hóa, chính trị của cả một vùng rộng lớn. Nơi đây có các loại hình cư trú trên nhà sàn
dựng trên cọc gỗ, các loại di tích xưởng thủ công chuyên làm đồ trang sức bằng
vàng, tượng gỗ và di tích kiến trúc… Khu di tích Gò Tháp cùng với các di tích như:
Phú Long, Mỹ Tây 3, Gò Dung, Gò Hàng, Gò Đế, Gò Vĩnh Châu A, Trấp Gáo
Miễu… hợp thành một cụm nằm giữa Đồng Tháp Mười, trong đó, khu di tích Gò
Tháp đóng vai trò là trung tâm, các di tích trong địa phận Long An và cánh đồng
phía bắc Gò Tháp đóng vai trò là “hậu cứ”.
Di tích Cạnh Đền (Vĩ Thuận, Kiên Giang) phân bố trên phạm vi rộng đến
hàng trăm hecta, nơi đây được coi là một tiền cảng quan trọng của vùng. Nó nằm ở
ví trí ven biển phía Nam, đóng vai trò là một trung tâm, bao quanh bởi các di tích vệ
tinh như: Kè Một, Nền Vua, Vĩnh Hưng, Vương Miếu…
Như vậy có thể thấy, cư dân Óc Eo thường chọn những nơi cao ráo, thậm chí
là sườn núi để sinh sống, nhưng bao giờ cũng nằm ven biển, cạnh những con sông
hoặc có những mương nước, luôn tuân thủ nguyên tắc mô hình cư trú “trung tâm”
và “vệ tinh” như đã chứng minh.
2.1.3.2. Các loại nhà ở
Với một môi trường mang tính đặc thù, miền TNB mười thế kỷ đầu Công
nguyên là vùng đồng bằng thấp, sình lầy và nhiều tháng trong năm bị ngập nước, lại
có hệ thống sông ngòi dày đặc. Để thích ứng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
đó, cư dân Óc Eo đã cố gắng thích ứng và tìm cách khắc phục bằng nhiều hình thức,
đặc biệt là trong lĩnh vực cư trú.
71
Nhà sàn:
Nhà sàn là một loại kiến trúc được làm bằng vật liệu nhẹ, dựng trên hệ thống
cọc gỗ, nhưng rất tiếc, phần trên của những ngôi nhà này đã bị huỷ hoại theo thời
gian. Chúng ta chỉ biết đến loại kiến trúc này thông qua dấu tích là những khúc cây,
cọc gỗ, ván sàn mục nát, chìm nổi trong lớp đất có chứa tàn tích sinh hoạt cùng thời
như di cốt động vật, thực phẩm, vật dụng, phế phẩm… Đây là được coi là hình thức
cư trú khá phổ biến, thậm chí thông dụng trong đời sống của cư dân Óc Eo, đặc biệt
là từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII SCN được phát triển, mở rộng trên các cánh đồng thấp.
Có thể thấy, cư trú trên nhà sàn là một truyền thống lâu đời của cư dân Đông
Nam Á, là “một phong tục chung vừa độc đáo mà cũng mang tính chất đặc trưng
nổi bật nhất của toàn khu vực” [86, tr.41]. Dù ở vùng cao hay vùng thấp, thì cư trú
trên những chiếc nhà sàn vẫn được xem là sự lựa chọn tối ưu của cư dân vùng khí
hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm ẩm ướt. Các dấu tích cọc nhà sàn được tìm thấy
một số nơi trong thời đại kim khí ở miền Đông Nam Bộ và những vùng ngập mặn
ven biển như TP.HCM, Nhơn Trạch, Bà Rịa Vũng Tàu… Tuy nhiên, đến thời kỳ Óc
Eo, hình thức cư trú này mới thực sự mở rộng về quy mô và mật độ, trở thành đặc
trưng trong đời sống của con người vùng ĐBSCL.
Căn cứ vào những tài liệu thám sát và khai quật khảo cổ đã cho thấy, các dấu
tích của nhà sàn được tìm thấy nhiều trong các vùng có địa hình thấp, trũng như
vùng tứ giác Long Xuyên, rừng U Minh, lòng chảo Ô Môn - Phụng Hiệp, Đồng
Tháp Mười. Có thể gọi đây là loại hình cư trú vùng “nước nổi”, mà tập trung nhất là
tại các khu di tích: Óc Eo (An Giang), Lung Giầy Mé (An Giang), Tráp Đá (An
Giang), Cạnh Đền (Kiên Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp) [151, tr.311]... Việc phát
hiện những cọc gỗ ở Giồng Xoài năm 2000 và một đoạn cọc gỗ dài 2,45m, đường
kính khoảng 0,4m bằng gỗ dầu [PL2.5, h7, tr.2011] được khai quật vào năm 2001
tại gò Óc Eo [PL2.5, h.2, tr.210]; hay dấu vết của một căn nhà nhỏ nằm sát bờ lung
Giếng Đá đã được tìm thấy với những cột gỗ đường kính 0,1m và những thanh gỗ
đường kính 0,05m đến 0,06m [27] đã cho thấy sự xuất hiện của những ngôi nhà sàn
với nhiều kích cỡ khác nhau. Những cọc gỗ thường được vót nhọn một đầu để cắm
sâu dưới bùng đất, phía trên thân gỗ thường có các khấc ngoàm [PL2.5, h 2-3, tr.210]
72
để làm chỗ tựa, buộc dây cho các đòn tay nằm ngang. Một số cọc gỗ được đục lỗ để
các thanh xà ngang xuyên qua đó nhằm tăng khả năng chống lại sức nước.
Tại Nền Chùa, dấu vết những cột nhà sàn nằm dọc theo Lung Lớn (Lung
Giếng Đá) nối liền với khu di tích Óc Eo và rải rác trên cánh đồng thấp xung quanh
gò Nền Chùa. Những cột này thường có đường kính từ 0,1m - 0,3m; cột dài nhất mà
phần trên đã bị huỷ còn đo được dài 2,86m [61]. Và những dấu vết mái nhà lợp bằng
lá dừa nước cũng đã ghi nhận được ở di tích Gò Thành cho thấy một khái niệm tương
đối về kích thước của những ngôi nhà gỗ, có thể phần đầu cột rời được chạm trổ và
mái được lợp bằng lá dừa nước - là một loại cây mọc rất nhiều ở vùng TNB.
Trong cuộc khai quật tại di tích Gò Tháp vào năm 1993, các nhà khảo cổ học
đã tìm thấy hình ảnh của một ngôi nhà sàn tương đối cụ thể chạm trên một lá vàng
chôn trong phế tích 93GT.M3 [14, tr.128]. Đó là một ngôi nhà sàn nhỏ, có bốn cột,
nóc nhọn, mái xiên gần thẳng, đứng cạnh một gốc dừa lớn.
Như vậy, qua những hiện vật thật liên quan đến những ngôi nhà của cư dân
Óc Eo còn quá ít, chất lượng kém, vì chủ yếu là các cọc gỗ dễ bị gãy mục do thời
gian. Tuy nhiên, qua việc phát hiện những dấu vết của cột nhà sàn, sàn gỗ, mái nhà
bằng lá dừa trong các di chỉ cư trú, đến hình ảnh trên mảnh vàng, chúng ta đã có
được hình ảnh tương đối của nhà sàn trong văn hóa Óc Eo. Đó là kiểu nhà có cột và
sàn bằng gỗ, mái lợp bằng lá dừa nước, thuộc loại nhà sàn có mái dốc, tương tự như
kiểu nhà sàn đúc trên trống đồng Đông Sơn của người Việt cổ và giống như loại nhà
sàn, nhà mồ mà ngày nay vẫn còn thấy ở các dân tộc Bơhna, Giarai và nhiều dân tộc
ở Tây Nguyên [14, tr.128].
Đối với một cộng đồng cư dân sống trên vùng sình lầy, hệ thống sông ngòi
chằng chịt, lại là vùng đồng bằng thấp, thường xuyên bị ngập nước như vùng châu
thổ Cửu Long, thì sự lựa chọn cư trú trên nhà sàn đã trở thành một mô thức cư trú
không thể khác được của cư dân Óc Eo. Đó cũng chính là thái độ ứng xử khôn
ngoan của người dân với môi trường tự nhiên nơi đây. Hình thức cư trú trên nhà sàn
có nhiều thuận lợi, vừa mát mẻ, thoáng đãng lại có thể ứng phó với khí hậu nhiệt
đới có độ ẩm cao. Đặc biệt, khi sống trên các vùng đất cao ráo, nhà sàn có thể ngăn
cản thú dữ và côn trùng, còn ở những vùng trũng thấp lại dùng chiếc “chân cao” để
73
ứng phó với ngập lụt quanh năm. Khi nước lên, những chiếc “chân” của ngôi nhà
sàn có thể nâng ngôi nhà lên cao, khi nước xuống có thể hạ thấp ngôi nhà xuống
theo con nước, rất thuận lợi. Ngoài ra, nhà sàn với kết cấu mái dốc, có thể tránh
được tác hại của những cơn mưa dông hay nắng nóng kéo dài ở vùng ĐBSCL. Cư
dân nơi đây đã tận dụng được nguồn gỗ, tre nứa và lá dừa nước dồi dào, sẵn có để
làm nên những ngôi nhà mang đặc trưng trong phong tục cư trú của vùng sông nước
ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên.
Hình thức cư trú này đã thể hiện tư tưởng “sống chung với lũ” của cư dân
vùng ĐBSCL từ những năm đầu Công nguyên, đến bây giờ, người dân nơi đây vẫn
tiếp tục kế thừa và phát triển. Đây là thái độ ứng xử với tự nhiên đúng đắn mà khoa
học ngày nay đã chứng minh.
- Nhà trệt: Một thái độ khác thể hiện rõ nét sự nỗ lực khắc phục khó khăn từ
thiên nhiên của cư dân Óc Eo, đó là hình thức cư trú trên các khu vực có địa hình
cao, trên các gò, gò đất đắp hoặc giồng đất… Hình thức cư trú này được xem là
phương pháp hữu hiệu nhất của thời đại để khắc phục nền đất sình lầy, tạo ra những
điểm tựa cố định, vững chắc nhằm bảo vệ, chống lại sự tàn phá của nước ngầm và
nước lũ trong điều kiện cụ thể của đồng bằng châu thổ thấp ven biển, bị ngập nước
nhiều tháng trong năm [1, tr.287]. Họ đã chủ động cải thiện, khắc phục những khó
khăn, khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên bằng cách đắp nền đất, gạch cao tại những
nơi cư trú cho phù hợp với môi sinh của mình. Theo tài liệu khảo cổ học, cư dân Óc
Eo đã đào đất tại chỗ hoặc mang đất nơi khác đến để đắp nền cao lên, tạo thành gò
trước khi xây những công trình kiến trúc. Có những gò đất đắp rộng hàng ngàn
hécta làm nền móng cho kiến trúc cư trú, đền thờ hay khu mộ táng như Gò Cây
Tung (An Giang).
Những dấu tích của loại hình cư trú này còn lưu lại dưới các lớp đất văn
hóa có chứa những tàn tích sinh hoạt, mà chủ yếu là mảnh gốm. Hình thức cư trú
này được phát hiện chưa nhiều, song đã có mặt ở nhiều nơi trên vùng ĐBSCL.
Trong vùng thấp trũng, thường thấy loại cư trú trên gò nổi như Gò Da (Giồng
Cát - Óc Eo), Giồng Xoài (Óc Eo - Kiên Giang), Gò Me, Gò Sành (An Giang)
[151, tr.311].
74
Tại đây, họ đã đào những hồ, bàu nước để dùng cho sinh hoạt thường ngày.
Dấu tích những hồ, bàu nước còn được lưu lại ở một số di tích vùng cao như Bàu
Thành (Đồng Nai), Phước Chỉ, Phước Hưng, Đức Hoà … hay giồng đất ven biển
như Trà Cú. Đặc biệt, trong vùng trũng thấp Đồng Tháp Mười, các nhà khảo cổ học
cũng đã phát hiện một bàu nước nằm trong khu vực di tích Gò Tháp. Những bàu
nước này thường có hình chữ nhật, rộng khoảng trên 100m2, thậm chí cả 1.000m2 (ở
Trà Cú). Theo tư liệu cổ Trung Hoa, những bàu nước này là nguồn cung cấp nước
cho sinh hoạt hàng ngày của cư dân Phù Nam, “họ đã không đào giếng, nhiều chục
nóc nhà thường dùng chung một hồ nước” (Lương Thư) [2, tr.150].
Như vậy, việc đào những bàu, hồ trữ nước đã khắc phục sự khan hiếm nguồn
nước sinh hoạt cho những cư dân sống ở vùng cao và ven biển trong thời gian hạn
hán, giúp cho cư dân Óc Eo trên địa hình cao thuộc vùng đồi gò bán sơn địa và
vùng đất giồng không bị lệ thuộc vào nguồn nước sông, lạch như trước. Điều này
một lần nữa thể hiện sự ứng phó nhanh nhạy của cư dân Óc Eo đối với môi trường
tự nhiên. Khi được cung cấp đầy đủ nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt cũng như
sản xuất, đã tạo một tâm lý ổn định cho các cộng đồng cư dân ở vùng châu thổ xây
dựng cuộc sống định cư ổn định.
- Sống trên các thuyền bè: Bên cạnh lối sống định cư trên các nhà sàn hay
các ngôi nhà được đắp nền gạch một cách kiên cố, thì có thể có một bộ phận cư dân
Óc Eo sống trôi nổi trên các thuyền bè như một số cư dân Nam Bộ ngày nay.
Nếu chỉ dựa vào tài liệu khảo cổ học, khó có thể khẳng định được hình thức
cư trú trên thuyền bè. Tuy nhiên, có thể suy đoán từ việc có một phận dân cư với vai
trò vận chuyển hàng hoá giữa các vùng trong một thời gian dài, họ đã phải sống trên
các thuyền bè để tiện cho việc mua các loại hàng hoá đem đến các nơi trong vùng
để bán lại. Điều này cũng đã được nhận thấy trên thuyền phát hiện ở Phong Điền
(Cần Thơ) với một số đồ gốm sinh hoạt, trong đó, có những chiếc bình cổ cao dùng
để buộc dây tiện cho việc đi lại trên sông nước.
Tóm lại, cư dân Óc Eo là một cộng đồng cư dân có cuộc sống ổn định, sống
định canh, định cư trên mảnh đất của mình. Họ sống trên cả nhà sàn cũng như trên
nền đất đắp cao thành gò hoặc sống trên thuyền bè. Cư dân Óc Eo đã biết khắc phục
75
những khó khăn, thích ứng với điều kiện tự nhiên (để tạo dựng một cuộc sống ổn
định), tạo cho mình một môi trường và không gian cư trú thoả mãn yêu cầu ngày
càng cao của cuộc sống. Họ đã lợi dụng địa hình sông rạch tự nhiên để khai đào
(thông) nhiều đường nước, xây dựng hệ thống thuỷ lợi dài hàng trăm km. Chính hệ
thống thuỷ lợi đã giúp cư dân nơi đây có được hệ thống giao thông đường thuỷ phát
triển, điều kiện thuỷ văn và môi trường sinh thái được khắc phục, đáp ứng nhu cầu
về nước ngọt.
2.1.4. Đi lại
Cư dân Óc Eo phân bố trên địa bàn rộng lớn ở vùng đồng bằng Nam Bộ với
nhiều địa hình khác nhau từ vùng cao đến vùng thấp trũng với nhiều sông rạch, ven
biển. Các cộng đồng cư dân văn hóa Óc Eo có mối liên hệ mật thiết với nhau bằng
đường sông, đường biển và đường bộ với các phương tiện là thuyền bè và gia súc:
voi, ngựa, trâu, bò.
Về đường thuỷ: Nếu cư dân Đông Sơn sống theo làng xóm trên các vùng đất
cao ráo, vùng phù sa, thì cư dân Óc Eo chủ yếu sống dọc theo các kênh rạch, sông
ngòi. Các con kênh là những đại lộ nối liền các vùng với nhau, tạo thành một mạng
lưới giao thông chằng chịt trên toàn vùng châu thổ sông Cửu Long. Cư dân Óc Eo đã
thích ứng, biến những hạn chế của vùng sông nước thành thế mạnh của mình để tồn
tại, phát triển và tạo nên một sắc thái văn hóa riêng biệt. Những dấu ấn của văn hóa
sông nước thể hiện rất rõ nét trong đặc trưng văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
Theo tài liệu khảo cổ, ở miền TNB đã tìm thấy dấu vết của những kênh đào
cổ toả rộng trên vùng đồng bằng, nối liền các di tích khảo cổ Óc Eo với nhau. Trong
đó, những con kênh ở Óc Eo, Tà Keo, Đá Nổi và Định Mỹ có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với toàn vùng. Bởi lẽ, Óc Eo nguyên là một thành phố rộng lớn, xưa kia là
nơi tiếp giáp các đường lớn trong việc trao đổi hàng hoá, và còn là một hải cảng
quốc tế quan trọng của vương quốc Phù Nam. Thành phố này được nối liền với Núi
Sập và Định Mỹ bởi hai con kênh số 19 và 20, rồi thông ra biển bằng con kênh số
16. Con kênh này (số 16) kéo dài lên Mắc-cần-dưng và sông Bassac (sông Hậu).
Thành phố còn liên lạc với Ankor Borei bằng con kênh số 4 và nối thông với Đá
Nổi. Trước đây, con kênh số 4 kéo dài lên tận vùng Giồng Đá, nhằm theo một
76
hướng Trăm Đường [91, tr.178-179]. Những kênh đào này không chỉ phục vụ nhu
cầu thuỷ lợi tưới tiêu cho nông nghiệp, mà còn là một hệ thống giao thông đường
thuỷ rộng lớn phục vụ cho việc giao lưu, buôn bán giữa các vùng và các nước trong
khu vực. Từ vùng Óc Eo - Ba Thê, có thể cho thuyền chạy dọc các con kênh đến
các nơi trong khu vực, thậm chí lên đến vùng TP.HCM, Đồng Nai…
Bên cạnh dấu tích của các con kênh, còn có vết tích thuyền cổ ở nhiều nơi
trên vùng TNB như: Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên Giang); Nhơn Trạch (Cầm Thơ),
Bến Tre, Óc Eo - Ba Thê (An Giang). Trong đó, chiếc thuyền được phát hiện ở xã
Nhơn Trạch, huyện Phong Điền, Cần Thơ là thuyền độc mộc có độ dài tối thiểu là
5,4m, có những thanh ngang để cho người đi thuyền ngồi lên, còn khá nguyên vẹn
[PL2.6, h.3, tr.214]. Qua kết quả phân tích C14 cho thấy, chiếc thuyền này có niên
đại vào khoảng thế kỷ IV - V SCN. Hay tại địa điểm Xoa Ảo, huyện Kiến Lương,
tỉnh Kiên Giang, Phan Thanh Toàn và các đồng nghiệp ở Bảo tàng Kiên Giang đã
phát hiện phần mũi của một chiếc thuyền bằng gỗ, đầu mũi thuyền có xích và neo sắt,
trong thuyền tìm thấy khá nhiều gốm Óc Eo. Do chưa khai quật nên di tích tạm thời
lấp lại [139; tr.706-708]. Cũng ở Kiên Giang (Giàn Gừa, huyện Kiên Lương, Kiên
Giang) các nhà khảo cổ đã phát hiện được một số dấu tích thuyền [PL2.6, h.4, tr.215].
Một số dấu tích thuyền cũng được phát hiện ở Bến Tre, trong đó, chiếc được phát
hiện ở xã Tiên Thuỷ - huyện Châu Thành, Bến Tre với chiều dài 8,65m, rộng 64 -
67cm, cao 28 - 30cm, thành dày 5cm, thuộc kiểu thuyền độc mộc giống với thuyền
đã phát hiện ở Cần Thơ và nhiều mảnh thuyền độc mộc khác cũng đã được phát
hiện ở Đồng Tháp và Đá Nổi (An Giang). Thuyền độc mộc là phương tiện khá phổ
biến của cư dân cổ đại ở các nước Đông Nam Á, có thể cũng đã phổ biến trong đời
sống cư dân Óc Eo ở vùng ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên.
Dấu tích thuyền còn được thể hiện qua một con dấu khắc hình thuyền có cột
buồm và cờ gió, được phát hiện tại khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang). Có thể là
những con thuyền như thế này đã được các thương nhân sử dụng để buôn bán với
các nước, lưu thông trên biển xa.
Ngoài ra, trong văn hóa Óc Eo đã phát hiện hàng loạt các di chỉ kiến trúc và
mộ táng xây bằng vật liệu nặng với hàng chục, hàng trăm khối đá, gạch, cát, nằm
77
giữa vùng trũng thấp hay dọc theo những đường nước cổ. Để xây dựng chúng,
những vật liệu xây dựng chỉ có thể đã được vận chuyển bằng thuyền, bè trên các
con kênh mà cư dân nơi đây đã đào.
Như vậy, với những phát hiện này là bằng chứng cụ thể, bổ sung cho những
ghi chép mà thư tịch cổ Trung Hoa từng nói đến việc “thuyền họ đóng dài tới 8, 9
trượng, lòng thuyền rộng 6, 7 thước, đầu và đuôi giống hình con cá” (Nam Tề Thư)
hay việc nhà vua Phù Nam (Phạm Man) đóng thuyền to vượt biển lớn đánh chiếm
hơn 10 nước phiên thuộc (Lương Thư) [120, tr.171-274]…
Qua những phân tích trên có thể thấy, thuyền có vai trò rất quan trọng trong
đời sống của cư dân Óc Eo. Nó không chỉ là phương tiện để lưu thông, buôn bán mà
có thể còn dùng trong chiến tranh bảo vệ lãnh thổ cũng như đi chinh phục các nước.
Từ đó có thể đoán định, trong thời đại Óc Eo, giao thông vận chuyển bằng đường
sông và đường biển khá sôi động, đóng vai trò quan trọng trong việc giao lưu kinh
tế, văn hóa giữa các vùng.
Như vậy, có thể thấy rằng, cư dân Óc Eo là những nhà trị thuỷ giỏi. Họ đã
biết khai thông và đào những đường nước phục vụ cho giao thông và thoát nước
trong mùa ngập úng, điều tiết thuỷ lợi cho hoạt động nông nghiệp; biết nắm bắt và
hiểu sâu rộng về điều kiện tự nhiên. Điều này đã tạo nên mối quan hệ hài hoà giữa
con người và môi trường sống. Đó là thái độ tôn trọng, thích ứng và khắc phục
những bất cập của tự nhiên, biến nó thành những lợi thế của vùng đồng bằng sông
nước Cửu Long; là biểu hiện của thái độ ứng xử khôn ngoan giữa con người với
môi trường sống.
Về đường bộ: Cư dân Óc Eo chủ yếu sống dọc các con kênh rạch, phương
tiện vận chuyển chủ yếu là thuyền bè. Bên cạnh đó, để vận chuyển các loại hàng
hoá trên địa hình cao, bằng phẳng rất có thể người Óc Eo đã sử dụng sức kéo của
nhiều loại động vật khác nhau như: voi, ngựa, trâu, bò... Điều này đã được chứng
minh qua việc tìm thấy nhiều xương, răng của các loại động vật này trong các di chỉ
cư trú và nhiều khắc hoạ hình các con voi, ngựa, trâu, bò... cùng với nhiều hình
bánh xe trên các lá vàng chôn trong các ngôi mộ [14, tr.127] hay đền tháp. Trong
các loại động vật này, loài voi được coi là phương tiện giao thông quan trọng nhất
78
trên đường bộ. Theo các thư tịch cổ Trung Hoa “Nhà vua đi ra ngoài thì cưỡi voi,
đàn bà cũng cưỡi voi” (Nam Tề Thư, Lương Thư) [2, tr.152]. Voi còn được dùng
trong vận chuyển tải vật trên các vùng địa hình phức tạp, dùng trong chiến tranh
(Tân Đường Thư) [2, tr.152]. Nó là phương tiện hữu hiệu nhất trong việc di chuyển
chiến lược trên các vùng rừng rậm, đồi núi.
Bên cạnh đó, ngựa và trâu, bò cũng được nuôi để sử dụng trong việc vận
chuyển trên đường bộ. Có thể, cư dân Óc Eo đã sử dụng các loại xe cộ để chuyên
chở hàng hoá. Điều này được chứng minh khi các nhà khảo cổ học đã phát hiện một
trục bánh xe bằng gỗ lớn tại Long An [PL2.6, h5, tr.216], giống như phương tiện
vận chuyển cổ truyền (xe trâu, xe bò, cộ trâu…) của người Khmer hiện nay đang sử
dụng. Hay một bánh xe bằng đá được phát hiện ở di tích Óc Eo và nhiều bánh xe
khắc trên vàng khác cũng được tìm thấy trong các di tích Óc Eo [PL2.6, h.6, tr.216].
Tuy nhiên, bánh xe này có thể không phải dùng trong vận chuyển mà nó có tính
chất tôn giáo nhiều hơn.
Đặc biệt, trong một minh văn ở Đá Nổi (An Giang) đã ghi lại việc cư dân Óc
Eo làm các con đường để thuận tiện trong việc đi lại giao bang với các nước như
Champa [2, tr.152-153].
Như vậy, có thể nói rằng, xã hội Óc Eo đã rất phát triển. Họ đã đạt được
nhiều thành tựu trong việc cải tạo điều kiện sống, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ
cho nhu cầu cuộc sống ngày một phát triển. Họ không chỉ biết làm thuyền để đi trên
sông, trên biển; đào các con kênh dài hàng trăm km để đi lại và phục vụ tưới tiêu, mà
còn biết làm đường ở những nơi khô ráo để đi lại, trao đổi và giao lưu với các nước.
2.2. Đời sống mưu sinh
2.2.1. Nông nghiệp
Vương quốc Phù Nam được hình thành từ những vùng đất phù sa phì nhiêu dọc
các con sông lớn và các giồng cát ven biển, địa hình tương đối bằng phẳng, chịu ảnh
hưởng của gió mùa nhiệt đới, với 6 tháng mùa mưa và 6 tháng mùa khô. Đây cũng là
vùng có quần thể động thực vật phong phú. Trên cơ sở điều kiện sống cùng môi trường
sinh thái như vậy đã tạo thuận lợi cho nông nghiệp phát triển, với các ngành nghề:
trồng lúa, trồng cây ăn củ, cây ăn quả và cho cả chăn nuôi, săn bắt, đánh cá…
79
2.2.1.1. Nghề trồng lúa
Trong nông nghiệp, cây lúa luôn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của cư
dân vùng ĐBSCL từ xưa tới nay. Trong một môi trường phổ biến là sình lầy, ẩm
thấp, đất đai màu mỡ, phì nhiêu. Sau mỗi lần lũ về lại đi, đã cung cấp phù sa cho
ruộng đồng, tạo điều kiện cho nghề trồng lúa phát triển có thể chi phối toàn bộ hoạt
động nông nghiệp nơi đây.
Tài liệu khảo cổ học đã cho chúng ta nhiều bằng chứng đáng tin nhất về nghề
trồng lúa cổ ở ĐBSCL. Thời kỳ này, trong xã hội Óc Eo nghề trồng lúa rất có thể đã
phát triển ở cả vùng cao lẫn vùng thấp. Điều này đã được các nhà nghiên cứu chứng
minh qua việc tìm thấy trong tầng văn hóa khảo cổ, trên đồ gốm, gạch có rất nhiều
dấu tích của vỏ trấu, lúa và cả hạt gạo trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo khắp
các tỉnh miền TNB cả vùng cao lẫn vùng thấp như di tích Giồng Cát, Óc Eo (Ba
Thê), Gò Tháp, Nền Chùa (Kiên Giang)…
Lần đầu tiên tại Giồng Cát, L.Malleret phát hiện một chiếc nồi gốm cổ, bên
trong là những hạt thóc gạo đã cháy hoàn toàn. Nhưng lúc đó, do những mẫu thóc
gạo này ở tình trạng không tốt nên ông không chú ý, và sau đó đã bị thất lạc. Đến
năm 1944, trong lúc tiến hành cuộc khai quật khảo cổ học đầu tiên ở vùng Óc Eo,
một lần nữa, ông lại phát hiện một số hạt thóc bị cháy đen, lẫn cùng với xương trâu
bò [92, tr.97]. Nhưng lần này cũng không được nghiên cứu do bị thất lạc trong viện
bảo tàng. Mãi đến năm 1979, Võ Sĩ Khải và Đỗ Đình Truật (Viện KHXH tại
TP.HCM) đã điều tra thám sát vùng Ba Thê - Óc Eo và thu được 2 mảnh đất nung
có lẫn vỏ trấu chưa bị cháy, 4 vỏ trấu khá hoàn chỉnh, dạng hạt thon và 1 mảnh trấu
lẫn trong vụn gạch có dạng hạt dài. Theo ông, những hạt lúa này rất có thể là loại
lúa trồng, vì chúng không có râu. Đến năm 1982, trong đợt khai quật năm ở di chỉ
Nền Chùa (Kiên Giang), Võ Sĩ Khải và những người cộng tác cũng đã phát hiện 3
hạt thóc rời (1 hạt lép còn nguyên, 1 lép bị mủn và 1 chắc còn nguyên) có vỏ vàng
sẫm, đôi chỗ sẫm nâu, hạt thon. Năm 1983, Lê Xuân Diệm và những người cộng tác
trong lúc điền dã cũng phát hiện được một số hạt thóc cháy hoàn toàn ở độ sâu 3m,
dưới chân gò mộ A1, trong vùng Ba Thê - Óc Eo thuộc tỉnh An Giang. Có những
hạt rời và những hạt dính nhau thành tảng (nhỏ) [38, tr.239]… Những năm gần đây,
80
hàng loạt các dấu tích về lúa gạo trong các di tích khảo cổ trên khắp các tỉnh
ĐBSCL [PL2.9, h.4-5, tr.224] được phát hiện. Bên cạnh việc phát hiện các hạt lúa
trong các di tích, các nhà khảo cổ học còn phát hiện một số mảnh thực vật, theo suy
đoán rất có thể là lá lúa. Điều này chứng tỏ rằng, trên châu thổ sông Cửu Long,
nghề trồng lúa đã được hình thành và phát triển ngay những năm đầu Công nguyên.
Bên cạnh đó, với truyền thống làm gốm trộn vỏ trấu đã xuất hiện từ khoảng
thế kỷ II TCN và đã được duy trì, tiếp nối trong suốt thời tiền sử muộn cho đến thời
kỳ văn hóa Óc Eo. Như vậy, với cứ liệu này cho thấy, nghề trồng lúa đã xuất hiện
khá sớm ở đồng bằng Nam Bộ.
Điểm nổi bật của nghề trồng lúa ở vùng ĐBSCL là sự xuất hiện khá nhiều
giống lúa khác nhau [PL5, tr.257]: loại hạt tròn cỡ lớn, hạt dài, loại lúa hoang dại,
lúa nổi [2, tr.125]… Loại lúa hạt tròn cỡ lớn là lúa cạn, vốn được trồng rộng rãi ở
vùng “ruộng chờ mưa” trên địa hình đồi gò bán sơn địa. Loại lúa hạt dài là lúa nước
được du nhập từ Ấn Độ, trồng ở những nơi đất khô ráo. Loại lúa nổi là lúa chịu
nước, phù hợp ở những vùng thấp trũng, thường xuyên ngập nước nhiều tháng trong
năm như vùng ĐBSCL; người ta gieo trước khi nước bắt đầu lên, cây lúa lớn dần
theo mực nước, khi lúa chín, họ bơi thuyền ra cắt lấy bông, những hạt rụng xuống
lại tiếp tục mọc vào những mùa năm sau [106, tr.126-127]. Loại lúa mọc hoang dại,
con người không cần phải trồng cũng như chăm sóc. Giống lúa này ngày nay gọi là
“lúa ma” hoặc “lúa trời” chỉ xuất hiện ở vùng Đồng Tháp Mười. Tất cả những giống
lúa này được trồng bằng kỹ thuật, phương thức canh tác, địa hình và được khai thác
theo những cách thức khác nhau, làm nên sự phong phú cho nghề trồng lúa ở vùng
ĐBSCL vào những thế kỷ đầu Công nguyên.
Điều này cũng đã được các thư tịch cổ Trung Quốc ghi chép lại, cư dân Óc
Eo ở vùng ĐBSCL trồng nhiều giống lúa khác nhau, có những loại “một năm trồng,
ba năm thu hoạch” (Tấn Thư), hay “một năm cấy ba năm thu hoạch” (Tân Đường
thư). Trong Chân Lạp phong thổ ký, Châu Đạt Quan đã ghi rõ: người dân ở đây có
thể làm ba hay bốn mùa trong một năm, những nhà nông còn biết tính theo thời tiết
để biết lúc nào lúa chín và khi nào con nước lên xuống để có thể chọn giống lúa phù
hợp với từng loại ruộng. Họ không dùng trâu bò để kéo cày; các dụng cụ làm nông
81
như cày, bừa, liềm, hái có cách chế tạo rất đặc biệt. Làm ruộng và trồng rau đều
không dùng phân bón, vì sợ không được sạch. Ở đây còn có một loại ruộng bãi,
không gieo mà tự mọc, nước cao đến đâu thì lúa mọc cao đến đó [116, tr.68-72].
Như vậy, theo nguồn tư liệu này, nghề lúa ở ĐBSCL mười thế kỷ đầu Công nguyên
đã rất phát triển, người nông dân ở đây đã có những kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất,
nắm được quy luật tự nhiên cũng như đặc điểm của từng loại đất ruộng để chọn
giống lúa, điều tiết lịch thời vụ cho phù hợp.
Có thể thấy, ở vùng ĐBSCL, nghề trồng lúa đã phát triển một cách mạnh mẽ
từ thời kỳ Óc Eo. Thời kỳ này, lúa gạo đã trở thành nguồn lương thực chính để nuôi
sống con người nơi đây. Nghề trồng lúa không chỉ tác động mạnh đến đời sống vật
chất, mà còn tác động đến đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo. Con người nơi đây
đã biết sử dụng các kỹ thuật để trồng lúa, đặc biệt, nghề lúa nước mới khởi sự ở
vùng thấp châu thổ. Nó đã nhanh chóng phát triển, làm thay đổi cơ bản nhiều lĩnh
vực đời sống con người và xã hội, bắt đầu hình thành một nền văn minh nông
nghiệp lúa nước, tiếp nối nền văn minh lúa cạn vẫn phát triển ở vùng Đồng Nai.
Trong quá trình làm nông nghiệp, cư dân Óc Eo có thể đã phải sử dụng
những dụng cụ lao động để phát quang, dọn đất làm ruộng và trồng các loại cây…
Đáng tiếc là cho đến nay, dấu tích của công cụ lao động, nông cụ trong văn hóa Óc
Eo rất hạn chế, các dấu tích thường không rõ ràng, khó xác định thuộc loại nào. Có
thể xảy ra một số trường hợp sau:
Thứ nhất, rất có thể cư dân Óc Eo đã sử dụng những nguyên liệu nguồn gốc
thực vật sẵn có trong tự nhiên (trong đó, gỗ, tre, nứa là chính) để chế tác nông cụ,
chẳng hạn như nọc gỗ cấy lúa của người Việt xưa ở vùng ĐBSCL vẫn dùng
[PL2.3, h.16, tr.205], hiện nay còn lưu giữ tại BTĐT hoặc những công cụ tương tự
mà chúng ta chưa biết đến. Theo thời gian, cùng tác động phá hoại của khí hậu, môi
trường nhiệt đới nóng ẩm, các loại công cụ này không để lại dấu vết trong lòng đất.
Đây là một giả thuyết dễ được chấp nhận nhất. Bởi lẽ, nó phù hợp với hoàn cảnh,
môi trường, khí hậu lúc bấy giờ.
Thứ hai, do đây là vùng sình lầy, ẩm thấp, cư dân Óc Eo có thể đốt đồng và
xạ lúa thẳng xuống ruộng như hiện nay người dân ở miền TNB vẫn đang làm, nên
82
các công cụ lao động không được sử dụng. Sau khi lúa chín, có thể cũng không cần
phải sử dụng công cụ lao động để thu hoạch, vì “ở Đông Nam Á, đối tượng thu
hoạch là lúa nước, giai đoạn đầu công cụ thu hoạch không phải là chuyện thiết yếu.
Tư liệu dân tộc học cho biết ở Tây Nguyên… các dân tộc còn dùng tay để tuốt”
[147, tr.342], cũng giống như việc thu hoạch lúa trời ở vùng ĐBSCL, họ chỉ cần
rung cây lúa để cho những hạt chín rụng xuống. Đây là một trong những nét văn
hóa đặc sắc trong việc trồng lúa trời (lúa ma) của người dân vùng TNB. Tuy nhiên,
giả thuyết này có thể chỉ đúng với việc thu hoạch “lúa ma” (lúa trời) và một số loại
lúa nước, còn đối với lúa ruộng khô hoặc một số hoạt động nông nghiệp khác không
thể không dùng công cụ lao động, chỉ có điều là chưa được phát hiện và nghiên cứu.
Thứ ba, có thể trong một vài trường hợp, họ đã dùng những công cụ lao động
như rìu bôn bằng đá, đồng, sắt như giai đoạn sớm ở miền Đông Nam Bộ, nhưng do
ĐBSCL là vùng ẩm thấp, sình lầy, có nhiều vùng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn làm
cho công cụ bằng kim loại dễ bị huỷ hoại theo thời gian, nên hiện nay chưa tìm thấy
hoặc chỉ tìm thấy những dấu hiệu của công cụ mà không thể khẳng định đó thuộc
loại nào, hình dáng và chức năng của chúng. Chẳng hạn việc phát hiện “một cục xỉ
quặng và một công cụ bằng sắt (0,25m), cái soi loại công cụ gì”. Hay tại Giồng Cát,
trong hố khai quật L.Malleret đã tìm thấy “rất nhiều các hay cái thuốn có đuốc tra
cán” [91, tr.312], tuy nhiên, ông cũng không dám chắc chắn đó là loại công cụ thời
kỳ Óc Eo, chỉ biết rằng, nó rất khác với những công cụ hiện nay.
Như vậy, có thể khẳng định, nghề trồng lúa trong xã hội Óc Eo chắc chắn đã
rất phát triển. Tuy nhiên, việc người dân nơi đây sản xuất như thế nào, sử dụng nông
cụ gì, đến nay vẫn còn là một khoảng trống, nguồn tư liệu khảo cổ chưa thể xác định
được. Có thể trong một số công việc họ đã sử dụng các loại công cụ bằng tre, nứa,
gỗ… cũng có những công việc phải dùng các loại công cụ bằng kim loại như việc
chặt gỗ, đẽo gọt cây làm công cụ, phát quang… hoặc trong một vài trường hợp không
cần phải sử dụng nông cụ như xạ lúa, thu hoạch lúa trời?
2.2.1.2. Nghề làm vườn, trồng cây ăn quả
ĐBSCL là vùng chịu ảnh hưởng bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên
đã ban tặng cho cư dân nơi đây một hệ sinh thái rất độc đáo. Đó là hệ sinh thái vừa
83
có rừng với một quần thể động thực vật vô cùng phong phú, có rừng ngập mặn ven
biển và hệ sinh thái nông nghiệp phù hợp cho các loại cây cối phát triển. Trước khi
nghề nông (trồng lúa) ra đời, con người đã biết săn bắt, hái lượm và chủ yếu sống
bằng rau, củ, quả trên rừng; cua, ốc, cá dưới sông. Trước khi họ chuyển sang sống
bằng nghề nông, chắc hẳn cư dân nơi đây đã thuần dưỡng một số các loại cây sẵn có
trong thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống định cư. Vì thế, việc trồng cây ăn quả
và các loại rau, củ có thể xuất hiện ở vùng này rất sớm. Điều này được thể hiện qua
việc phát hiện những dấu tích thực vật trong các di tích cư trú, di chỉ mộ táng và đặc
biệt là việc tìm thấy hình ảnh của nhiều loại thực vật chạm trên các lá vàng chôn
trong những ngôi mộ táng.
Qua kết quả phân tích bào tử phấn hoa trong địa tầng một số di tích ở sườn núi
Ba Thê và một số di tích khác ở TNB cho thấy, hệ thực vật ở đây là thực vật nhiệt
đới, với các loài cây thân gỗ xen lẫn với thực vật thân thảo và dương xỉ. Trong đó,
xuất hiện nhiều họ - bộ như: rau giền (Amaranthacées); trúc đào (Apocynacéest.
Alysia); Boraginacées; cẩm chướng (Caryophyllacées); rau muối (Chénopodiacées)
cúc Composées (Asteraceae, Anthemidae); thông (conifères); cói (Cypéracées); thầu
dầu (Euphorbiacées); huệ tây (liliacées); mã đề (plantaginacées); poaceae; rau răm
(polygonacées); táo ta (rhamnacées); cà phê (rubiacées); đậu (légumineuses); dương
xỉ (fougèré); cọ (palmées); bần (sonneratia); họ sonneratiacées và họ gai [96] như đã đề
cập phía trên; hay một số cây ăn quả như Rutaceae (cam/ chanh), Mangifera (xoài),
Nypa (dừa nước) [55, tr.57]. Năm 2011, trong lần thám sát tại di tích Gò Tư Trâm
(Thoại Sơn, An Giang), các nhà khảo cổ học đã phát hiện các loại trái cây dưới độ
sâu 3m, hiện đang được trưng bày trong BTAG [PL2.9, h.8, tr.224]. Sự phát hiện
này đã chứng minh cho sự tồn tại của các loại cây ăn trái ở vùng TNB những thế kỷ
đầu Công nguyên. Có thể là những loại cây trồng này không phải đến thời Óc Eo
mới được trồng, mà chúng đã được trồng từ trước, ở thời kỳ sớm hơn.
Ngoài ra, nhiều loại hình trái cây được chạm, vẽ trên những lá vàng được
phát hiện ở di tích Đá Nổi (Kiên Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), bao gồm các loại:
mãng cầu xiêm; trên thân trái cây có nhiều chấm nhỏ, có thể là trái bình bát; một
loại trái cây giống với trái dừa hoặc trái cau, có mũ chụp ở đầu cuống; trái gần tròn,
84
cuống ngắn, có thể đây là trái cam hay hồng xiêm (sa-pô) và một chùm có 4 trái nhỏ
gần tròn có thể nho hoặc dâu da [17, tr.379].
Đặc biệt là dấu tích của cây dừa, dừa nước và cau xuất hiện rất nhiều trong
các di tích như Gò Cây Tung, Gò Tư Trâm, Linh Sơn Nam (An Giang), Gò Tháp
(Đồng Tháp), Lò Gạch (Long An)… Tại di tích Nhơn Thành, trong đợt khai quật
năm 2012, các nhà khảo cổ học còn phát hiện rất nhiều cột gỗ được làm từ cây đước
(Rhizophora), dừa nước (Nypa) và cau (Arecacatechu), các cọc gỗ có vết chặt rất rõ.
Kết quả xác định niên đại các cọc gỗ này là 1660 ± 50 cách ngày nay và thân dừa có
niên đại 1600 ± 50 cách ngày nay [55, tr.55]. Bên cạnh đó, trong bản minh văn K6
được tìm thấy trong di tích Gò Tháp (đã bị thất lạc), đã ghi lại “việc hiến dâng cho
thần một số nô lệ cùng 400 cây cau và 40 cây dừa trong khuôn viên của ngôi đền và
trên đất xóm làng chung quanh” [17, 241]. Qua đó có thể thấy, hai loại cây này đã
được cư dân Óc Eo trồng và sử dụng trên phạm vi rộng. Đây là chứng cứ xác thực
nhất cho những gì thư tịch cổ viết: nghề làm vườn trồng các loại cây ăn trái đã được
người Óc Eo triển khai trên một quy mô lớn, có những vườn dừa, vườn cau trồng
đến 300, 400 cây (Nam Tề Thư, Lương Thư). Với quy mô đó, nó không chỉ phục vụ
nhu cầu dinh dưỡng cho con người, sử dụng thân cây để làm nhà ở, mà rất có thể
trồng để phục vụ cho việc buôn bán, cống nộp.
Ngoài ra, cây mía cũng là loại cây được trồng phổ biến ở Phù Nam. Cây mía
ở đây “có kích thước lớn, mỗi trượng có ba đốt, khi nắng nóng thì quắt lại, khi có
gió mùa thì uốn cong xuống” (Ngô Quân tuyển tập). Mía được dân chúng làm vật
phẩm dâng lên vua Phù Nam (Lương Thư).
Như vậy cho thấy, các loại cây trồng ở vùng ĐBSCL thời kỳ này rất phong
phú, đa dạng. Chúng bao gồm các giống cây dừa, cau, mãng cầu xiêm, cam, quýt,
bòn bon, dâu da, cây vừng, thốt nốt, xoài, chuối… Ngoài ra, còn có một số loại cây,
hoa khác như: hoa sen, hoa súng, hoa atisô, hoa cúc, hoa trang, hoa cẩm chướng...
Những loại cây trồng này không những có tác dụng bổ sung nguồn năng lượng cho
đời sống vật chất của xã hội, có thể được dùng để dâng lên vua hay để buôn bán,
đồng thời, chúng còn là những thứ quan trọng được “dùng làm vật phẩm trong việc
cúng tế các thần linh” [14, tr.123] của cư dân Óc Eo.
85
Nhìn chung, nghề trồng cây lương thực và cây ăn trái ở thời kỳ này rất phong
phú, về chủng loại, mở rộng về địa bàn. Có thể thời kỳ này đã có những người chỉ
chuyên trồng các loại cây ăn trái, trở thành một kế sinh nhai. Sản phẩm của nghề
này gia tăng rất nhiều về mặt số lượng, trong đó, chủ yếu là mía, đường, cau...
Những sản phẩm này đã có thể đảm bảo cho cuộc sống con người được đầy đủ hơn.
2.2.1.3. Chăn nuôi, đánh bắt
Trồng lúa và các loại rau, củ của cư dân Óc Eo là nhằm cố gắng đảm bảo nhu
cầu lương thực, còn về thực phẩm thì có lẽ họ phải dựa vào thiên nhiên là chính.
Đánh bắt thuỷ, hải sản: Cho đến nay, chưa có tài liệu nào nói về nghề đánh
bắt thuỷ, hải sản của cư dân Óc Eo. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, với cư dân
sống chủ yếu trên sông nước, ven biển thì việc đánh bắt các loại thuỷ hải, sản là
hoạt động kinh tế không thể thiếu.
Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, ĐBSCL là vùng được thiên nhiên ưu
đãi, nơi đây có nhiều tôm cá, các loại lâm, ngư sản vô cùng phong phú, cư dân nơi
đây đã biết tận dụng nguồn lợi từ thiên nhiên đó để phát triển nghề đánh bắt thuỷ
hải sản, nhờ đó mà họ đã nuôi sống gia đình và xã hội. Họ bắt các loài nhuyễn thể,
giáp xác với các loài Cyrena, Paludine, Tronycidae làm thực phẩm, tàn tích còn lưu
lại thành những lớp rất dày trong các đống rác bếp ở Óc Eo. Đối với các loại như
tôm, cá, họ thường dùng các loại lưới có cột chì lưới để đánh bắt. Những chiếc chì
lưới này [PL2.3, h.22, tr.206] được tìm thấy rất nhiều ở một số di tích như Nền
Chùa, Óc Eo, Đá Nổi…
Bên cạnh việc tận dụng nguồn lợi thuỷ sản trong tự nhiên như đánh bắt tôm,
cá, rùa… nước ngọt, thì hoạt động đánh bắt hải sản có lẽ cũng được cư dân nơi đây
thực hiện. Mặc dù ở vùng ĐBSCL, dấu tích của việc đánh bắt hải sản chưa được thể
hiện một cách rõ nét, song rất có thể, việc phát hiện những dấu tích của vỏ hàu,
nghiêu, sò, ốc, càng cua nằm rải rác trong tầng văn hóa của một số di tích thuộc văn
hóa Óc Eo ở miền Đông Nam Bộ như di tích Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt hoặc xa hơn
là những gò vỏ sò trong các di tích trên bờ biển Trung Bộ, cho đến tận di tích Đa
Bút, Câu Giát [93, tr.204], cho ta liên tưởng đến cuộc sống của cư dân Óc Eo ở
vùng miền TNB cũng có thể đã xuất hiện nghề đánh bắt hải sản làm nguồn thực
86
phẩm. Đặc biệt là sự xuất hiện các loại hình đồ trang sức được làm từ các loại vỏ
nhuyễn thể như ốc, hàu, nghiêu và các đồ trang sức bằng vàng được thể hiện theo
hình dáng của loại rùa Trionyx hay các hiện vật khác được thể hiện dưới hình con
cá ngựa và một số loại cá khác [93, tr.203] ở các di tích sớm… càng chứng tỏ nghề
đánh bắt hải sản của cư dân Óc Eo ở miền TNB đã xuất hiện.
Săn bắt và chăn nuôi: Việc săn bắt và chăn nuôi đã phổ biến ở thời bấy giờ,
đặc biệt là vùng Đồng Tháp Mười. Bên cạnh nguồn cá, tôm, rùa, rắn… rất phong
phú, nơi đây còn có nhiều loài muông thú tập trung sinh sống. Nhiều loại động vật
dã sinh cũng được săn bắt làm thực phẩm và phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con
người như các loại bò rừng, heo rừng, hươu, hoẵng, voi, ngựa... Tại Gò Ô Chùa, các
nhà khảo cổ đã phát hiện trên 300 viên bi gốm, có lẽ người xưa bắn chim bằng
những viên đạn gốm như tài liệu dân tộc học từng đề cập đến [49, tr.117-118].
Ngoài ra, họ còn dùng những mũi tên bằng xương, bằng đồng (tìm thấy khuôn đúc
mũi tên đồng) để săn, bẫy thú rừng. Điều này được thể hiện qua việc tìm thấy những
di cốt động vật hoang dã với số lượng lớn trong tầng văn hóa của các di chỉ cư trú
như di tích Gò Tháp, Óc Eo [PL2.9, h.1-3, tr.223]… Ngoài ra, những hình động vật
chạm trên vàng lá chôn trong các di chỉ mộ táng như: voi, ngựa, hươu, nai, cá sấu,
rùa, rắn… cũng là chứng cứ xác thực cho phép xác định trong thời kỳ Óc Eo, nghề
săn bắt là một trong những hoạt động kinh tế khá phát triển.
Tuy nhiên, nghề săn bắt và hái lượm có thể không phải là nghề chính của cư
dân Óc Eo, nó chỉ là nghề bổ trợ, tăng thêm thu nhập cho cuộc sống của cư dân nơi
đây. Bởi lẽ, bên cạnh nghề trồng lúa đã phát triển, cư dân Óc Eo còn biết chăn nuôi
các loại gia súc, gia cầm. Những hình ảnh này còn ghi lại trên các lá vàng phát hiện
trong các ngôi mộ hoả táng ở Nền Chùa, Đá Nổi, Gò Tháp, Kè Một, Gò Thành… Đó
là hình ảnh đàn bò đang gặm cỏ, đứng cạnh cây dừa nước, hoặc đang nằm dưới
những bông sen; hình bò mẹ, ngựa mẹ đang đứng cho con bú; hình những con voi
chạm với nhiều tư thế khác nhau trên những lá vàng “trấn” trong các ngôi mộ; hình
gà như đang vỗ cánh [14, tr.123] hoặc các di cốt động vật như chó nhà, heo nhà, gà
nhà và mèo nhà trong các di tích cư trú. Họ nuôi các loại gia súc, gia cầm không chỉ
để bổ sung nguồn thực phẩm cho cuộc sống, mà còn dùng vào nhiều mục đích khác
87
nhau như: nuôi gà, nuôi heo để “chơi chọi gà, chọi heo”; nuôi cá sấu, thú dữ để
dùng vào việc xét xử tội phạm; nuôi voi dùng làm phương tiện phục vụ cho việc đi
lại, chiến tranh, có khi còn được dùng làm vật cống phẩm [2, tr.127]. Có thể thấy
rằng, voi là một loại động vật có vai trò vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong
đời sống xã hội Óc Eo.
Từ đó có thể thấy rằng, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm của cư dân Óc
Eo đã phát triển trên quy mô lớn và rất đa dạng, thậm chí, có vài khâu đã được
chuyên môn hoá hoặc có tổ chức riêng, như việc cư dân Óc Eo đã phát triển mạnh
việc nuôi bò đàn, trâu đàn và cả dê. Việc chăn nuôi đã có quy mô lớn đến mức, “chỉ
một chủ trại đã có thể hiến cho thần 60 con bò, 2 con trâu, 30 con dê trong một dịp
lễ và một chủ khác hiến cả 100 con bò, 20 con trâu” [2, tr.127]. Việc chăn nuôi ở
thời kỳ này đã đáp ứng các nhu cầu khác nhau của đời sống xã hội, tuy nhiên, mục
tiêu chính và quan trọng hàng đầu của chăn nuôi vẫn là tăng cường đàn gia súc, đáp
ứng nhu cầu về thực phẩm cho cuộc sống.
2.2.1.4. Thuỷ lợi
Những con kênh đào cổ ở Nam Bộ lần đầu tiên được nhà địa lý Pháp Piere Paris
nhắc đến vào năm 1929. Tuy nhiên, do không có chứng cứ thuyết phục nên ít được
quan tâm tới. Đến năm 1944, trong khi khai quật Óc Eo, L. Malleret một lần nữa đã
dùng không ảnh để chụp, phục dựng lại hệ thống kênh đào nối liền cảng thị Óc Eo
với Angkor Borei (Cămpuchia). Đến năm 2003, Eric Bourdonneau ở Đại học Paris I,
Pantheon Sorbonne (Pháp) tiến hành kiểm chứng bằng cách chụp không ảnh và lấy
mẫu xác định niên đại C14 một số đoạn kênh, đã xác định tuổi của các đoạn kênh
khoảng từ thế kỷ III - VII, tức trùng với thời kỳ cực thịnh đến suy vong của Phù Nam
[77, tr.222-224]. Hay tác giả Lê Xuân Thuyên cũng đã phân tích địa chất môi trường
lòng kênh cổ và hào luỹ ở vùng Tứ Giác Long Xuyên cũng đã xác định thuộc tầng
văn hóa Óc Eo [136]. Những nghiên cứu gần đây của Manguin (năm 2004) đều xác
nhận, sự bắt đầu mạng lưới kênh mương và kiến trúc tôn giáo rơi vào giai đoạn Óc
Eo, có niên đại C14 bắt đầu từ khoảng thế kỷ II đến thế kỷ IV [77, tr.225].
Như vậy, với những kết quả này cho phép xác định, các con kênh toả ra trên
khắp vùng ĐBSCL là sản phẩm của vương quốc Phù Nam. Hệ thống kênh đào này
88
có vai trò rất quan trọng trong đời sống của cư dân Óc Eo, có thể đáp ứng nhu cầu
sử dụng nguồn nước trong sinh hoạt, nhu cầu tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp
và nhu cầu giao thông. Đặc biệt, cư dân Óc Eo sống trong điều kiện thường xuyên
bị ngập nước. Những lúc con nước lên có thể gây ngập úng cả một vùng rộng lớn.
Để hạn chế những thiệt hại do thuỷ triều lên xuống, họ đã đào những con kênh
thoát nước - dẫn nước và còn để dùng trong việc đi lại. Những con kênh đào này
tạo thành một mạng lưới giao thông chằng chịt nối liền những vùng cư trú lại với
nhau. Dấu tích để lại là những “con kênh Kiên Giang - Minh Hải chạy qua các khu
di tích Núi Sam, Bảy Núi, Óc Eo, con kênh Lung Giếng Đá từ di chỉ Tráp Đá (An
Giang) đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang) dài khoảng 30km; kênh số 01(tên
mới) chạy từ Tri Tôn, từ đông sang tây dài khoảng 16km, ngay ở khu Óc Eo - Núi
Sập - Định Mỹ” [115, tr.25].
Với một khối lượng kênh đào như như vậy cho thấy, thời kỳ này, thuỷ lợi đã
rất phát triển. Các con kênh đào không chỉ nhằm phục vụ giao thông mà còn để
thoát nước những lúc thuỷ triều lên, dẫn nước trong mùa khô hạn để tưới tiêu cho
đồng ruộng. Qua đó, có thể thấy được nền kinh tế nông nghiệp của cư dân Óc Eo đã
qua khỏi tình trạng tự phát, có tính cộng đồng rất cao, có tổ chức chặt chẽ và quy
mô rộng lớn trên toàn miền TNB vào những thế kỷ đầu Công nguyên. Đây là một
trong những thành tựu nổi bật nhất của Phù Nam. Bởi lẽ, trong vùng Đông Nam Á
lục địa, xuất hiện nhiều vùng có nền nông nghiệp lúa nước phát triển như sông
Châu Giang (Trung Quốc), sông Hồng, sông Mã (Việt Nam), sông Me Nam (Thái
Lan)… Tuy nhiên, với một hệ thống kênh đào chằng chịt, có chức năng tưới tiêu,
thoát nước và nối liền các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lại với nhau thành
một đặc trưng của nhà nước cổ đại thì chỉ xuất hiện ở Phù Nam.
Tóm lại, trong lĩnh vực hoạt động nông nghiệp, cư dân văn hóa Óc Eo đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, để lại những dấu ấn rõ nét cho nền văn hóa này. Họ
trồng lúa nước hoặc lúa rẫy và nhiều loại ngũ cốc, cây ăn trái với quy mô lớn, vận
dụng kỹ thuật mới, biết làm thuỷ lợi, đào kênh mương dẫn nước tưới tiêu cho đồng
ruộng… tạo ra khối lượng nông sản dồi dào, đa dạng đáp ứng nhu cầu và làm tiền
đề cho sự phát triển của xã hội.
89
2.2.2. Các nghề thủ công
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, các nghề thủ công của cư dân Óc Eo ở miền
TNB cũng là một hoạt động khá phát triển. Qua những di vật như các công cụ sản
xuất, các loại sản phẩm, đồ trang sức… cho thấy, trong thời đại Óc Eo, các ngành
nghề thủ công đã rất đa dạng, phong phú như: nghề làm gốm, làm gạch, dệt, mộc,
điêu khắc tạc tượng, luyện kim, kim hoàn, chế biến thuỷ tinh…
2.2.2.1. Nghề làm đất nung
- Nghề sản xuất gốm: Đồ gốm là di vật quan trọng, được tìm thấy nhiều nhất
trong văn hóa Óc Eo. Các sản phẩm bằng gốm gắn liền với đời sống sinh hoạt thường
nhật của cư dân nơi đây, cũng như phản ánh nhiều mặt đời sống văn hóa - xã hội của
con người trong từng giai đoạn tồn tại và phát triển trên vùng đất này.
Các di vật gốm có mặt hầu hết trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo ở
ĐBSCL, nhưng nhiều nhất là trong các di tích cư trú và các ngôi mộ táng. Qua các
cuộc khai quật, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều dấu vết của lò sản xuất gốm và
khuôn sản xuất đồ gốm, dụng cụ làm gốm như bàn xoa [PL2.3, h.1-4, tr.202], bàn
dập, trụ của bàn xoay và nhiều bán thành phẩm ở một số di tích như: Óc Eo (Ba
Thê), Cạnh Đền, Nền Vua (Kiên Giang), Gò Tháp... Tại khu di tích Gò Tháp, “lần
đầu tiên thuộc văn hóa Óc Eo phát hiện được khuôn làm nắp vung. Nó cho thấy
chắc chắn tại khu di tích này, đồ gốm được sản xuất tại chỗ” [95, tr.120]. Một số
nơi cũng đã tìm thấy những “sàn đất nung cứng” được đoán định dấu vết của hiện
trường nung đồ gốm theo kiểu “lộ thiên” [2, tr.133] như ở di tích Gò Đế, Gò Hàng
(Long An).
Về chất liệu: Kết quả nghiên cứu cho thấy, đồ gốm thuộc giai đoạn Óc Eo
được chế tác từ đất sét xuất phát từ sự phân huỷ của các loại đá hoa cương trong
vùng và những chất liệu có nguồn gốc phù sa, xương gốm khá mịn, gốm màu đỏ
hay nâu hồng hoặc xám đen, trừ các chén nhỏ và nồi nấu kim loại cứng chắc như
sành do xương gốm pha nhiều sạn sỏi nên có màu xám. Đồ gốm trong văn hóa Óc
Eo có cả gốm thô và gốm mịn.
Về kỹ thuật sản xuất: Đồ gốm trong văn hóa Óc Eo có sự phát triển về kỹ
thuật, cũng như chủng loại, tuy nhiên, quy trình sản xuất như thế nào đến nay vẫn
90
chưa xác định được đầy đủ. Các nhà nghiên cứu cho rằng, nguyên liệu chủ yếu
được khai thác tại địa phương, với kỹ thuật nung ngoài trời. Theo kết quả phân tích
thành phần hoá học của đồ gốm ở đây cho thấy: loại đất để làm gốm đều là đất sét
pha cát có nguồn gốc phù sa, tuỳ từng loại mà người ta cho các phụ gia khác nhau.
Chẳng hạn, những dụng cụ dùng để nấu nướng thường trộn nhiều cát thô; còn
những đồ gốm gia dụng đều làm từ đất sét khá thuần lại được lọc kỹ, chế tạo bằng
bàn xoay kết hợp dải cuộn, xương gốm rất mịn và chắc. Gốm thường có màu trắng
ngà, hồng nhạt hay nâu đỏ. Loại hình phổ biến là các kiểu hũ, bình, nắp lõm, cốc
chân cao… đặc biệt là loại bình ấm có vòi và nắp hình tháp được coi là đặc trưng
của đồ gốm trong văn hóa Óc Eo. Đồ gốm Óc Eo thường được nặn tay, bàn xoay,
dập khuôn và dải cuộn. Trong đó, kỹ thuật bàn xoay là phổ biến nhất.
Như vậy, nghề gốm ở vùng ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên đã rất
phát triển, nó được coi là một trong những nghề phát triển nhất trong văn hóa Óc Eo.
- Nghề làm gạch, ngói: Để phục vụ cho việc xây dựng các đền tháp và công
trình kiến trúc có quy mô lớn, việc sản xuất vật liệu xây dựng đã trở thành một nghề
quan trọng trong đời sống của cư dân Óc Eo.
Làm gạch: Là nghề có thể chỉ mới xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên
với sự du nhập của văn minh Ấn Độ. Đây là loại vật liệu chính được dùng để xây
dựng các công trình kiến trúc tôn giáo, mộ táng... trong văn hóa Óc Eo ở khắp các
tỉnh miền TNB. Số lượng gạch nung xuất hiện trong văn hóa Óc Eo rất nhiều, quy
mô của các kiến trúc bằng gạch lớn, thậm chí khá đồ sộ. Theo tư liệu khảo cổ học,
những viên gạch được sử dụng trong xây dựng kiến trúc Óc Eo được chế tác tại chỗ
với loại đất sét bản địa, nhưng theo tiêu chuẩn của gạch Ấn Độ: chiều dài gấp hai
lần chiều rộng và gấp bốn lần bề dày. Nó chỉ tiếp thu về mặt hình thức cũng như kỹ
thuật làm gạch của người Ấn Độ chứ không phải là gạch ngoại nhập. Gạch thời kỳ
này được làm từ loại đất sét pha cát mịn, có trộn các loại phụ gia như vỏ trấu, bột
gạch, cát; có các màu đỏ gạch, đỏ nhạt, xám vàng hay xám trắng; kích thước khá
lớn, có những viên kích thước 40cm x 20cm x 10cm [17, tr.384-385].
Nghề sản xuất ngói: Song song với nghề làm gạch, nghề làm ngói ở vùng
ĐBSCL xuất hiện rất sớm. Đây là hiện vật được tìm thấy khá nhiều trong một số di
91
tích như: Óc Eo - Ba Thê, Gò Tháp, Bầu Xã Keo, Gò Thành… Ngói có nhiều loại
khác nhau, có thể thấy loại ngói hình thang, sắp nóc, lá đề, nửa lá đề, hình lòng
máng cạn, hình chữ U, chữ L, hình chữ nhật… ở nhiều nơi trong các di tích kiến
trúc thời kỳ Óc Eo. Nghề làm ngói tuy không phải là nghề phổ biến ở vùng ĐBSCL
thời kỳ Óc Eo, nhưng cũng khá phát triển với nhiều kiểu dáng khác nhau, kỹ thuật
đã phổ biến dùng khuôn kết hợp với tay. Chúng có những nét đặc trưng, gắn liền
với điều kiện và văn hóa, kỹ thuật tại chỗ ở vùng sông nước miền TNB những thế
kỷ đầu Công nguyên.
Mặc dù, mới du nhập nhưng có thể nói, nghề sản xuất gạch ngói ở ĐBSCL
những thế kỷ đầu Công nguyên đóng vai trò khá quan trọng và phát triển một cách
nhanh chóng theo nhu cầu phát triển của nền văn minh đô thị lúc bấy giờ. Nghề này
ra đời nhằm phục vụ các công trình xây dựng thành quách, kiến trúc đền đài, nhà cửa
và lăng tẩm… Với trình độ sản xuất vật liệu xây dựng, mà cụ thể là sản xuất gạch
ngói đạt kỹ thuật cao nên người Óc Eo có thể sản xuất được các loại gạch đặc chủng
với kích thước cực lớn nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật [1, tr.285].
2.2.2.2. Nghề chế tác đá
Chế tác đá là một nghề thủ công truyền thống, vô cùng quan trọng trong đời
sống của cư dân Óc Eo, đáp ứng nhu cầu của con người trong đời sống sản xuất vật
chất cũng như đời sống tinh thần xã hội. Trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo, sản
phẩm bằng đá được tìm thấy khá phổ biến, nhiều nhất là trong các kiến trúc đền đài,
sinh hoạt tôn giáo và cả trong sinh hoạt hàng ngày.
Chế tác đồ đá gia dụng: các sản phẩm đá dùng trong sinh hoạt hàng ngày đã
suy giảm nhiều, không còn phổ biến trong đời sống xã hội của cư dân Óc Eo.
Những công cụ bằng đá đã được thay thế bằng công cụ bằng sắt, đồng. Các vật
dụng sinh hoạt bằng đá dường như chỉ gồm có các loại cối, chày, trục quay, lăn, bàn
nghiền…, trong đó, chày nghiền là phổ biến nhất. Nó được sử dụng trong việc
“nghiền các loại dược liệu (hạt, quả, củ) hoặc nghiền bột màu để tô vẽ các tượng”
[2, tr.135]. Nhìn chung, nghề làm đá chuyên sản xuất đồ đá gia dụng thời kỳ này
không phát triển, chỉ phần nào giữ được vai trò của mình trong một số lĩnh vực
công cụ sản xuất thủ công.
92
Chế tác đá xây dựng: Bên cạnh nghề làm gạch ngói, nghề làm đá xây dựng
thời kỳ này cũng rất phát triển. Tại di tích Ba Thê, Giồng Cát, Gò Tháp phát hiện các
hòn đá lớn có vết gia công, một số phiến đá được đẽo gọt, trang trí khá đẹp; những
cột đá lớn vuông cạnh có mộng, chốt để nối theo chiều cao ở Gò Tháp [11, tr.380];
những cột trụ bằng đá chạm khắc hoa văn được tìm thấy khắp các tỉnh miền TNB
[PL2.5, h.9-11, tr.212]. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy rất nhiều những
tấm mi cửa [PL2.5, h14-16, tr.213] và mảnh trang trí kiến trúc trong các di tích văn
hóa Óc Eo. Nó được làm bằng loại đá sa thạch, đa số bị vỡ theo thời gian. Điều này
cho thấy, kiến trúc đền tháp thời kỳ Óc Eo rất phát triển, có quy mô lớn, nguyên liệu
xây dựng chủ yếu bằng gạch và đá, dấu tích để lại nay chỉ còn là nền móng.
Ngoài ra, nhóm thợ chuyên chế tác tượng đá, làm đồ trang sức bằng đá…
cũng rất phát triển ở thời kỳ này. Tuy nhiên, nhóm thợ chuyên chế tác những sản
phẩm này đã đạt đến trình độ điêu khắc nghệ thuật, nên có thể xếp vào nghề điêu
khắc và làm đồ trang sức.
Như vậy, trên thực tế, thời kỳ Óc Eo, nghề chế tác đá đã chuyển sang bước
ngoặt mới trước sự phát triển của kim loại. Trong thời kỳ này, những công cụ đá
gần như đã mất hẳn, ngoại trừ một số đồ đá mà đồ kim loại không thể thay thế được
như bàn mài, bàn nghiền, bàn xoay, cối đá, khuôn đúc… Ngược lại, số lượng những
vật dụng kiến trúc, tượng thờ, vật thờ bằng đá và những đồ trang sức bằng đá quý
đã rất phổ biến, xâm nhập vào mọi ngõ ngách đời sống của cư dân nơi đây. Những
người thợ làm nghề đá gia dụng thời kỳ này có thể đã chuyển sang làm nghề tạc
tượng, gia công đồ trang sức bằng các loại đá quý và làm nghề đá xây dựng.
2.2.2.3. Nghề dệt
Nghề dệt ra đời từ rất sớm và khá phát triển, ngay từ thời kỳ đồng thau - sắt
sớm ở lưu vực sông Đồng Nai và các nền văn hóa tương đương ở những khu vực
khác như Đông Sơn, sớm hơn là Phùng Nguyên, đã tìm thấy nhiều dọi xe sợi bằng
đất nung và dấu vết in thừng trên nhiều loại đồ gốm. Đến thời kỳ Óc Eo, cho đến nay,
các nhà khoa học vẫn chưa tìm thấy dấu vết của vải và khung cửi trong nền văn hóa
này. Có thể do cấu tạo bằng gỗ, tre, nứa (khung cửi) và nguyên liệu dệt từ thiên nhiên
(vải) dễ bị phân huỷ theo thời gian, vì vậy, những di vật này không để lại dấu vết
93
trong các di tích. Tuy nhiên, dựa vào những phát hiện khảo cổ, có thể suy đoán, nghề
dệt vải đã tồn tại và rất phát triển ở thời kỳ này.
Qua các đợt khai quật, thám sát các nhà khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều dọi xe
sợi trong các di chỉ cư trú và mộ táng ở Óc Eo, Nền Chùa, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò
Thành… Sự phát triển đáng kể về mặt số lượng dọi xe chỉ trong các di tích này cho
thấy, nghề dệt đã rất phát triển. Có địa điểm tìm thấy hàng chục chiếc (tại Óc Eo
L.Malleret tìm được 40 chiếc [92, tr.213]), với kiểu dáng và loại hình khác nhau như
hình quả trám, bán cầu, nón cụt, cầu hai đầu dẹt [PL2.3, h20, tr.206]… Loại phổ biến
nhất ở Óc Eo là hình bán cầu, kết hợp với một mặt hình nón cụt. Hầu hết chúng được
làm từ loại đất sét mịn, độ nung cao, cứng chắc, được trang trí bằng những đường
vòng tròn khắc chìm, đồng tâm [11, tr.386]. Với sự xuất hiện dày đặc của những
chiếc dọi xe chỉ ở một số di tích như Óc Eo cho thấy, nghề dệt trong thời kỳ Óc Eo đã
rất phát triển, có thể đã có sự chuyên môn hoá cao, hình thành những xưởng dệt sản
xuất vải cho cả xã hội lúc bấy giờ.
Đặc biệt, thời kỳ này, có thể các loại vải được dệt ra với nhiều loại dày,
mỏng, kẻ ngang, kẻ sọc, kẻ ô vuông và nhiều hoa văn khác. Tại di tích Óc Eo,
L.Malleret đã phát hiện được một chiếc hộp, đoán định dùng để in hoa văn trên vải.
Trên chiếc hộp có khắc hình hoa tám cánh trên đường chéo và trục các ngăn hình
vuông. Chiếc hộp được làm bằng đất xốp pha nhiều cát làm cho mặt hộp có độ
nhám để có thể giữ được thuốc nhuộm lâu hơn [92, tr.218]. Qua đó có thể thấy,
nghề dệt thời kỳ Óc Eo đã rất phát triển, việc mặc các trang phục không chỉ để che
chắn mà còn là để làm đẹp. Vải có thể đã được nhuộm thành nhiều màu sắc với
những hoạ tiết khác nhau.
2.2.2.4. Nghề rèn, đúc kim loại
Ngành luyện kim thời kỳ này có thể nói đã có bước phát triển, tuy nhiên sự
phát triển ở đây không đồng đều giữa các ngành nghề. Các vật dụng phục vụ sinh
hoạt hàng ngày của cư dân Óc Eo bằng kim loại như: sắt, đồng, vàng, bạc được phát
hiện không nhiều. Một số đồ dùng bằng đồng, bạc, vàng được sử dụng trong nghi lễ
tôn giáo, còn kim loại sắt ít thấy trong đồ gia dụng, có thể dùng để chế tạo công cụ
lao động là chính.
94
Nghề chế tác đồ đồng: Đồ đồng ít xuất hiện trong hoạt hàng ngày của cư dân
Óc Eo. Có lẽ do tác động của axit khoáng, hữu cơ, trên vùng đất ẩm phèn và những
vùng có muối biển do thuỷ triều lên xuống nên những đồ dùng bằng kim loại đã bị
phân huỷ theo thời gian. Cũng có thể do người dân nơi đây sử dụng các đồ đồng cũ
đúc chảy để chế tác thành đồ mới vì vùng ĐBSCL hoàn toàn không có tài nguyên về
kim khoáng [92, tr.223-224]. Trong đợt khai quật ở di tích Óc Eo, L.Malleret đã phát
hiện những mảnh hydrocacbonat đồng mục nát, hễ đụng tay vào là rã hết [92, tr.223].
Chính vì thế mà cho đến nay, người ta chỉ mới biết đến một số vật dụng bằng đồng
như lưỡi câu, mũi nhọn, lưỡi dao, búa nhỏ, giá kê đèn, đặc biệt là ba chiếc ly đồng
duy nhất được tìm thấy trong di tích Lưu Cừ còn khá nguyên vẹn. Tuy nhiên, có thể
khẳng định, nghề đúc đồng ở thời kỳ này đã rất phát triển, “đạt đến trình độ kỹ thuật -
nghệ thuật cao” [2, tr.136]. Điều này được thể hiện qua các sản phẩm như tượng thần,
tượng người, tượng thú, giá đèn, đèn… bằng đồng được tìm thấy trong các di tích
thuộc văn hóa Óc Eo. Đặc biệt là giá kê đèn, đèn [PL2.2, h.2-4, tr.200] được thiết kế
với hình dáng con người, thú, chim rất độc đáo, mang giá trị nghệ thuật cao, có thể sử
dụng làm đồ trang trí.
Bên cạnh các vật dụng bằng đồng, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy những
dấu tích cho thấy nơi đây chắc chắn nghề luyện đồng thau đã tồn tại như khuôn đúc,
các thỏi đồng to nhỏ khác nhau, miếng đồng, dây đồng… nằm rải rác trong một số
di tích như Óc Eo, Định Mỹ, Lưu Cừ… Tại di tích Óc Eo và Định Mỹ, các nhà khảo
cổ học còn phát hiện rất nhiều những mảnh đồng, dưới hình thức nén, có trọng
lượng lên đến 50 gram hoặc những mẫu dài, mảnh dẹt, viên hình tròn… Đặc biệt,
tại di tích Óc Eo, L.Malleret đã phát hiện “những chảo đúc bằng đất nung, trong đó
ít ra là có một chiếc đã đựng đồng chảy, căn cứ trên vết đồng chảy còn thấy rõ trên
miệng chảo và một lớp cùi cacbonat đồng còn dính ở mặt trong” [92, tr.191-292].
Hay tại di tích Cổ Sơn Tự nhà khảo cổ học Nhật Bản Nishimura Masanari đã phát
hiện được chiếc khuôn đúc đồng. Những chi tiết trên khuôn đúc đồng cho thấy, nó
dùng để đúc các loại công cụ có hình như chiếc rìu. Qua đó cho thấy, trong văn hóa
Óc Eo nghề đúc đồng mặc dù không phát triển như ở văn hóa Đông Sơn, nhưng
chắc chắn đã tồn tại và phát triển đến một mức nhất định nào đó.
95
Nghề chế tác đồ sắt: Cũng có nghi ngờ rằng, ở vùng ĐBSCL những thế kỷ
đầu Công nguyên, người dân Óc Eo không biết đến nghề rèn đúc sắt. Nghề rèn đúc
sắt và đồ sắt trong văn hóa Óc Eo ít được chú ý đến. Vì số vật dụng bằng sắt bảo tồn
được hình dáng hầu như rất ít, các quặng hoặc gỉ sắt cũng không nhiều. Tuy nhiên,
có thể khẳng định, nghề rèn đúc sắt ở vùng ĐBSCL có thể đã xuất hiện rất sớm, từ
những thế kỷ đầu Công nguyên, được tiếp nối từ truyền thống chế tác đồ sắt từ văn
hóa Đồng Nai. Có thể vì đồ sắt là kim loại dễ bị huỷ hoại theo thời gian. Nguyên
nhân chính là đất ở vùng ĐBSCL vừa chua, vừa mặn, lại luôn bị ngập nước nên dấu
tích của chúng để lại không nhiều, đa số đều bị gỉ sét, rất khó nghiên cứu. Các dấu
vết từ những di vật của nghề luyện sắt như quặng sắt, cặn, bọt sắt, dây sắt, ống thổi
bể… được phát hiện ở một số di tích như Cạnh Đền, Óc Eo (Ba Thê), Định Mỹ cho
thấy nghề rèn sắt ở đây đã phát triển. Trong đó, tại di tích Óc Eo (Ba Thê), người ta
đã phát hiện được các dụng cụ như dao có lưỡi cong và đục vũm, cuốc [2, tr.137].
Bên cạnh đó, dấu tích của các dụng cụ bằng sắt cũng đã được phát hiện ở
một số địa điểm ở TNB. Tại địa điểm Xoa Ảo, huyện Kiến Lương, tỉnh Kiên Giang,
các nhà khảo cổ đã phát hiện phần mũi của một chiếc thuyền bằng gỗ, đầu mũi
thuyền có xích và neo sắt; hay “một cục xỉ quặng và một công cụ bằng sắt (0,25m)”
và “rất nhiều các hay cái thuốn có đuốc tra cán” [91, tr.312] đã tìm thấy ở Giồng
Cát. Điều này cũng được thư tịch cổ Trung Quốc nhắc đến việc dùng đồ sắt để bọc
những chỗ hiểm của thuyền, dùng xích sắt nung đỏ để xử tội kẻ gian, dùng đồ sắt để
dâng lên thần linh…
Như vậy, từ đó có thể suy luận, nghề rèn đúc sắt xuất hiện từ rất sớm và đã
được sử dụng trong đời sống của cư dân Óc Eo.
2.2.2.5. Nghề chế tác đồ trang sức
- Nghề kim hoàn: Có thể nói, nghề kim hoàn là một trong những nghề phát
triển mạnh mẽ nhất trong xã hội Óc Eo thời bấy giờ và đã đạt đến trình độ hoàn
thiện. Sự tinh xảo trên một số đồ trang sức thể hiện rõ nét tài hoa cũng như trình độ
kỹ thuật của người thợ kim hoàn đương thời. Sự phát triển rực rỡ của nghề kim
hoàn để lại dấu tích trên vùng ĐBSCL một cách rõ nét.
96
Trước hết là số lượng di vật bằng vàng: Các di vật bằng vàng được tìm thấy
rất nhiều trong văn hóa Óc Eo, có những địa điểm, các di vật xuất hiện với số lượng
lớn, được xem là “Cánh đồng vàng”. Bộ sưu tập trước những năm 1975 lên đến
1.311 đồ trang sức bằng vàng [150, tr.922]. Từ sau 1975 trở lại đây, các loại hiện
vật trên cũng tiếp tục được tìm thấy trong các di tích văn hóa Óc Eo. Đặc biệt, tại di
chỉ Đá Nổi An Giang khai quật năm 1983, đã “phát hiện 317 hiện vật bằng vàng,
phần lớn là những lá vàng mỏng có chạm hình người, thần linh, động vật trong
thiên nhiên và động vật biểu tượng của các thần linh, thảo mộc, vật thể và chữ viết,
gồm những biểu tượng Ấn giáo, nhưng được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên
bản địa” [150, tr.922]. Điều này cũng được L.Malleret khẳng định “mặc dù có mang
phong cách Ấn Độ, đồ vàng của chúng rõ ràng là sản phẩm của công nghiệp địa
phương” [93, tr.3].
Ngoài ra, biểu hiện cho thấy nghề kim hoàn đã phát triển một cách mạnh mẽ
là sự phát hiện những dấu tích của các xưởng thủ công. Những dấu tích này thường
được lưu lại trong lớp đất văn hóa cư trú, thành những vũng, ô có diện tích không
lớn. Trong những vũng, ô đó thường tích tụ ở mật độ cao các hạt vàng nhỏ như
trứng cá, mạt, bụi vàng rơi vãi trong lúc gia công, những chiếc nồi có thể dùng để
đúc vàng, đá thử vàng, thỏi vàng và một ít đồ trang sức đang được chế tác dang
dở… Loại di tích này hầu như chỉ mới phát hiện trong các khu di tích ở vùng thấp
trũng như ở Óc Eo, Phum Quao, Đá Nổi (An Giang), Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên
Giang), Vĩnh Hưng (Bạc Liêu), Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò
Hàng, Gò Dung (Long An). Trong đó, di tích Óc Eo và Gò Hàng là hai nơi có di
tích thủ công kim hoàn lớn rộng nhất, số lượng các di vật lớn, mẫu mã sản phẩm đa
dạng [28, tr.311]. Trong một nghiên cứu khác, Lương Ninh cũng từng cho rằng:
“Có rất nhiều cửa hàng, cửa hiệu chế tác đồ trang sức mà mấy cái nồi nấu kim loại
quý, búa, đá thử lửa cùng với vụn vẩy vàng vương vãi trên thảm cát” [110, tr.39].
Từ những dấu tích này cho thấy, nghề kim hoàn không còn là một hiện tượng đơn
lẻ, mà nó đã đạt đến trình độ chuyên môn hoá trong sản xuất cũng như tiêu thụ, nó
đã hình thành những “phường lò thợ kim hoàn thời cổ” [91, tr.332].
97
Về kỹ thuật sản xuất, qua những sản phẩm phát hiện được trong các di chỉ
mộ táng như khuyên tai, bông tai, nhẫn, mặt đeo hình bông hoa, hình ngọn lửa có
đính đá quý cùng với nhiều lá vàng dát mỏng hoặc rất mỏng, cắt thành hình bông
hoa, chạm dập thành hình người, động vật, thảo mộc, chữ viết… đã cho phép xác
định người thợ kim hoàn thời kỳ Óc Eo “thành thạo về tất cả các phương pháp chế
tác đồ vàng bạc cổ truyền” [93, tr.8]. Họ biết dùng búa để dát mỏng các thỏi vàng,
kéo thành dây, cắt lá vàng thành những sợi nhỏ, dũa, đúc bằng khuôn. Đặc biệt là
cách dát những hạt tròn nhỏ nổi trên đồ trang sức là một công đoạn khá phức tạp,
đòi hỏi kỹ thuật đạt đến trình độ điêu luyện mới có thể thực hiện được, nhưng đã
được cư dân nơi đây thực hiện một cách thuần thục. Điều này cho thấy, nghề kim
hoàn ở đây đã rất phát triển.
Về nguyên liệu, mặc dù cho đến nay, chưa tìm ra mỏ khai thác vàng thời Óc
Eo, nhưng có thể nói rằng, “trong thời cổ đại, miền này có thể là một trong những
kim thổ” [93, tr.4] quan trọng của thế giới. Có lẽ, chính vì vậy mà Ấn Độ “bành
trướng” về phía Đông, mở rộng giao thương với Phù Nam ngay từ thế kỷ I SCN.
Trong tác phẩm “Các nhà nước Ấn Độ hoá” G.Coedes cho rằng, mục đích của
những người Ấn Độ đến đây là vàng chứ không phải bành trướng, tìm kiếm thuộc
địa. Như vậy, có thể nghĩ rằng, những đồ trang sức bằng vàng của cư dân Óc Eo
được chế tạo từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau, trước hết là nguồn nguyên liệu
của địa phương và sau đó có thể có cả nguyên liệu ngoại nhập được các thương
nhân đưa đến. Nhờ bàn tay khéo léo, những người thợ kim hoàn đã tạo ra những sản
phẩm độc đáo, phù hợp với nhu cầu của thị trường các nước.
Nghề kim hoàn chủ yếu là gia công đồ trang sức quý phục vụ cho các tầng
lớp trên, sản xuất các lá vàng để làm tài sản cất giữ và có thể còn được dùng trong
việc mua bán, trao đổi. Họ không chỉ sử dụng trang sức bằng vàng cho người sống,
trong tôn giáo, tín ngưỡng của mình mà còn dùng cho người chết làm vật chôn theo.
Như vậy, có thể nói, vàng là kim loại rất quan trọng trong đời sống và nghề kim
hoàn đặc biệt phát triển trong xã hội của cư dân Óc Eo ở miền TNB trong những thế
kỷ đầu Công nguyên.
98
- Sản xuất đồ trang sức thuỷ tinh: Nghề làm đồ trang sức bằng thuỷ tinh
xuất hiện khoảng từ thế kỷ V, IV TCN ở vùng miền Đông Nam Bộ [72], sau đó, đã
nhanh chóng ảnh hưởng, lan toả đến nhiều nơi trong vùng, trong đó có vùng TNB
vào khoảng thế kỷ II SCN. Qua các đợt khai quật, trong các di tích văn hóa Óc Eo,
đã phát hiện rất nhiều những chiếc vòng, nhẫn, bông tai, dây chuyền, hạt chuỗi bằng
các chất liệu đá, mã não, thạch anh, thuỷ tinh… với nhiều màu sắc, kích cỡ, kiểu
dáng khác nhau.
Nguồn nguyên liệu có thể được đưa từ Ấn Độ sang, một số được khai thác và
sản xuất cùng các xưởng chế tác đồ trang sức thuỷ tinh trong vùng eo đất ngăn giữa
vịnh Xiêm và Ấn Độ Dương như Khao Sam Kaeo, Phu Khao Thong hoặc ở các
xưởng Đồng Tháp, Long An [77, tr.238]. Tại di tích Gò Ô Chùa (Long An), các nhà
khảo cổ học đã phát hiện nhiều dấu vết của giọt thuỷ tinh nóng chảy và cả những
mẫu thuỷ tinh nguyên liệu [54, tr.287]. Điều này càng chứng tỏ nghề sản xuất thuỷ
tinh đã tồn tại ở đây từ rất sớm.
Như vậy, các sản phẩm trang sức bằng thuỷ tinh là do người Óc Eo tự chế
tác được, chủ yếu được làm bằng kỹ thuật ép khuôn và gia công sau khi gỡ khuôn.
Sản phẩm thuỷ tinh ở đây còn khá nhiều bọt và ở dạng sợi, ngoại trừ loại hình
khuyên tai có chất lượng cao hơn. Tại di tích Cạnh Đền (Kiên Giang), các nhà khảo cổ
phát hiện chiếc bông tai bằng thuỷ tinh với nhiều màu sắc rất đẹp [PL2.7, h.14, tr.220].
Người thợ có thể chủ động tạo màu cho thuỷ tinh từ khi trộn phối liệu sống hoặc
ngay khi tạo dáng. Các hiện vật trang sức thuỷ tinh Óc Eo, trong đó có nhẫn và các
hạt chuỗi luôn được đánh giá cao về trình độ thẩm mỹ.
- Nghề làm đồ trang sức bằng đá quý: Mặc dù đồ trang sức bằng thuỷ
tinh đã xuất hiện, tuy nhiên, đồ trang sức bằng đá quý trong văn hóa Óc Eo vẫn tiếp
tục giữ vai trò chủ đạo trong loại hình đồ trang sức. Đồ trang sức bằng đá chủ yếu
được chế tác từ các loại đá quý như mã não, thạch anh, ngọc thạch, kim cương, hổ
phách... Loại hình trang sức này xuất hiện trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo
bao gồm khuyên tai, vòng tay, hạt chuỗi, mặt nhẫn…
Kỹ thuật chế tác chủ yếu vẫn là ghè, đẽo, cưa, khoan, mài, đánh bóng, nhưng
mọi thao tác đều rất hoàn thiện; độ tinh tế thể hiện trên từng sản phẩm. Có thể nói,
99
nghề trang sức bằng đá trong văn hóa Óc Eo đã đạt đến trình độ cao về mỹ thuật, điển
hình nhất là chiếc khuyên tai hình đầu thú; hay kỹ thuật khắc chìm cũng rất phát triển.
Điều này được thể hiện qua đồ trang sức làm bằng mã não và pha lê có khắc chìm
hình sư tử và hình người ngồi được phát hiện trong di chỉ Óc Eo (An Giang), có niên
đại khoảng thế kỷ VI, hiện đang được lưu giữ tại BTLS HCM. Bên cạnh đó còn có
các hạt chuỗi được gia công rất công phu, có lỗ xuyên qua vô cùng nhỏ, chứng tỏ
phải sử dụng những chiếc mũi khoan rất nhỏ, sắc và tay nghề của người thợ phải đạt
đến trình độ điêu luyện mới có thể tạo ra những sản phẩm độc đáo, tinh tế như vậy.
- Nghề làm đồ trang sức bằng các loại chất liệu khác: Ngoài nghề làm đồ
trang sức bằng vàng, đá quý và thuỷ tinh thường thấy trong văn hóa Óc Eo còn có
nghề làm đồ trang sức bằng đất nung và vỏ các loại nhuyễn thể… Đồ trang sức làm
từ vỏ nhuyễn thể (vỏ tridacna derasa, ốc mặt trăng) xuất hiện khá sớm trong văn hóa
Sa Huỳnh. Đến văn hóa Óc Eo, vẫn được tiếp nối truyền thống đó, tuy nhiên những
đồ trang sức làm bằng chất liệu này được tìm thấy không nhiều.
Đến những thế kỷ đầu Công nguyên, nghề làm đồ trang sức đã rất phát triển,
tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mỹ, rất có thể những đồ trang sức bằng đất
nung và các loại vỏ nhuyễn thể chỉ được dùng cho người nghèo, người có địa vị
thấp kém trong xã hội.
Tóm lại, trong quá trình phát triển xã hội, với sự xuất hiện hàng loạt các công
xưởng chuyên sản xuất, chế tạo đồ trang sức, chứng tỏ rằng, con người ở thời đại
Óc Eo đã tiến lên một trình độ cao hơn (đã có sự phân hoá và phân công lao động
trong xã hội) trong lĩnh vực sản xuất thủ công nghiệp. Nó phản ánh nhu cầu ngày
càng cao và đa dạng của con người; sự phát triển, phồn thịnh của xã hội.
2.2.2.6. Nghề mộc
Cùng với nghề điêu khắc, tạc tượng trong văn hóa Óc Eo, nghề mộc ra đời từ
rất sớm và phát triển một cách mạnh mẽ. Ngoài những tượng gỗ, dấu vết của đồ gỗ
như cột nhà sàn, sàn gỗ, cột tạo thành hình linga, hình con tiện, trụ lan can, trục
bánh xe, thuyền bè cùng với nhiều thanh gỗ gọt đẽo vuông vức được xếp trong một
số ngôi mộ hoả táng… cũng đã được phát hiện rải rác trong các di tích Óc Eo. Điều
này chứng tỏ, nghề mộc đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống hàng ngày
100
của cư dân Óc Eo. Những trụ lan can, trục bánh xe, thuyền bè hay các loại tượng
Phật bằng gỗ là những sản phẩm của người thợ thủ công đã đạt đến trình độ chuyên
môn hoá cao [14, tr.126].
Đặc biệt, trong môi trường sông nước như vùng ĐBSCL, chiếc thuyền có vai
trò cực kỳ quan trọng trong đời sống của cư dân Óc Eo. Vì thế, nghề đóng thuyền
chắc chắn đã ra đời và rất phát triển trong xã hội này. Sự phát triển của nghề này
được chứng minh qua vết tích của những chiếc thuyền [PL2.6, h.1-4, tr.214-215]
được phát hiện ở An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang (Đá Nổi), Cần Thơ, Bến Tre,
Long An, Đồng Tháp… hoặc các di vật có hình con thuyền như con dấu...
Qua dấu tích của những con thuyền đã được phát hiện, có thể đoán định kỹ
thuật đóng thuyền thời kỳ này chủ yếu bằng cách chọn những cây to, khoét rỗng
thân, sau đó đóng hai thanh gỗ phía hai đầu mũi thuyền. Với kỹ thuật này, chủ yếu
cho ra những sản phẩm là những chiếc thuyền nhỏ, thuyền độc mộc. Đối với
những chiếc thuyền lớn, có thể chở cả trăm người như thư tịch cổ Trung Quốc
từng nhắc đến “thuyền (Phù Nam) có chiều dài 7,8 trượng, rộng 6,7 thước, đầu
như đuôi cá” hay “nước Phù Nam đẵn gỗ làm thuyền, chiều dài đến 12 tầm, rộng 6
thước, đầu đuôi như cá, dùng sắt bọc những nơi hiểm yếu. Chiếc lớn chở cả trăm
người” [2, tr.136]… hiện nay chưa tìm thấy dấu vết. Tuy nhiên, có thể những chiếc
thuyền này đã được cư dân Óc Eo đóng và sử dụng để đi lại, nhưng do các cuộc khai
quật hiện này chủ yếu diễn ra ở vùng cao, vùng đồi, gò; còn vùng bến cảng, sông
chưa khai quật nhiều. Những thông tin này cũng là gợi ý cho các nhà khảo cổ học tiếp
tục nghiên cứu và tìm ra những con thuyền lớn, được sử dụng đi lại trên vùng biển xa
với kỹ thuật đóng thuyền phức tạp hơn, bổ sung cho giả thuyết nghề đóng thuyền có
thể đã rất phát triển trên vùng ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên.
Như vậy, có thể nói, nghề đóng thuyền phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc vận chuyển, giao thông, trao đổi giữa các vùng nội địa và thế giới bên ngoài,
làm các hoạt động kinh tế của cư dân Óc Eo càng thêm phong phú.
2.2.2.7. Điêu khắc
Nghề điêu khắc là một nghề không chỉ đòi hỏi người thợ phải có trình độ kỹ
thuật cao, nghệ thuật tinh tế mà còn phải thông hiểu thần thái của mỗi vị thần muốn
101
thể hiện. Mặc dù, đòi hỏi khắt khe, nhưng nghề điêu khắc lại là một trong những
nghề phát triển rực rỡ nhất trong văn hóa Óc Eo, đã tạo được dấu ấn riêng trong
nghề điêu khắc tạc tượng ở vùng ĐBSCL ngay từ thế kỷ II - III SCN. Các sản phẩm
điêu khắc đa số mang tính chất tôn giáo. Hàng loạt tượng tròn và các sản phẩm
mang tính tôn giáo được tìm thấy trong các di tích văn hóa Óc Eo. Tượng tròn
thường được tạc thành khối, gồm những tượng của Hindu giáo và Phật giáo, trong
đó, nhiều nhất là các tượng Hindu giáo. Các linh vật như linga, yoni cũng được tìm
thấy khá phổ biến ở miền TNB, đa số đều nguyên dạng. Sự xuất hiện nhiều loại
tượng trong các di tích đã cho thấy đây là một “nghề được trọng dụng nhất” [22,
tr.167]. Kỹ thuật điêu khắc của các nghệ nhân thời kỳ này đã đạt trình độ cao. Điều
này được thể hiện qua những sản phẩm mang tính chất tôn giáo như các pho tượng,
các vật thiêng…, đặc biệt là những sản phẩm được làm từ chất liệu cứng chắc như đá.
Bên cạnh đó, sự điêu luyện của thợ điêu khắc còn được thể hiện qua các di
vật là đồ trang sức như vòng tay, khuyên tai, nhẫn… Những người thợ chạm khắc
trên đá và thợ chuyên chạm lộng trên đá quý kết hợp với thợ kim hoàn tạo ra những
đồ trang sức cao cấp phục vụ cho tầng lớp thượng lưu trong xã hội và có thể dùng
để thờ cúng các thần linh trong các đền đài. Những người thợ điêu khắc này có thể
thực hiện với nhiều kích cỡ khác nhau và trên nguyên liệu đa dạng: đất nung, đá
quý, vàng bạc và thuỷ tinh. Như vậy có thể thấy, vào thời kỳ này, nghề điêu khắc đã
rất phát triển, đạt tới trình độ khá cao.
Ngoài những ngành nghề nói trên, trong xã hội Óc Eo còn tồn tại một số
nghề khác như xây dựng, đan lát… Đặc biệt là nghề xây dựng, có thể đã phát triển
vượt bậc so với trước, không chỉ số lượng các ngôi đền tháp được dựng lên rất
nhiều, mà kết cấu, kiểu dáng kiến trúc ngày một phức tạp [22, tr.167]. Minh chứng
rõ nhất là khu phế tích nền móng Gò Tháp Mười, Bà Chúa Xứ (Đồng Tháp) được
bố trí cân đối, hài hoà, có quy mô rộng lớn, kiến trúc vững chắc. Đây là công trình
xây dựng được coi là tiên tiến trong các kiến trúc tôn giáo thời bấy giờ. Các kiến
trúc ở Gò Trâm Quỳ và xa hơn là Bình Thạnh (Tây Ninh) có bố cục cùng loại
nhưng về quy mô, kích thước nhỏ hơn.
102
Thủ công nghiệp chỉ có thể phát triển khi mà sản xuất nông nghiệp đạt đến
một mức thặng dư có thể nuôi sống được những người không trực tiếp sản xuất
lương thực và thực phẩm. Điều kiện tồn tại của nó chính là sự khéo léo tay nghề của
người thợ thủ công, nguồn nguyên liệu phong phú và có thị trường để tiêu thụ sản
phẩm. Mỗi người thợ thủ công ở đây có một thói quen trong việc chế tác sản phẩm
và cách suy nghĩ riêng về những vật do mình tạo ra. Những thói quen và suy nghĩ
đó có thể là độc đáo, nhưng cũng có thể là do học hỏi, trao đổi và được truyền cho
những người thợ khác cùng ngành nghề, dẫn đến một loại tâm lý “phường hội trong
xã hội Óc Eo” [64, tr.343-344], nên mỗi di vật, ta có thể nhận ra một số thuộc tính
chung của nó.
Trong thời kỳ này, tuy mới chỉ có 3 nghề: kim hoàn, làm đất nung và rèn đúc
kim loại là có những hiện vật có tính chất dụng cụ chế tác, nhưng chúng ta có thể
chắc chắn rằng, một số nghề thủ công của cư dân Óc Eo đã rất phát triển, họ có thể
nắm chắc nền tảng kỹ thuật của từng nghề. Đồng thời, thể hiện tài trí và sự sáng tạo
của mình trong quá trình tạo ra các sản phẩm. Họ sử dụng từng loại chất liệu phù hợp
trong từng ngành nghề và để lại những sản phẩm đặc trưng. Đây chính là những đóng
góp của cư dân Óc Eo vào kho tàng DSVH Việt Nam.
2.2.3. Thương nghiệp
Vương quốc Phù Nam tồn tại từ thế kỷ I - VII SCN, là một vương quốc có
một nền thương nghiệp phát triển rực rỡ, với sự phong phú, đa dạng các sản phẩm.
Qua nguồn tư liệu khảo cổ học, thư tịch cổ Trung Quốc cho thấy, vương quốc Phù
Nam không chỉ giao thương, phát triển nền thương nghiệp trong nội địa mà còn có sự
giao lưu, buôn bán rộng rãi với thế giới bên ngoài từ rất sớm, khoảng thế kỷ I - II SCN.
2.2.3.1. Buôn bán tại chỗ và với các cộng đồng cư dân láng giềng
Vương quốc Phù Nam còn có một nền nông nghiệp khá phát triển với nghề
trồng lúa nước, mía đường; một bộ phận nông dân trồng vườn, chăn nuôi, đánh bắt
thuỷ sản… Sản phẩm hàng nông sản phong phú, có những vườn cây ăn trái lên đến
hàng trăm cây. Điều đó cho thấy, nền kinh tế nông nghiệp của cư dân Óc Eo đã
vượt xa nền kinh tế tự cung tự cấp và đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá. Những
hoạt động mua đi, bán lại các mặt hàng thiết yếu của cuộc sống như nước ngọt,
103
muối, gạo, đường… của cư dân Óc Eo có thể đã diễn ra rất nhộn nhịp thời bấy giờ.
Đối với những vùng ven biển ngập mặn quanh năm không thể tiến hành các hoạt
động nông nghiệp thì việc trao đổi lương thực, thực phẩm mà họ không thể trồng
được có lẽ đã diễn ra thường xuyên. Đồng thời, họ cũng mang những sản vật đã
khai thác được từ môi trường tự nhiên đem đổi lấy những sản phẩm mình không thể
sản xuất ra.
Ngoài ra, hoạt động mua bán ruộng đất thời kỳ này có thể cũng đã được tiến
hành. Trên nhiều văn minh có ghi lại việc trao đổi, mua bán ruộng đất đã diễn ra rất
phổ biến. Tuỳ vào từng loại ruộng mà đưa ra các mức giá khác nhau. Việc mua bán
ruộng đất căn bản dựa trên mức hoa lợi là lúa gạo, rồi quy đổi ngang giá bằng đơn
vị “tam-lin” bạc. Một văn minh ghi rõ “giá ruộng ở Ten Hvar Paren và ở Tem
Mahanavami bằng lượng thóc trị giá 10 tam-lin bạc. Ruộng gần Padmodthava bằng
5 tam-lin bạc. Ruộng gần Travan Tman 10 tam-lin bạc…” [2, tr.141]. Như vậy, thời
kỳ này đã xuất hiện quyền sở hữu ruộng đất. Có thể nói, ruộng đất là tài sản rất
quan trọng đối với người dân nơi đây, và nó cũng đã trở thành một loại hàng hoá có
thể mua đi, bán lại.
Bên cạnh đó, các ngành sản xuất thủ công cũng đặc biệt phát triển với sự đa
dạng của các sản phẩm. Các xưởng thủ công đạt đến trình độ chuyên môn hoá như
nghề gốm, kim hoàn, điêu khắc… và được sản xuất với số lượng lớn. Cùng với sự
phong phú các sản phẩm, “những cửa hàng, cửa hiệu” [110, tr.39] ra đời phục vụ
cho nhu cầu đời sống của cư dân tại chỗ, tạo tiền đề cho nền kinh tế thương nghiệp
của cư dân Óc Eo ngày càng phồn thịnh, trở thành một đô thị sầm uất lúc bấy giờ.
Một số sản phẩm từ những “cửa hàng, cửa hiệu” này có thể được vận chuyển đến
các vùng lân cận để buôn bán. Lương thư đã miêu tả hoạt động buôn bán sầm uất
của cư dân Óc Eo “các nước ngoài biên cảnh đi lại buôn bán rất thường xuyên…,
chợ ở đây là chốn đông tây giao hội, mỗi ngày có hơn 10.000 người” [2, tr.141].
Qua đó có thể thấy rằng, việc buôn bán của cư dân nơi đây diễn ra rất sôi nổi, người
dân làm ăn phát đạt. Lúc bấy giờ, Phù Nam được coi như là kho chứa hàng quan
trọng của các thương nhân, vừa là nơi dừng chân để bổ sung nguồn lương thực, thực
phẩm cũng như các loại hàng hoá khác. Họ buôn bán, trao đổi với cư dân địa
104
phương, tạo điều kiện cho nền thương nghiệp nội địa thêm phồn thịnh, sớm trở
thành một trung tâm thương mại.
Phương tiện vận chuyển hàng hoá phục vụ hoạt động buôn bán chủ yếu là
thuyền. Nam Bộ là nơi có hệ thống sông ngòi dày đặc, rất thuận lợi cho việc lưu
thông bằng đường thuỷ. Hệ thống sông Đồng Nai, sông Cửu Long và các kênh rạch
chằng chịt tạo thành một mạng lưới giao thông bằng đường thuỷ liên kết các vùng
lại với nhau, làm cho việc giao thương buôn bán lúc bấy giờ dễ dàng hơn. Bên cạnh
đó, để thuận lợi luân chuyển hàng hoá, giao thương với những vùng lân cận, người
dân Phù Nam đã xây dựng một hệ thống kênh đào rất công phu toả ra các di tích
trong khu vực, nối liền vùng lương thực Angkor Borei với hải cảng Óc Eo [66,
tr.370]. Chính các con sông và hệ thống kênh rạch đã giúp vùng đất này hình thành
nên các cảng thị giao lưu buôn bán trong nội địa, còn các cửa biển mở ra con đường
giao lưu với các nước trong khu vực và các vùng xa khác hơn.
Ngoài ra, những đồng tiền xuất hiện là bằng chứng xác thực nhất cho thấy,
vương quốc Phù Nam có nền thương nghiệp phát triển. Các nhà khảo cổ học đã
tìm thấy những đồng tiền được cắt tư, cắt tám trong các di tích thuộc văn hóa Óc
Eo như: Nền Chùa (3), Đá Nổi (3), Kè Một (2) và Gò Hàng (4) [26, tr.337-338].
Những đồng tiền được cắt nhỏ này [PL2.10, h.1, tr.225] có thể được dùng làm tiền
lẻ để mua bán hàng hoá có giá trị nhỏ hoặc dùng để thối lại. Sự có mặt của những
đồng tiền luôn gắn liền với một xã hội văn minh cùng nền kinh tế thị trường phát
triển ở mức độ khá cao. Ở đây đã xuất hiện những đồng tiền chỉ dùng trong phạm vi
lãnh thổ vương quốc Phù Nam như các loại tiền Pegu và Dvaravati. Đặc biệt, tiền 8
con gà trống bằng bạc là những đồng tiền được đúc bản địa và tiêu dùng nội địa
[110, tr.41-42]. Như vậy cho thấy, hoạt động buôn bán tại chỗ thời kỳ này diễn ra
rất sầm uất và có sự phân biệt với hoạt động ngoại thương.
Những di vật hình tròn hoặc hình đa giác có chu vi đều đặn được làm bằng
thiếc, giống như quả cân dùng để mua bán trên thị trường cũng được tìm thấy trong
các di tích Óc Eo. Theo L.Malleret, nếu đích thật đây là những quả cân, thì những di
vật này được dùng để cân những hàng hoá có giá trị cao trên thị trường, nhưng
trọng lượng thấp như vàng [92, tr.407].
105
Ngoài ra, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy nhiều lá vàng dát mỏng trong các
di chỉ mộ táng, tập hợp thành những bộ sưu tập lá vàng có hình dạng, kích thước và
trọng lượng gần giống nhau. Trong đó, có nhiều lá bị rách, nhàu nát, tương tự như
tờ giấy bạc cũ… Như vậy, ngoài dùng tiền làm phương tiện để trao đổi hàng hoá,
vàng cũng có thể đã được người dân Óc Eo dùng cho mục đích này. Có thể nói,
vàng vừa là hàng hoá, đồng thời là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá,
giúp quá trình này diễn ra dễ dàng hơn.
2.2.3.2. Ngoại thương - Buôn bán trên biển với các vùng xa
Bên cạnh hoạt động trao đổi, buôn bán trong nội địa và cộng đồng cư dân
láng giềng thì hoạt động kinh tế “ngoại thương”, chủ yếu là buôn bán trên biển với
các vùng xa, sớm được thực hiện và nhanh chóng phát triển thành một trung tâm
thương mại quốc tế, có quan hệ rộng rãi với bên ngoài. Điều này được thể hiện qua
việc các nhà khảo cổ học đã khai quật và thu nhặt được rất nhiều các loại di vật có
nguồn gốc ngoại nhập trong các di tích văn hóa Óc Eo được đưa đến từ nhiều quốc
gia khác nhau như: nhẫn vàng chạm hình bò thần (mandin), ngọc chạm hình phụ nữ
tế thần lửa (Ấn Độ); huy chương vàng chạm hình vua Antonin le Pieux (152 SCN),
đồng tiền vàng chạm hình Maac Aurèle, viên ngọc mã não chạm hình chuột kéo xe có
gà ngồi trên... (La Mã); mảnh gương đồng thời Hậu Hán (25-220) [PL2.2, h.6, tr.201],
tượng Phật bằng đồng thời Nguỵ (386 - 557) [113, tr.232]. Như vậy có thể thấy,
thời kỳ này, chắc chắn cư dân Óc Eo đã có quan hệ giao thương với các nước như
Ấn Độ, Trung Quốc và một số nước phương Tây. Thương nhân nước ngoài thường
đến đây để mua vàng, bạc, lụa và các loại lâm sản như trầm hương, ngà voi, chim
công cùng một số mặt hàng đồ thủ công như trang sức bằng vàng, bạc, thuỷ tinh…
Những sản phẩm này, có loại thô, cũng có loại đã được gia công, chế tạo thành
những sản phẩm độc đáo, được thị trường thế giới ưa chuộng.
Các hoạt động ngoại thương này có lẽ đã diễn ra từ nhiều thế kỷ TCN, khi cư
dân ven biển ở châu thổ sông Cửu Long bắt đầu tiếp xúc với các thương nhân bên
ngoài. Khi đế quốc La Mã mở rộng giao thương buôn bán với Ấn Độ qua biển Ả
Rập thì con đường thương thuyền Ấn Độ - Trung Hoa được nối dài từ Đông sang
Tây đến các thương cảng trong vịnh Ba Tư hay trên bờ Biển Đỏ. Sự nối dài này làm
106
cho hoạt động giao thương đường biển trở nên nhộn nhịp, các quốc gia ven biển
như Phù Nam trở nên năng động và nhanh chóng trở thành hải cảng phồn thịnh,
giàu có từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Một trong những lý do giúp cho Phù
Nam trở thành cảng biển quốc tế vào khoảng thế kỷ I - II SCN chính là vì đường bộ
giữa Đông và Tây bị cắt đứt do nạn cướp bóc, các tàu thuyền phải đi qua eo Kra
[113, tr.237]. Lúc này, cảng thị Óc Eo là nơi thuận lợi cho việc buôn bán, là trạm
dừng chân, nơi trung chuyển của đường buôn bán Đông - Tây nên việc giao thương
của cư dân Óc Eo có nhiều thuận lợi; chủng loại và số lượng hàng hoá lưu thông
ngày một lớn. Trong số các loại hàng hoá (tơ lụa, kim loại, đồ gốm, trang sức, đá
quý, ngọc trai, gỗ, các loại gia vị, hương liệu…) thì gia vị và hương liệu là mặt hàng
được các thương nhân nước ngoài chú ý nhất, trở thành đối tượng giao thương trên
toàn cầu. Các tàu thuyền của những thương nhân nói tiếng Malayo - Polynesian từ
Đông Nam Á đã dừng chân nơi đây để tiếp tế lương thực, nước ngọt và mua những
những sản phẩm rất được ưa chuộng của cư dân Óc Eo như xà cừ, đồi mồi, ngọc trai,
san hô, mật ong, sáp ong, tổ yến… đem bán sang thị trường các nước như Trung
Quốc, Ấn Độ, một số nước Phương Tây và đến tận bờ biển Châu Phi. Trong thư tịch
cổ Trung Quốc cũng nói đến diện mạo thương mại của đất nước này “Nước sản xuất
vàng, bạc, đồng, thiếc, trầm hương, mộc hương, ngà voi, chim công lông biếc, anh vũ
năm sắc… buôn bán, trao đổi lấy vàng, bạc, tơ, lụa trắng và màu” [110, tr.40]. Chính
những thương nhân này đã tạo điều kiện cho nền thương mại Óc Eo đặc biệt phát
triển, trở thành một cảng thị quốc tế trong những thế kỷ đầu Công nguyên.
Song song với việc tìm thấy những hiện vật của các nước tại di tích Óc Eo,
ngược lại, nhiều sản phẩm kiểu Óc Eo cũng được phát hiện ở nhiều nơi trên thế
giới: có 3 chiếc phù điêu đất nung ở Chansen (Thái Lan), 4 hạt ngọc chuỗi ở Kuala
Selinging (Malaysia), 5 hạt ở Cánh đồng Chum (Lào) [113, tr.233]; bộ sưu tập tiền
với những đồng tiền được cắt tư, cắt tám tìm thấy ở Óc Eo cũng được phát hiện khá
phổ biến ở nhiều di tích ven vịnh Thái Lan, bán đảo Mã Lai, Myanma, xa hơn là Ba
Tư và vùng Địa Trung Hải. Qua đó cho thấy, cả một dòng thương nghiệp nối liền
Óc Eo với Ấn Độ Dương bằng đường biển thông qua vịnh Thái Lan và có thể cả
đường bộ theo đường nội địa.
107
Như vậy, qua những phân tích trên có thể thấy, đặc trưng nổi bật trong đời
sống vật chất của cư dân Óc Eo chính là sự tương thích giữa con người với môi
trường đồng bằng sông nước. Mặc dù, sự tương thích này cũng có mặt trong các
nền văn hóa khác, nhưng chỉ ở cư dân Óc Eo, yếu tố sông nước mới nổi lên thành
một đặc trưng chủ đạo, chi phối toàn bộ cuộc sống cũng như các thành tố văn hóa
của các cộng đồng cư dân sống trên vùng ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên.
Dòng chảy của sông Mê Kông có tốc độ dâng nước và tốc độ dòng chảy thấp, cư
dân Óc Eo đã tận dụng nguồn nước này, đào các con kênh dài hàng trăm km để đưa
nước ngọt và phù sa vào ruộng những lúc hạn hán, thoát lũ những lúc nước lên và
còn dùng để đánh bắt thuỷ sản... Không chỉ thế, sông nước nơi đây còn là tiền đề
phát triển các nghề buôn bán trên sông, vận tải đường sông... Cho nên, không ở đâu
yếu tố nước được thể hiện rõ nét, trở thành một yếu tố quan trọng cấu thành đặc
trưng của văn hóa như nơi đây. Đây cũng chính là thái độ ứng xử độc đáo mà trong
đó, thiên nhiên và con người đã thích nghi, sống hoà hợp gắn bó với nhau. Thái độ
ứng xử của cư dân Óc Eo không chỉ được thể hiện qua tính chất thích nghi, sự
nương nhờ, khai thác tự nhiên một cách thuần tuý mà còn là quá trình cải tạo, khắc
phục tự nhiên để tạo nên một môi trường sống hài hoà, thân thiện.
Tiểu kết
Có thể thấy, trong đời sống sinh hoạt và sản xuất ra của cải vật chất, cư dân
Óc Eo đã thể hiện thái độ ứng xử hoà hợp, đồng thời, cũng rất linh hoạt với môi
trường tự nhiên. Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, cư dân Óc Eo đã chinh phục
đồng bằng thấp vùng châu thổ sông Cửu Long. Họ đến đây không chỉ để ăn, ở, khai
thác sản vật tại chỗ, mà còn làm nên một nền nông nghiệp đặc biệt phát triển. Điều
kiện thổ nhưỡng, khí hậu nơi đây thuận lợi cho việc sinh trưởng của nhiều loại cây
trồng, nhất là cây lúa. Tài liệu thư tịch cổ nói đến việc cư dân Phù Nam sống khá
sung túc bằng nghề trồng lúa như việc “gieo giống một năm gặt ba năm”. Ngoài
trồng lúa, vùng ĐBSCL còn là nơi thuận lợi cho việc trồng trọt các loại cây ăn quả,
cũng là nơi có nguồn thuỷ, hải sản phong phú, đa dạng, đã tạo điều kiện cho cư dân
nơi đây khai thác nguồn lợi này. Chì lưới và hình ảnh các loài thuỷ sản như cá, ốc,
108
rắn được thể hiện trên các đồ trang sức đã phần nào phản ánh sự gắn bó giữa con
người với môi trường sinh thái nơi đây. Các loại gia súc, gia cầm cũng đã được
chăn nuôi để bổ sung nguồn thực phẩm cho cuộc sống. Việc săn bắt thú rừng trên
những vùng đất cao rất được chú trọng.
Về cư trú, cư dân Óc Eo chủ yếu sống trên nhà sàn dựng ven lung lạch hoặc
trên các đồi, gò đất hơi cao. Dấu tích, vật dụng sinh hoạt của họ đã khá nhiều trong
các di tích cư trú của văn hóa Óc Eo. Họ đã bám trụ ở đây hàng thế kỷ và trở thành
chủ nhân của vùng đất mới với nhiều sáng tạo mới. Họ đã tạo ra các sản phẩm vật
chất phục vụ đời sống, phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây. Chẳng hạn như loại
bình đựng nước có buộc dây có thể đi trên tàu thuyền mà không sợ đổ, loại cà ràng,
đèn cổ cao có chân đế rộng có thể đứng vững chắc trên mọi địa hình.
Qua các hiện vật tìm được trong văn hóa Óc Eo đã cho thấy, thời kỳ này, thủ
công nghiệp đặc biệt phát triển. Có thể liệt kê đến cả chục ngành nghề, trong đó,
quan trọng hơn cả là nghề điêu khắc, rèn đúc kim loại, xây dựng, mộc, dệt… Đặc
biệt là nghề làm đồ trang sức và nghề gốm đã phát triển ở trình độ cao. Các ngành
nghề thủ công trong văn hóa Óc Eo phát triển đã tạo ra nhiều loại sản phẩm phục vụ
cuộc sống định cư của cư dân nơi đây.
Hơn nữa, cư dân Óc Eo đã góp phần tổ chức được ở đây, trong vùng sình lầy
châu thổ sông Cửu Long, những hoạt động mậu dịch quốc tế trên địa bàn rộng rãi,
đưa vương quốc Phù Nam trở thành một “quốc gia - đô thị” có thế lực nhất vùng
Đông Nam Á, kiểm soát con đường hương liệu lúc bấy giờ. Họ đã góp phần xây
dựng nên những khu dân cư, những tụ điểm giao thương ven các sông rạch, điển
hình như là di tích Óc Eo. Chính sự giao thương bằng đường biển thuận lợi đã góp
phần thúc đẩy nền kinh tế Óc Eo phát triển, làm cho đời sống vật chất cũng như tinh
thần của cư dân Óc Eo ngày càng được nâng cao.
109
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ÓC EO
3.1. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là một vấn đề thuộc về lĩnh vực tâm linh, vô cùng nhạy
cảm. Theo GS, TS Ngô Đức Thịnh:
Tín ngưỡng, tôn giáo là một bộ phận của đời sống văn hóa tinh thần con
người mà ở đó, con người cảm nhận được sự tồn tại của các vật thể, lực
lượng siêu nhiên, mà những cái đó chi phối, khống chế con người, nó nằm
ngoài giới hạn hiểu biết của con người hiện tại; sự tồn tại của các phương
tiện biểu trưng giúp con người thông quan với các thực thể, các sức mạnh
siêu nhiên đó; đó là chất kết dính, tập hợp con người thành một cộng đồng
nhất định và phân định với cộng đồng khác. Tất cả những niềm tin, thực
hành và tình cảm tôn giáo, tín ngưỡng trên đều sản sinh và tồn tại trong một
môi trường tự nhiên, xã hội và văn hóa mà con người đang sống, theo cách
suy nghĩ và cảm nhận của nền văn hóa đang chi phối họ [133, tr.10].
Như vậy, để hiểu được một nền văn hóa thì việc nghiên cứu đời sống tâm
linh của cộng đồng, dân tộc đó là rất quan trọng. Nhưng để có thể nhận biết được tất
cả ý nghĩa, niềm tin và cách thức thờ cúng của họ, đặc biệt là đối với đời sống tinh
thần của một xã hội mà cư dân của nó đã biến mất một cách bí ẩn, chỉ để lại những
dấu vết đã bị chôn vùi dưới lòng đất hơn 1000 năm như văn hóa của cư dân Óc Eo
là một điều không dễ dàng.
Tuy nhiên, những hiện vật sẽ là chứng cứ phản ánh trung thực nhất về các vấn
đề của quá khứ. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu, lý giải các hiện vật như: lá vàng,
tượng thờ, bùa đeo… của cư dân Óc Eo sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm đời sống tinh
thần của cư dân thời bấy giờ. Trong hàng ngàn di vật văn hóa Óc Eo có đến hàng
trăm các loại phù điêu, tượng tròn với các chất liệu đồng, đá, gỗ, đất nung... Điều đó
cho thấy, đời sống tinh thần của cư dân văn hóa Óc Eo rất phong phú, đa dạng.
Qua những di vật như tượng thờ và các bản văn minh thu thập được trong di
tích văn hóa Óc Eo, cho thấy, thời kỳ này, tín ngưỡng, tôn giáo đã phát triển mạnh
110
mẽ và chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của mọi tầng lớp người
dân nơi đây. Ngoài những tín ngưỡng bản địa phổ biến ở Đông Nam Á như tín
ngưỡng phồn thực, sùng bái tự nhiên… thì Hindu giáo và Phật giáo là hai tôn giáo
du nhập vào vùng đất này khá sớm, đã được các tầng lớp cư dân vùng TNB tiếp
nhận, tin tưởng và tôn thờ.
3.1.1. Tín ngưỡng bản địa
Vương quốc Phù Nam là một vương quốc hùng mạnh, có nền nông nghiệp
lúa nước phát triển, có sự giao thương với bên ngoài, đặc biệt với các nước Đông
Nam Á và Ấn Độ. Nơi đây, Phật giáo và Hindu giáo đã phát triển một cách mạnh
mẽ ngay những thế kỷ đầu Công nguyên. Có lẽ, chính vì vậy mà những tín ngưỡng
bản địa dường như bị lu mờ trước hai tôn giáo lớn của thế giới, làm cho người ta dễ
quên đi những tín ngưỡng bản địa vốn có. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, ngay
thời kỳ đầu hình thành nhà nước sơ khai, cư dân nơi đây đã có một hệ thống thần
thoại ổn định, in dấu ấn đa thần giáo một cách rõ nét. Nhiều tín ngưỡng bản địa đã
được hoà lẫn với Phật giáo và Bàlamôn giáo để trở thành hệ thống tín ngưỡng tôn
giáo vừa mang tính bản địa, vừa mang tính ngoại lai.
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên: Mọi tín ngưỡng đều là kết quả từ sự đúc kết các
mối quan hệ của con người với hiện thực khách quan. Chính đặc điểm của điều kiện
tự nhiên và xã hội là cơ sở hình thành nên các tín ngưỡng [42, tr.30].
Vùng ĐBSCL những thế kỷ đầu Công nguyên là một vùng đất mới. Cuộc
sống của cư dân nơi đây gặp không ít khó khăn, thách thức, con người thường
xuyên phải đối mặt với thiên nhiên; đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào thiên
nhiên, đặc biệt là việc sản xuất nông nghiệp, luôn gắn chặt với giới tự nhiên mà cụ
thể là cây, cỏ, thời tiết, đất đai, nước… Chính thiên nhiên là nơi che chở, cung cấp
nguồn của cải nuôi dưỡng sự sống của con người và cũng chính thiên nhiên là
những thế lực to lớn có thể cướp đi sự sống của con người. Mối quan hệ giữa con
người và môi trường tự nhiên được coi là mối quan hệ chính yếu, là nhân tố quyết
định đến mọi quan hệ xã hội khác. Do đó, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên trên vùng
đất này càng đậm nét hơn bao giờ hết, người dân Óc Eo bên cạnh sự sợ hãi có phần
yêu quý, tôn thờ tự nhiên.
111
Với tư duy “vạn vật hữu linh” (animism), thuyết “vật linh” hay thuyết “duy
linh” của cư dân nông nghiệp, cư dân Óc Eo tin rằng, không có sự tách biệt giữa thế
giới vật chất và linh hồn. Họ tin có sự tồn tại một thế giới tinh thần trong các loài
động vật, cây cối, đá, các yếu tố địa chất như núi, sông, hay các thực thể tự nhiên
như sấm, gió, bóng râm... Tuy nhiên, trong một nền văn hóa khảo cổ, với sự phát
triển rực rỡ của hai tôn giáo lớn của thế giới, các di tồn không đầy đủ nên người ta
khó có thể phục dựng được đầy đủ các khía cạnh của tín ngưỡng bản địa. Song, từ
các di tích, di vật phát hiện được có thể thấy được một số yếu tố sau:
Các nhà khảo cổ học đã phát hiện rất nhiều những hình mặt trời, mặt trăng,
nước, lửa, cây cỏ, động vật… được vẽ trên các mảnh vàng đặt trong lòng các tháp.
Điều này cho thấy, ngoài việc có liên quan đến các tôn giáo mới được du nhập,
đồng thời cũng phản ánh bóng dáng tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của cư dân bản
địa đã được cư dân nơi đây tin tưởng và thờ cúng.
Tục thờ núi: Những ngọn núi cao luôn được coi là chốn linh thiêng, nơi
thông linh giữa trời và đất, nơi các thần thánh ngự trị. Tại các ngọn núi như: Ba Thê
- Linh Sơn, Núi Sam, Bảy Núi, (An giang), núi Bà Đen (Tây Ninh), Hòn Sóc (Kiên
Giang)… các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều dấu vết cư trú từ rất sớm. Ngoài
việc chọn cư trú trên những ngọn núi cao để tránh nước, có thể họ còn tin rằng, nơi
đây có những vị thần linh thiêng ngự trị, có thể phù hộ cho họ được bình yên, đem
lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống con người.
Khi Phật giáo và Hindu giáo du nhập vào vùng đất này, những ngọn núi cao
vẫn tiếp tục được lựa chọn. Cư dân nơi đây tiếp tục xây dựng nhiều đền tháp để thờ
cúng các vị thần mới du nhập. Cho đến ngày nay, những ngọn núi này vẫn được cư
dân trong cả nước thờ cúng, lễ bái trong những ngày lễ, tết. Họ đến đây để cầu
mong các vị thần núi che chở cho gia đình được khoẻ mạnh, làm ăn phát đạt…
Như vậy, có thể thấy, những tập tục, nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng nguyên
thuỷ về tục thờ thần núi đã ăn sâu trong tiềm thức con người nơi đây từ lâu đời.
Xuyên suốt từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay, tín ngưỡng thờ núi vẫn tồn tại và
ngày càng phát triển.
112
Tục thờ đá: Có thể nói rằng, đá là chất liệu đầu tiên gắn với con người từ xã
hội nguyên thuỷ sang xã hội văn minh. Thời đại đồ đá trải dài nhất trong lịch sử loài
người (khoảng vài triệu đến tám vạn năm TCN). Với một khoảng thời gian như vậy,
ấn tượng về đá trong con người chắc hẳn phải rất sâu sắc. Với quan niệm “vạn vật
hữu linh”, con người cho rằng: giữa đá và linh hồn con người có mối liên quan chặt
chẽ với nhau. Đá cũng là sự sống, cũng có phần hồn, phần xác như con người và đá
được coi là phương tiện để truyền đạt mong muốn của con người với các thế lực
siêu nhiên khác. Thờ đá là một trong những tín ngưỡng nguyên thuỷ phổ biến trên
thế giới, cầu mong sự che chở, bảo vệ cho mỗi con người và cộng đồng của họ được
yên bình. Họ cho rằng, các công cụ bằng đá không chỉ đơn thuần là công cụ lao
động, mà chúng còn có ý nghĩa ma thuật và luôn được họ mang theo bên mình để
trừ tà hoặc tránh sự làm hại của ma quỷ [50].
Qua các cuộc khai quật di chỉ sớm ở ĐBSCL, các nhà nghiên cứu đã phát
hiện trong khu vực phế tích của các tháp, hay trong khu vực mộ táng và cư trú đều
có những viên cuội tự nhiên, đá thạch anh trong suốt hay các viên đá có màu sắc,
hình dáng rất đặc biệt… Điều này cho thấy, đá có ý nghĩa rất quan trọng đối với
người dân nơi đây. Có thể những viên đá này đã được cư dân Óc Eo lựa chọn, thờ
cúng như cư dân cổ đại ở vùng Đông Nam Á. Khi thờ cúng một hòn đá, họ luôn tin
rằng, viên đá sẽ giúp họ tránh được mọi tai hoạ. Chính niềm tin vào sức mạnh thần
lực của vị thần trú ngụ trong những hòn đá sẽ là nguồn động viên để họ có thêm
lòng dũng cảm, sự bình tĩnh, vượt qua những khó khăn, gian khổ, trở ngại mà họ
đang phải đối mặt.
Đặc biệt, trong các đợt khai quật dưới chân di chỉ cư trú Gò Minh Sư (Gò
Tháp, Đồng Tháp) vào tháng 4 năm 2003, các nhà khảo cổ học phát hiện 18 ngôi
mộ, trong đó đều có những viên sỏi nhỏ được chôn cùng những đồ tuỳ táng khác.
Điều này cho thấy, trong đời sống của cư dân nơi đây, đá không chỉ để sử dụng
trong lao động sản xuất hay mang theo bên mình để cầu mong sự may mắn như một
số dân tộc khác, mà nó còn được dùng trong các nghi lễ tôn giáo: tang ma (tìm thấy
trong mộ táng), lễ cầu nguyện của đạo Hindu (tìm thấy trong Ao Thần, Gò Tháp)
[129]... Các viên đá không chỉ là những “chiếc bùa bình an” cho người sống mà còn
dùng cho cả người chết. Có thể, cư dân Óc Eo đã thực hành nhiều nghi lễ tôn giáo và
113
tín ngưỡng dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng qua thời gian, chúng ta khó có
thể hình dung tường tận những nghi thức mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên, qua những
di vật để lại cho thấy, tín ngưỡng thờ đá phản ánh tính chất thờ tự nhiên khá rõ.
Như vậy, trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, cư dân Phù Nam giai
đoạn đầu đã tồn tại tín ngưỡng bái vật giáo với tục thờ đá, thờ sinh thực khí bằng đá
cuội tự nhiên; những hình tượng thảo mộc, cầm thú trên hiện vật tìm thấy có thể đã
có biểu tượng lâu đời trước khi có biểu tượng của Siva và các tượng của Hindu giáo
và Phật giáo.
Tín ngưỡng phồn thực
Vương quốc Phù Nam nằm trong bối cảnh chung của các nước Đông Nam Á
(trồng lúa nước), nên tín ngưỡng phồn thực, cầu mong mùa màng tốt tươi có lẽ
không có xa lạ. Có thể khẳng định rằng, tín ngưỡng phồn thực tồn tại trong cơ tầng
văn hóa của cư dân Óc Eo cũng như các nước Đông Nam Á từ thời nguyên thuỷ,
trước khi có ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Nó được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như: thờ sinh thực khí nam và nữ, thờ hành vi giao phối… Cũng có thể,
chính vì thế mà cư dân nơi đây dễ dàng tiếp nhận Hindu giáo với những biểu tượng
tương tự truyền thống tín ngưỡng của họ.
Từ khi Ấn Độ giáo vào vùng ĐBSCL, tục thờ linga, yoni (biểu tượng của
thần Siva) đã kết hợp chặt chẽ với tục thờ sinh thực khí bản địa và trở nên phổ biến
rộng rãi trong mọi tầng lớp cư dân nơi đây. Có lẽ chính vì thế mà các nhà khảo cổ
học đã tìm thấy rất nhiều linga, yoni được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
ở trong các di tích Óc Eo. Biểu hiện rõ ràng nhất tính bản địa của tín ngưỡng phồn
thực là những chiếc linga, yoni được tìm thấy rất nhiều trong các di tích Óc Eo giai
đoạn sớm như di tích Óc Eo, Gò Cao Su (Long An), Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần
Giờ - TP.HCM), Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Tháp… Có những chiếc linga có thể
xác định niên đại từ thế kỷ I, II trước và SCN. Đa số những linga, yoni giai đoạn
này đều được chế tác bằng đá cuội, granit, đá cát các loại… với hình dáng sơ sài, tự
nhiên hay được tạo tác thêm để thể hiện hình linga, mang ý nghĩa của tín ngưỡng
phồn thực. Hiện nay, các di vật đá vẫn còn có mặt ở nhiều nơi và được cư dân các
tỉnh miền TNB thờ phụng với tên gọi ông Tà (Neak tà).
114
Những đoá hoa sen, hoa súng nở trong bình nước được chạm khắc trên các lá
vàng cũng có thể là một hình thức thờ nước. Bởi lẽ, các lá vàng chôn trong các ngôi
mộ táng hay các đền tháp, ngoài khắc hình hoa sen, hoa súng, thì thường là khắc vật
cưỡi, hoá thân của các vị thần (trong đó nhiều nhất là thần Vishnu) nhằm thể hiện
một tín ngưỡng, tôn giáo nào đó. Bên cạnh đó, nước là thành phần không thể thiếu
trong đời sống con người, đặc biệt là cư dân làm nông nghiệp. Nước giúp cho cây
cối tốt tươi, cũng là một dạng của tín ngưỡng phồn thực.
Các viên sỏi hình hạt đỗ, các chuỗi hạt... cũng có thể là một hình thức thể
hiện tín ngưỡng phồn thực của cư dân Óc Eo. Khi thờ những vật thiêng này, họ tin
là có thể thúc đẩy sự sinh sôi nảy nở, đẩy lùi sự đói kém…
Như vậy, tín ngưỡng phồn thực của cư dân Óc Eo chủ yếu được thể hiện qua
những linga, yoni hoặc những viên cuội tự nhiên có hình dáng giống chiếc linga, ít
xuất hiện những hành vi giao phối như trong văn hóa Đông Sơn. Tín ngưỡng phồn
thực luôn hiện hữu trong tâm thức của cư dân nơi đây. Họ đã thần thánh hoá và thờ
phụng những vật dễ liên tưởng đến sự sinh sản để cầu xin sự nảy nở sinh sôi, mùa
màng tốt tươi.
Qua đó, có thể thấy rằng, trước khi Ấn Độ giáo và Phật giáo đặt chân và phát
triển một cách mạnh mẽ trên vùng đất này, thì cư dân Phù Nam đã có những niềm
tin, tín ngưỡng riêng của mình. Những tín ngưỡng này không những không bị mất
đi, ngược lại, nó rất phát triển, phát triển một cách mạnh mẽ cùng với các tôn giáo
mới. Cư dân Óc Eo vừa thờ thần Siva, Vishnu, Phật, Bồ Tát… nhưng cũng không
quên quan tâm đến những tín ngưỡng truyền thống của các cư dân cổ đại ở Đông
Nam Á như: tín ngưỡng bái vật giáo với tục thờ đá cuội tự nhiên, hình tượng thảo
mộc, cầm thú…; tín ngưỡng phồn thực. Chúng hoà nhập vào nhau, tạo nên màu sắc
huyền bí, đa dạng, đặc sắc khó bóc tách, khó phân biệt một cách rõ ràng đâu là tín
ngưỡng bản địa, đâu là tôn giáo ngoại lai trong đời sống tín ngưỡng của cư dân nơi
đây. Đây chính là thái độ ứng xử rất linh hoạt của cư dân Óc Eo trước những tôn
giáo mới và tín ngưỡng bản địa. Nó thể hiện tính dung hợp, dễ tiếp nhận một cách
rõ nét trong tư duy của cư dân Óc Eo.
115
3.1.2. Đạo Bàlamôn
Đạo Bàlamôn là phiên âm của từ Brahman, ra đời từ thế kỷ I TCN, về sau cải
biến thành đạo Hindu (thế kỷ VII). Đây là một trong những tôn giáo lớn nhất, xuất
phát từ Ấn Độ theo con đường thương mại du nhập vào Phù Nam và nhiều nước
khác ở Đông Nam Á. Các đạo sĩ Bàlamôn đã theo thuyền buôn đến đây và cùng với
cư dân bản địa lập nên vương quốc Phù Nam, ít nhất là từ thế kỷ I SCN. Sau đó, họ
“sửa đổi tất cả các luật lệ, theo hệ thống cai trị của người Ấn và tự cho mình là
người bênh vực thánh ngữ Veeda” [53]. Nhà vua còn mời nhiều tu sĩ Bàlamôn ở Ấn
Độ sang truyền bá đạo mới và tặng nhiều quyền lợi, chức tước [51, tr.27]. Bàlamôn
giáo đã nhanh chóng bắt rễ sâu vào trong mọi ngõ ngách đời sống của cư dân Óc
Eo. Đến khoảng thế kỷ III, vương quốc Phù Nam đã có quan hệ khá thân thiết với
Ấn Độ và Trung Quốc. Vua Phantan cũng phái sứ thần của mình sang Ấn Độ, được
vua Murunda đón tiếp nồng nhiệt. Lúc ra về được nhà vua trao bốn con ngựa thiện
chiến đem về tặng vua Phù Nam [51, tr.27]. Như vậy, đạo Bàlamôn từ buổi đầu du
nhập đã trở thành quốc giáo và có tác động mạnh mẽ đến đời sống của cư dân nơi
đây, các “đạo sĩ Bàlamôn nắm vương quyền lẫn thần quyền” [2, tr.157]. Điều này
được thể hiện qua một số yếu tố sau:
Nơi thờ tự: Bất kỳ một tôn giáo nào, dù lớn hay nhỏ đều có quy định về nơi
thờ tự nhất định. Nơi thờ tự có thể xem là nơi quan trọng nhất đối với bất kỳ một
tôn giáo, tín ngưỡng nào. Đó là chốn linh thiêng, là nơi các thánh thần ngự trị. Cho
nên, việc nghiên cứu đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của một cộng đồng cư dân trong
quá khứ không thể không nhắc đến nơi thờ tự.
Bàlamôn giáo thường được thờ trong các ngôi đền tháp. Dấu tích các ngôi
đền tháp Bàlamôn giáo được phát hiện nhiều nơi trên vùng ĐBSCL như ở di tích
Gò Tháp, Nền Chùa, Óc Eo... Các ngôi đền tháp này thường có kiến trúc gạch đá
hỗn hợp, với quy mô lớn; kỹ thuật xây nền và tường gạch dày đặc theo những bình
đồ bí ẩn, lối lắp ráp những phiến đá granit lớn bằng mộng, chốt. Do điều kiện địa
tầng của châu thổ đang hình thành và do môi trường thường xuyên ngập nước ở
miền TNB nên phần lớn các đền tháp này chỉ còn lại phần nền móng và các phế tích
gạch đá. Các đền tháp này được làm bằng những loại vật liệu như gạch, đá, cát
116
(được gọi là kiến trúc nặng) hoặc dùng nguyên liệu cọc gỗ, lá lợp (kiến trúc nhẹ);
nhưng cũng có khi kết hợp cả kiến trúc nặng và nhẹ. Đây có thể là những công trình
được người dân hoặc là chính quyền xây dựng. Chính vì vậy, quy mô các công trình
kiến trúc này khá lớn, xây dựng hết sức công phu. Nguyên vật liệu chủ yếu bằng
gạch, đá… nhất là phần nền móng được gia cố một cách cẩn thận. Cột trụ của các
ngôi đền thường được trang trí nhiều hoa văn khác nhau [PL2.5, h.9-11, tr.212], trên
các ngôi đền có những tấm mi cửa được chạm khắc rất công phu [PL2.5, h14-16, tr.213],
có khi là hình các vị thần. Chẳng hạn, tại di tích Gò Tháp, các nhà khảo cổ học phát
hiện một góc của tấm mi cửa có khắc nổi một vị thần đang nhảy múa trên bệ
[PL2.5, h.12, tr.213]. Đến nay, tất cả những tấm mi cửa được phát hiện ở TNB đều
được chạm khắc rất công phu. Điều đó cho thấy, các ngôi đền thờ rất quan trọng đối
với cư dân Óc Eo nơi đây.
Các công trình xây dựng bằng gạch thường có bình diện hình vuông, hình
vuông “bẻ góc” hoặc chữ nhật; diện tích không lớn, phần nền móng xây nổi cao,
phần thân có tường gạch bao quanh, dựng đứng, thu nhỏ phần trên thành hình chóp
tháp. Chính giữa lòng tháp thường có dựng đài thờ; phía dưới có cấu trúc “hố
thiêng” hoặc “giếng thiêng”; trong lòng “hố thiêng” đặt “trụ giới” chìm sâu trong
lòng đất, có chôn theo tổ hợp vật thiêng (lá vàng, đồ trang sức, đá quý…).
Ngoài ra, cư dân nơi đây có thể thờ các vị thần linh của họ trong những ngôi
đền nhỏ làm bằng các chất liệu đơn giản như tre, gỗ hoặc có thể được thờ cúng
trong mỗi gia đình. Tuy nhiên, đây mới là giả thuyết, chưa có chứng cứ xác thực để
chứng minh điều này.
Tượng thờ là bằng chứng xác thực nhất để đánh giá sự tồn tại và phát triển
của một tôn giáo. Bởi lẽ, đối với một nền văn hóa khảo cổ, hệ thống tượng thờ là
nơi biểu hiện tập trung rõ nét nhất đời sống tâm linh cũng như trình độ nghệ thuật
của họ. Trong các di tích văn hóa Óc Eo, các nhà khảo cổ tìm thấy khá nhiều tượng
Bàlamôn giáo. Chúng bao gồm các tượng thần Brahma, Vishnu, Siva, Surya,
Ganesa và các nam thần, nữ thần… Trong đó, thần Vishnu được tìm thấy nhiều
nhất. Điều này cho thấy, đây là vị thần có vai trò rất quan trọng trong đời sống của
người dân nơi đây.
117
Tượng thần Vishnu [PL2.12, h.8, tr.230] thường đứng trên bệ, đầu đội mũ
hình trụ, có bốn tay, một tay cầm bánh xe (Chakra) thể hiện quyền năng duy trì sự
vận động; một tay cầm vỏ ốc (Sankha) biểu tượng nguồn gốc của sự sống, sự
chuyển động, sinh sôi nảy nở của muôn loài; tay cầm quả cầu (Bhu) tượng trưng
cho trái đất; tay đặt lên cây chuỳ dài tượng trưng cho sức mạnh, đôi khi tay cầm hoa
sen. Những ý nghĩa tượng trưng của các vật cầm trên tay cho thấy, Vishnu là một vị
thần rất quan trọng, có nhiều quyền năng. Đấy là một trong ba vị tối linh; là vị thần
Bảo hộ cho con người nơi đây được bình yên, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tránh
mọi tai ương. Có lẽ chính những quyền năng của thần Vishnu phù hợp với nguyện
vọng, tâm tư của người dân nơi đây, nên thần được cư dân Óc Eo thờ phụng rất
nhiều, chủ yếu dưới hình thức nhân dạng. Trong khi đó, hình thức nhân dạng của
thần Huỷ diệt (Siva) và thần Sáng tạo (Brahmâ) rất ít được thể hiện.
Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa hai vị thần Siva và thần Vishnu (Harihara)
[PL2.12, h.20-21, tr.234] cũng được tìm thấy trong văn hóa Óc Eo, đáng tiếc là
không một tượng nào còn nguyên vẹn. Một số tượng thần Harihara được tìm thấy ở
An Giang đều bị vỡ, chỉ còn lại đầu tượng.
Surya là thần Mặt trời, nhưng các phát hiện về vị thần này không nhiều. Tại
hố khai quật số 11 thuộc di tích Gò Tháp, các nhà khảo cổ học phát hiện được dấu
hiệu “đền thờ thần Surya”. Chứng cứ thể hiện rõ nét nhất chính là ở cách sắp xếp
nơi thờ hình tròn, nhọn dần về phía đáy và một mảnh vàng có hình tám tia, một
mảnh vàng có hình tia mặt trời. Ngoài ra, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy tượng
thần Surya bằng đá tại Gò Tháp có niên đại thế kỷ VI, hiện đang được lưu giữ tại
BTLS HCM và tượng ở Óc Eo, Ba Thê [PL2.12, h.2, tr.229]. Các tượng thần Surya
được phát hiện trên vùng ĐBSCL không nhiều, nhưng có đặc điểm chung là đều
trong thế đứng có vầng hào quang phía sau mũ. Trên vầng hào quang đôi khi có
những đường kẻ như tia nắng mặt trời. Mình thần khoác một chiếc áo choàng dài
phủ đùi hoặc để mình trần, vận sarong. Hai tay cầm hai nụ sen giơ ngang vai, biểu
tượng của bình minh.
Ganesa [PL2.12, h.23, tr234] là vị thần trí năng, vị thần đảm bảo cho sự
thành công trong sự tồn tại của trần thế, cũng như trong đời sống tâm linh của con
118
người. Thần có thể mang lại của cải cho mọi người, giúp họ tránh được những tai
ương, những điều không may mắn trong cuộc sống. Tượng thần Ganesa trong các di
tích ở ĐBSCL phát hiện không nhiều, tiêu biểu có các tượng từ di tích Trường Sơn,
Gò Thành và Cát Tiên. Tượng thường được thể hiện với đầu đội nón hình chóp, có
trang trí hoa văn đơn giản (hình sóng nước). Cũng có những tượng thần Ganesa đầu
để trần, không đội nón như các pho tượng ở BTAG, BTLA. Thần Ganesa trong văn
hóa Óc Eo đều có một điểm chung: mình người, đầu voi, bụng rất to, hai mắt mở to,
hai vành tai rộng và lớn, vòi vểnh về phía tay trái.
Tượng nam, nữ thần [PL2.12, h.12-14, tr.231-232] được tìm thấy rất nhiều
trong các di tích Óc Eo ở ĐBSCL. Tất cả các tượng này đều trong tình trạng bị gãy
vỡ mất đầu, chân tay, không còn rõ các biểu tượng, nên rất khó xác định được một
cách chính xác tên gọi và các đặc trưng của nó. Bên cạnh đó, các tượng nữ thần
trong văn hóa Óc Eo thường có xu hướng Vishnu hoá, nên việc nhận diện tượng càng
khó hơn.
Sự xuất hiện phong phú, đa dạng với số lượng lớn các tượng Bàlamôn cho
thấy, thời kỳ này, đạo Bàlamôn rất phát triển. Đặc biệt, việc các tượng thờ (trong đó
có cả tượng Phật giáo) được Vishnu hoá càng cho thấy Vishnu giáo trong đời sống
của cư dân Óc Eo ở miền TNB là chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.
Ngoài ra, tượng thờ trong văn hóa Óc Eo được phát hiện với nhiều kích
thước khác nhau. Có một số tượng có kích thước rất lớn, bằng người thật hoặc lớn
hơn, có thể được sử dụng trong điện thờ chính của địa phương, cũng có thể được
chế tác riêng cho những ngôi đền cấp độ nhà nước, ngôi đền của vua và hoàng hậu
thường đến cúng bái. Những tượng có kích thước nhỏ hơn (trung bình, nhỏ) có thể
được đưa vào phối thờ trong các điện lớn ở các trung tâm tôn giáo, hoặc thờ chính
trong những ngôi đền nhỏ hơn (có thể gia đình, làng). Có những tượng rất nhỏ (chỉ
khoảng 18-19cm) có thể do các cá nhân cúng vào các ngôi đền, hoặc được mang
theo trên đường hành hương, buôn bán. Điều này càng chứng minh cho nhận định,
Hindu giáo có ảnh hưởng rộng rãi trong mọi tầng lớp của cư dân Óc Eo. Các tượng
thờ được phát hiện rất sớm, từ thế kỷ IV - V SCN, đặc biệt phát triển từ thế kỷ V
đến VIII - IX.
119
Vật thờ (hình tượng, biểu tượng Bàlamôn giáo): Các vị thần Bàlamôn giáo
ngoài được thể hiện dưới hình thức nhân dạng, còn được thể hiện qua các hình
tượng, biểu tượng khác nhau. Các biểu tượng, hình tượng này được tìm thấy với số
lượng lớn trong các di tích, đặc biệt là phế tích đền tháp. Đa số những biểu tượng,
hình tượng này được làm thành những lá vàng, dùng để làm vật dâng cúng trong các
đền thờ Bàlamôn giáo và làm vật chôn theo. Chúng được khắc thành nhiều đề tài
khác nhau, nhưng đều liên quan đến các vị thần Bàlamôn giáo.
Các hoá thân của thần Vishnu được phát hiện nhiều trong di các tích vùng
ĐBSCL, trong đó, nhiều nhất vẫn là di tích Đá Nổi, Gò Tháp. Thần hiện ra với hàng
chục hoá thân để mang lại hạnh phúc cho kẻ khác. Khi Thần hoá thân thành hình
rùa Kurma để nâng trái đất khỏi chìm xuống biển, cứu vớt những sinh linh cùng tài
sản của họ bị chìm dưới nước sâu; Vishnu hoá thành loài cá Matsya là để cứu loài
người khỏi nạn đại hồng thuỷ; hay hoá thân dưới dạng lợn đực (để cứu nữ thần Đất
khỏi bị chìm trong nạn đại hồng thuỷ)… Các hoá thân này của thần Vishnu thường
có liên quan đến nạn lũ lụt. Phải chăng đây chính là ước mơ của người dân nơi đây,
họ mong muốn sẽ được cứu thoát khỏi cảnh lũ lụt hàng năm ở vùng ĐBSCL, khi
thờ các hoá thân của thần Vishnu?
Ngoài các hoá thân của thần Vishnu, các biểu tượng và vật cưỡi của vị thần
này cũng được thể hiện một cách phong phú, đa dạng như hình: bánh xe, con ốc,
bàn chân, rắn, chim thần Garuda, hoa sen, gậy quyền… Mỗi biểu tượng đều có
những giá trị riêng, thể hiện mong ước của cư dân nơi đây khi thờ phụng trong các
thần điện của mình.
Vishnu và Siva là hai vị thần phổ biến, được cư dân Óc Eo ở vùng ĐBSCL
thờ cúng nhiều nhất. Trong khi thần Vishnu được thể hiện chủ yếu dưới hình thức
nhân dạng thì thần Siva được thể hiện chủ yếu bằng biểu tượng Sivalinga. Một số
khá lớn linga, yoni, linga - yoni cùng các bệ thờ đã được phát hiện ở ĐBSCL với
nhiều loại hình, kiểu dáng, kích thước khác nhau. Theo thống kê chưa đầy đủ, trước
năm 1975, đã phát hiện được 121 hiện vật, phần lớn tập trung ở miền tây sông Hậu.
Sau năm 1975, khoảng 100 hiện vật đã được phát hiện, bao gồm một lượng lớn
mảnh vỡ và nhiều đá thờ có hình dạng và kích thước khác nhau [85, tr.82]. Điều này
120
cho thấy, trong đời sống của cư dân Óc Eo, tín ngưỡng thờ thần Siva chiếm ưu thế
so với Vishnu. Tín ngưỡng thờ Siva ở đây thường được thể hiện dưới dạng thờ
linga, yoni, linga - yoni cùng nhiều tượng thờ, vật thờ liên quan đến thần Siva.
Chúng có có mặt tại đây từ rất sớm, niên đại từ khoảng thế kỷ I SCN, phát triển
mạnh mẽ từ khoảng thế kỷ III - VIII. Trong số những vật thờ này, thì hình thức thờ
linga, linga - yoni còn có ý nghĩa là biểu tượng cho dương tính, cho sự kết hợp giữa
âm và dương. Hầu như trong các di tích văn hóa Óc Eo đều có sự xuất hiện của nó.
Có thể do hình thức thờ phụng này có sự gần gũi, tương đồng với truyền thống thờ
sinh thực khí của cư dân bản địa, tượng trưng cho sự màu mỡ, sinh sôi nảy nở nên
nó dễ dàng được chấp nhận trong mọi tầng lớp cư dân, đặc biệt nhóm cư dân làm
nông nghiệp.
Việc tìm thấy nhiều tượng thờ, vật thờ liên quan đến Vishnu và Siva có lẽ là
sự thể hiện lòng ngưỡng mộ những kỳ tích của các vị thần này trong việc cứu giúp
nhân loại diệt trừ quỷ dữ và lòng khao khát tiến tới cuộc sống tốt đẹp [14, tr.132-
133]. Điều này phù hợp với hoàn cảnh sống của con người nơi đây. Họ cần một chỗ
dựa, một niềm tin để vượt qua những nguy hiểm, cạm bẫy trên rừng, dưới nước và
cả những khắc nghiệt của thiên nhiên. Họ mặc nhiên chấp nhận cả hai vị thần này
trong thần điện của mình, thần Vishnu là vị thần bảo vệ cuộc sống ấm no và những
tài sản họ đã làm ra, còn thần Siva sẽ trừng phạt những kẻ ác trong xã hội [140,
tr.336]. Hai vị thần này có khi còn được kết hợp thành thần Hari - Hara (Hari là
Vishnu, Hara là Siva). Điều này cho thấy, ngoài ước mơ được che chở, họ còn
mong muốn có sự công bằng xã hội. Tuy nhiên, thần Hari - Hara không được thờ
phổ biến trong văn hóa Óc Eo. Song, sự kết hợp này đã nói lên tư tưởng dung hoà,
linh hoạt của con người nơi đây không chỉ trong cuộc sống mà cả đối với tôn giáo.
Ngoài ra, cư dân Óc Eo ở miền TNB còn thờ các vị thần khác thuộc Bàlamôn
giáo như tín ngưỡng thờ thần Brahma [PL2.12, h.22, tr.234] là biểu tượng cho sự
vĩnh hằng và đấng tối cao, thần Surya - thần Mặt trời, thần Ganesa - Phúc thần
[PL2.12, h.23, tr.234], các nam thần và nữ thần… Tuy nhiên, các vị thần này không
phổ biến, tượng của các vị thần này tìm thấy không nhiều, nhưng cũng thấy được
phần nào sự phong phú trong đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo ở ĐBSCL.
121
Đặc biệt, trong năm 2013, đoàn khai quật khảo cổ học của Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM đã tiến hành khảo sát
và khai quật khu vực cư trú Gò Minh Sư. Tại đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện di
tích Ao Thần nằm ngay phía Đông đền thần Gò Minh Sư, gần khu vực cổng vào của
kiến trúc. Đặc điểm ao Thần là phía trong tường được kè bằng lớp gạch vụn và đất
sét, bên ngoài xây các hàng gạch với kiểu xếp gạch so le và đổ cát giữ cho tường
không đổ vào bên trong ao. Nhờ vậy mà ao này sử dụng hàng ngàn năm nhưng
tường không bị sạt lở. Theo các nhà nghiên cứu, Ao Thần này có chức năng chứa
nước sinh hoạt, dùng cho các nghi lễ thờ cúng trong đền, đồng thời, có thể nó còn
có chức năng là nơi tẩy uế cho các tín đồ đạo Hindu trước khi vào đền thần cầu
nguyện. Do trong hố phát hiện được một khối lượng hiện vật phong phú, ngoài
mảnh vỡ của bình, nồi, cà ràng, bi gốm, dọi se sợi, bàn xoa gốm còn có mảnh vỡ
của các loại gốm trang trí kiến trúc, và một số gốm phục vụ trong nghi lễ như đĩa
đèn, chân đèn, vòi bình được tạo hình ngỗng thần Hamsa, 4 hạt chuỗi, 1 mảnh thuỷ
tinh trong suốt, thỏi kim loại nhỏ dạng tròn dài và 1 mảnh vàng lá chạm hình hoa
sen. Trong ao còn có nhiều xơ dừa, mo dừa nên có thể đoán định cư dân xưa đã
dùng các vật dụng bằng dừa để thực hiện nghi lễ tẩy trần hoặc ban phúc. Còn các
tầng lớp tăng lữ có thể dùng bình kendi để múc nước phục vụ các nghi lễ trong đền
[129]. Với phát hiện này đã dần hé lộ một số nghi thức đã được thực hiện trong các
nghi lễ Hindu giáo.
Như vậy, có thể nói rằng, Bàlamôn giáo (và sau đó là Hindu giáo) đã chi
phối sâu sắc đến đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo, đồng thời, tác động mạnh mẽ
đến mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế, chính trị của cư dân nơi đây. Hindu giáo đã giữ
vai trò quyết định trong việc tạo ra sự chuyển biến về các mối quan hệ trong xã hội
của cư dân Óc Eo. Hindu giáo tồn tại và phát triển qua các thời kỳ của vương quốc
Phù Nam, khoảng thời gian từ thế kỷ I - VII, và tiếp tục phát triển những giai đoạn
tiếp theo. Thực tế đã khẳng định, trong suốt thời kỳ này, Hindu giáo đã xâm nhập và
phổ biến rộng rãi, tạo được thiện cảm trong lòng dân chúng bản địa, đã thiết lập
được một số mạng lưới các đền tháp Hindu giáo trong khu toàn vực và để lại cho
ngày nay số lượng lớn các tượng thờ, vật thờ ở khắp các tỉnh miền TNB.
122
3.1.3. Đạo Phật
Cùng với Bàlamôn giáo, Phật giáo có mặt trên vùng ĐBSCL từ rất sớm vào
khoảng thế kỷ II SCN [85, tr.208] và phát triển một cách mạnh mẽ với cả hai tông
phái, mở đầu là phái Theravada (Tiểu thừa) và sau đó là phái Mahayana (Đại thừa).
Các tượng Phật giáo tuy phát hiện không nhiều, không phong phú như Bàlamôn
giáo, nhưng Phật giáo có vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống của cư
dân Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ. Điều này được chứng minh qua các tư liệu khảo cổ
và thư tịch cổ Trung Quốc để lại.
Các tư liệu khảo cổ học cho thấy, Phật giáo đã có mặt ở nhiều nơi khắp các
tỉnh miền TNB, bao gồm tượng Phật bằng gỗ, bằng đá với những kiểu dáng và kích
thước khác nhau. Tượng có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII. Theo thống kê chưa
đầy đủ, hiện nay, có khoảng 65 tượng Phật giáo (tượng Phật và tượng Bồ Tát) [85,
tr.208] với các kiểu dáng, chất liệu khác nhau. Trong đó, tượng Phật bằng gỗ được
tìm thấy nhiều nhất và xuất hiện khá sớm so với các loại tượng khác (cả Phật giáo
và Hindu giáo). Tượng Phật bằng gỗ tìm thấy chủ yếu trong các di tích Óc Eo ở
vùng đồng bằng thấp miền tây sông Hậu và vùng trũng Đồng Tháp Mười. Các pho
tượng phát hiện ở Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp) và Mỹ Thạnh Đông
(Long An) được giám định là có niên đại sớm nhất, khoảng thế kỷ II - IV SCN. Phật
giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ đến thế kỷ VIII SCN và đến thế kỷ IX - X hầu như
là biến mất, trong khi Hindu giáo vẫn tiếp tục phát triển.
Các pho tượng Phật bằng đá, được tìm thấy trong phạm vi rộng hơn, nằm rải
rác khắp các tỉnh miền TNB. Ngoài ra, còn thấy các loại tượng Phật bằng đá trên
vùng đất giồng ven biển và vùng lưu vực sông Đồng Nai - Vàm Cỏ [14, tr.132-133].
Cho đến nay, có khoảng 22 tượng và mảnh vỡ tượng Phật bằng đá được phát hiện
với nhiều kiểu dáng khác nhau. Các tượng Phật bằng đá xuất hiện rất sớm, từ thế kỷ
II, tượng Phật bằng đá đã có mặt tại vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, giai đoạn này (từ thế
kỷ II - IV), tượng Phật bằng đá không nhiều, chủ yếu là loại tượng Phật ngồi thiền.
Từ thế kỷ V trở đi, loại tượng Phật này được tìm thấy với số lượng lớn, phong phú
và đa dạng về kiểu dáng, chủng loại. Điều này cho thấy, thời kỳ này Phật giáo đã
phát triển một cách mạnh mẽ hơn.
123
Các tượng Đức Phật bằng kim loại hay đất nung cũng được phát hiện ở vùng
ĐBSCL, nhưng số lượng không nhiều, thường là những bức tượng có kích thước
nhỏ hoặc rất nhỏ. Tượng Phật bằng đồng được phát hiện ở Gò Cây Thị (Óc Eo - An
Giang) [PL2.12, h.17, tr.233] chỉ cao 29 cm; còn tượng Phật bằng đất nung phát
hiện tại di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) cao 12,2cm [85; tr.195]. Có thể những bức
tượng này (kim loại) được các thương nhân mang từ nơi khác đến, hoặc được người
dân dùng để thờ cúng trong gia đình (tượng bằng đất nung). Tuy nhiên, đây cũng
chỉ là giả thuyết, chưa có bằng chứng xác thực.
Đến thế kỷ IV - V, Phật giáo phát triển một cách mạnh mẽ. Tượng Phật có
mặt khắp nơi trên vùng ĐBSCL, với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Có những tượng
cao lớn như người thật, đặc biệt là tượng Phật bằng gỗ mang kí hiệu BTLS/MBB
3445 được tìm thấy ở Gò Tháp cao đến 2,91m, hay tượng Phật bằng gỗ phát hiện ở
Giồng Xoài (An Giang) cao 2,23m. Ngoài ra còn nhiều tượng Phật bằng cao trên
1,3m như tượng ở Đá Nổi (1,33m). Đặc biệt là ở Gò Tháp - nơi được coi là xưởng
chế tác tượng Phật bằng gỗ, xuất hiện nhiều loại tượng cao lớn (tượng mang kí hiệu
BTĐT cao 1,62m; BTĐT CV1251/DDM368 cao 1,80m…). Với những bức tượng
đồ sộ như vậy, có thể nó được thờ trong những ngôi chùa lớn, có nhiều người thờ
cúng, còn những bức tượng nhỏ hơn cũng có thể được thờ trong gia đình hoặc được
những thương nhân đến từ Trung Quốc, Ấn Độ mang theo.
Ngoài ra, thời kỳ này, Phật giáo đã có những trung tâm chuyên chế tác các
loại tượng Phật bằng gỗ phục vụ cho người dân trong khu vực. Dấu tích của những
trung tâm này chính là các tượng gỗ đang chế tác dở được phát hiện ở Nhơn Thành,
Giồng Xoài (An Giang) và Gò Tháp (Đồng Tháp). Trong đó, vùng Đồng Tháp
Mười được xem là nơi chế tác các loại tượng Phật cho toàn vùng ĐBSCL, thậm chí
cho các vùng lân cận. Theo các nhà nghiên cứu, vùng Đồng Tháp Mười là nơi có
nguồn nguyên liệu gỗ phong phú, nơi đây phát hiện số lượng lớn các loại tượng
Phật bằng gỗ lớn nhỏ khác nhau, có những tượng đang được chế tác dở. Qua thống
kê, ở di tích Gò Tháp có 24 tượng Phật (trong tổng số 55 tượng ở vùng ĐBSCL),
trong đó có đến 20 tượng bằng chất liệu gỗ. Các loại tượng Phật bằng chất liệu đá
đã được người dân vùng ĐBSCL chế tác tại chỗ, bằng các nguyên liệu của địa
124
phương (đá cát, đá sa thạch trắng xám, đá xanh…). Qua đó càng cho thấy, Phật giáo
đã rất phát triển ở vùng ĐBSCL từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Tuy không
được thờ cúng nhiều như Bàlamôn giáo, nhưng Phật giáo có vai trò quan trọng vào
từng giai đoạn nhất định. Theo bảng thống kê (về kích thước, số lượng của tượng)
[PL3.1, tr.236-241], có thể đoán định Phật giáo phát triển nhất vào khoảng thế kỷ V -
VI. Thời kỳ này, vai trò của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo là
vô cùng quan trọng.
Bên cạnh đó, tài liệu đề cập đến mối quan hệ bang giao giữa Phù Nam và
Trung Quốc đã được nhiều thư tịch cổ Trung Quốc nhắc đến, đặc biệt trong Lương
Thư từng nhắc đến chuyến thăm Trung Quốc của hai nhà sư Phù Nam, đánh dấu
mối quan hệ giữa hai vương quốc: Năm 503, theo lời mời của triều đình nhà Lương,
vua Phù Nam đã lần lượt phái hai nhà sư là Sanghapala (Tăng Già Bà La) và
Mandra (Man Đà La) mang kinh Phật từ Phù Nam sang Trung Hoa dịch. Hai nhà sư
này lưu trú tại Phù Nam Quán. Tăng Mandra đã dịch được tất cả 3 bộ 11 quyển, còn
tăng Sanghapala dịch được tổng cộng 10 bộ 32 quyển. Vua Phù Nam còn gửi sang
triều đình nhà Lương pho tượng Phật bằng san hô [40, tr.162-164]. Các kinh do hai
nhà sư dịch đều được mang từ Phù Nam sang, điều này cho thấy, trước đó ở Phù
Nam, những bộ kinh này đã được người Phù Nam học tập, phổ biến. Phật giáo Phù
Nam (cả Đại thừa và Tiểu thừa) vào khoảng thế kỷ IV - V đã rất phát triển, nó được
truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang, chứ không chỉ được truyền bá từ phía Bắc. Điều này
cho thấy, thời kỳ này (thế kỷ IV - VI), Phật giáo phát triển rực rỡ.
Đặc biệt, việc phát hiện các loại tượng Bồ Tát (Bodhisattva) đã chứng minh sự
có mặt của Phật giáo Đại thừa ở vùng ĐBSCL từ những thế kỷ đầu Công nguyên.
Tuy nhiên, các tượng Bồ Tát không nhiều và xuất hiện muộn hơn tượng Phật. Pho
tượng Bồ Tát được phát hiện sớm nhất nơi đây là khoảng cuối thế kỷ IV đầu thế kỷ
V, với một tượng bằng đồng nhỏ, mang tính chất phù điêu, được phát hiện ở Óc Eo
(An Giang). Đặc biệt là tượng Di Lặc (Maitreya) [PL2.12, h.9, tr.231] được phát
hiện ở Trung Điền (Vĩnh Long) có búi tóc cao gần giống chiếc mũ trụ và có gậy
chống giống như Vishnu. Sự kết hợp này cũng được tìm thấy ở tượng Quan Thế
Âm Bồ Tát (Avalokitesvara) ở Rạch Giá (Kiên Giang) [PL2.12. h.10, tr.231] với
125
chiếc gậy chống của thần Vishnu. Như vậy, có thể thấy rằng, ở đây có sự hoà trộn
các yếu tố Hindu giáo và Phật giáo. Sự pha trộn này thể hiện tính cởi mở, dung hợp
và sự sáng tạo của cư dân Óc Eo ở TNB trong việc tiếp nhận các luồng tư tưởng,
tôn giáo mới đến từ Ấn Độ. Đây cũng chính là nét đặc trưng trong đời sống tinh
thần của cư dân Óc Eo ở TNB, mà không một “quốc gia Ấn Độ hoá” nào có được.
Như vậy, có thể thấy, ít nhất là vào khoảng thế kỷ IV - V, giữa vương quốc
Phù Nam và Trung Hoa có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. Phật giáo thời kỳ
này phát triển một cách mạnh mẽ, có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống của
cư dân Óc Eo. Các tượng Phật giáo có mặt khắp nơi trên vùng đất miền TNB. Có
thể nói, Phật giáo là một phần không thể thiếu trong mối quan hệ bang giao giữa hai
nước, sự trao đổi Phật pháp của các cao tăng giữa hai nước diễn ra thường xuyên.
Việc bang giao với nhà vua Trung Quốc rất có thể do các nhà sư thực hiện. Điều
này chứng tỏ, ở vương quốc Phù Nam, Phật giáo đã tham gia vào các hoạt động của
triều đình, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại giao với Trung Hoa và đã có các nhà sư
uyên bác giảng.
3.2. Nghệ thuật
Trình độ nghệ thuật của cư dân Óc Eo được thể hiện trên nhiều loại hiện vật
khác nhau như các đồ dùng bằng gốm, các vật dụng bằng đá và bằng kim loại trong
sinh hoạt hằng ngày… Trong đó, nổi bật nhất là nghệ thuật trang trí trên đồ trang
sức, chạm khắc trên vàng, tạc tượng. Đặc điểm chung của nghệ thuật Óc Eo là kết
hợp truyền thống văn hóa bản địa của vùng Đông Nam Á với những yếu tố văn hóa
mới du nhập, tạo nên một nền nghệ thuật đặc sắc cư dân Óc Eo.
Nghệ thuật trang trí trên đồ trang sức, chạm khắc trên vàng: Cư dân Óc
Eo rất thích đeo nhiều đồ trang sức lên người. Đồ trang sức còn được dùng cho cả
người sống lẫn người chết. Họ còn dùng những lá vàng được chạm khắc hình các vị
thần để thờ cúng trong các thần điện. Vì vậy, chạm khắc trên vàng đã trở thành một
loại hình nghệ thuật phổ biến trong đời sống của cư dân Óc Eo. Theo thống kê chưa
đầy đủ, cho đến nay, có khoảng hơn 1.000 mảnh vàng nhỏ có chạm khắc được phát
hiện [85, tr.125]. Nhiều mảnh vàng có hình vẽ và chữ viết được tiếp tục phát hiện
trong các cuộc khai quật gần đây. Các đề tài thể hiện vô cùng phong phú, nội dung
126
chủ yếu liên quan đến hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Hindu giáo. Kỹ thuật chạm
khắc rất tinh xảo, họ thường dùng một công cụ, có thể bằng kim loại nhọn đầu để
vạch lên những miếng vàng đã được dát mỏng. Đặc biệt tại di tích Đá Nổi (An
Giang) đã phát hiện trên một số mảnh vàng có in hình nổi rất tinh tế, sinh động của
thần Vishnu và Garuda. Phương pháp này cũng được tìm thấy trên một số mảnh
vàng ở các di tích khác như Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò Xoài (Long An), Lưu Cừ
(Trà Vinh) [PL2.11, tr.227-228].
Trong văn hóa Óc Eo còn phát hiện rất nhiều đồ trang sức bằng vàng có
khảm đá quý rất đẹp [PL2.7, h.7, tr.218]. Kỹ thuật khảm đá quý lên các đồ trang sức
của cư dân Óc Eo cũng rất tinh tế, đạt trình độ kỹ thuật cao. Có giả thuyết cho rằng,
những người thợ kim hoàn nơi đây đã sử dụng một loại chất gọi là “khằng”, một
loại hỗn hợp có thể nóng chảy với thành phần nhựa cây để tạo nên các đồ trang sức
bằng vàng cầu kỳ, tinh tế [85, tr.126]. Có những con dấu, đồ trang sức (mặt nhẫn)
được làm bằng vàng có khảm đá quý ở giữa rất tinh xảo như hình con dấu ở Cạnh
Đền (Kiên Giang) hay mặt nhẫn được phát hiện ở Nền Chùa (Kiên Giang).
Ngoài ra, nơi đây còn phát hiện nhiều loại đồ trang sức như nhẫn, hoa tai,
bùa đeo... có kỹ thuật đúc và chạm khắc rất tinh tế. Có những hiện vật được chạm
trổ rất sâu và mịn như hình người phát hiện ở Nền Chùa (Kiên Giang). Nội dung
của những hình chạm khắc trên vàng rất phong phú, đặc biệt là biểu tượng và hoá
thân của các vị thần.
Những lá vàng và các loại đồ trang sức tìm được trong di tích Óc Eo đã phần
nào phản ánh trình độ điêu luyện của những người thợ kim hoàn nơi đây. Điều này
cũng được thư tịch cổ Trung Quốc khẳng định “họ thích điêu khắc và dùng đục
chạm trổ rất khéo” [53, tr.102]. Qua đó, có thể thấy, những người thợ ở đây có trình
độ thẩm mỹ rất cao, họ đã tiếp thu kỹ thuật chạm khắc của người Ấn Độ để chế tạo
ra những sản phẩm phù hợp với sở thích của dân bản địa. Hẳn những nghệ nhân kim
hoàn Phù Nam không chỉ am hiểu nền triết học Ấn Độ, thấm nhuần tinh thần dân
tộc mà ẩn chứa trong đấy là khát vọng sáng tạo để đưa nền văn hóa dân tộc lên tầm
cao mới. Đó là linh hồn của cư dân Óc Eo, là nếp sống, nếp nghĩ và đã trở thành
phong tục tập quán không thể mất đi trong quá trình tiếp nhận nền văn hóa Ấn Độ.
127
Nghệ thuật tạc tượng: Tượng thờ và linh vật thờ ở ĐBSCL trong suốt 10 thế
kỷ đầu Công nguyên được tìm thấy rất nhiều trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo
và rải rác trên khắp vùng Nam bộ cả miền Tây và miền Đông, chủ yếu là tượng Phật
giáo và Hindu giáo với nhiều chất liệu khác nhau như: gỗ, đá, đất nung, kim loại…
Phần lớn những sản phẩm nghệ thuật được chế tác tại chỗ nhưng chịu ảnh hưởng
phong cách nghệ thuật từ các nền văn hóa bên ngoài, có thể được du nhập vào đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long vào khoảng cuối thế kỷ III đầu thế kỷ IV. Nghệ thuật
tạc tượng trong văn hóa Óc Eo ở ĐBSCL chủ yếu là tượng tròn của Bàlamôn giáo
và Phật giáo.
Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất nghệ thuật điêu khắc Phật giáo và Hindu của
cư dân Óc Eo ở ĐBSCL là khoảng từ thế kỷ V đến thế kỷ VII. Ở thời kỳ này, nghệ
thuật điêu khắc có được sự đa dạng về loại hình và hình thức thể hiện. Các nghệ
nhân nơi đây đã thể hiện được phong cách riêng của mình, tạo ra những “sản phẩm
của nền nghệ thuật bản địa” [51, tr.369], trên cơ sở tiếp thu thường xuyên những
yếu tố nghệ thuật từ bên ngoài, thông qua con đường giao lưu buôn bán và trao đổi
hàng hoá (chủ yếu bằng đường biển), góp phần làm giàu thêm văn hóa bản địa. Đây
cũng chính là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát
triển các trung tâm tôn giáo - văn hóa - kinh tế - chính trị lớn ở vùng đất này trong
những thế kỷ đầu Công nguyên.
Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo ở vùng ĐBSCL ra đời rất sớm, từ những
thế kỷ đầu Công nguyên và nhanh chóng phát triển đến đỉnh cao. Các loại tượng
Phật giáo được tìm thấy khá nhiều, tạo được phong cách nghệ thuật độc đáo, đặc
trưng cho nghệ thuật tạc tượng của cư dân Óc Eo ở miền TNB. Đặc biệt là tượng
Phật bằng gỗ ở Gò Tháp, “vừa phản ánh đặc tính nhạy cảm, dễ tiếp thu các luồng
ảnh hưởng nghệ thuật mới, vừa bộc lộ những nét bản địa chân chất, bền vững
trong sự sáng tạo đa dạng” [85, tr.58]. Các loại tượng Phật bằng gỗ thường có
khuôn mặt trái xoan, vẻ mặt hiền từ, thân hình mềm mại. Rất có thể đây là dụng ý
của các nghệ nhân, muốn đem đến cho Đức Phật một hình ảnh đẹp, tạo cảm giác
gần gũi, thân thiết với người dân bản xứ, khiến họ dễ dàng chấp nhận và tiếp nhận
một tôn giáo mới.
128
Căn cứ vào đặc điểm, tư thế của tượng, có thể thấy, tượng Phật bằng gỗ
thường được tạc theo hai phong cách: Phong cách nghệ thuật Amaravati có pha đôi
nét nghệ thuật thời Gupta, thường có chỏm Usnisa hơi nhọn, tai dài, miệng mỉm
cười, đứng trên bệ toà sen, một tay đỡ các nếp áo, một tay đưa lên phía trước trong
tư thế thuyết pháp, khoác áo cà sa để lộ một bên vai [PL2.12, h.16, tr.233]. Một số
tượng có sự pha trộn với phong cách nghệ thuật Hy Lạp cổ đại, dáng mảnh mai,
hông hơi lệch về bên phải; phong cách thứ hai thể hiện những yếu tố gần gũi với
nghệ thuật Dravavati, khoác áo cà sa kín hai vai, cả hai tay đều trong tư thế ban ân.
Chính từ những phong cách tượng Phật bằng gỗ trong văn hóa Óc Eo đã cung cấp
thêm cứ liệu về “sự phát triển của trung tâm Phật giáo Phù Nam” [1, tr.280].
Nếu tượng Phật bằng gỗ chủ yếu tìm thấy ở vùng Đồng Tháp Mười, hầu hết
được tạc trong tư thế đứng, thì tượng Phật bằng đá được tìm thấy khắp các tỉnh
ĐBSCL, ngoài một số pho tượng tạc trong tư thế đứng thẳng, đứng lệch hông theo
truyền thống tượng gỗ [PL2.12, h.19, tr.233], còn có nhiều tượng ở tư thế ngồi trên
toà sen hoặc ngồi kiểu đại sư (tượng Phật bằng đá ở Sơn Thọ, Trà Vinh), hai tay
trong tư thế thiền định hoặc đặt trên hai đầu gối. Trong đó, nhiều tượng thể hiện
được phong cách riêng của mình, có đường nét cơ thể giống người bản địa như các
pho tượng Phật ngồi thu thập ở di tích Óc Eo, Đá Nổi, Gò Tháp…
Bên cạnh hình tượng Đức Phật, các hình tượng Bồ Tát tuy phát hiện không
nhiều, nhưng đã thể hiện được trình độ thẩm mỹ của cư dân Óc Eo. Các tương Bồ
tát có chất lượng nghệ thuật cao, góp phần tạo nên những kiệt tác nghệ thuật ở
ĐBSCL vào thế kỷ VI - VII, với một phong cách riêng mà các nhà nghiên cứu cho
là thuộc “nghệ thuật Phù Nam” [85, tr.58].
Từ cuối thế kỷ VII, vai trò của Phật giáo trong đời sống của cư dân Óc Eo
dần bị mất đi, nghệ thuật điêu khắc của tôn giáo này suy thoái nhanh chóng và hầu
như biến mất sau thế kỷ VIII. Tuy nhiên, giai đoạn này cũng chứng kiến sự phát
triển hưng thịnh của Phật giáo Đại thừa, lấy hình tượng Avalokitesvara và Maitreya
làm đối tượng thờ chính. Sự pha trộn các yếu tố tiếu tượng giữa Vishnu - Maitreya
và Siva – Avalokitesvara là một biểu hiện mang tính thời sự trong việc tiếp thu các
luồng tư tưởng tôn giáo mới từ Ấn Độ, vừa thể hiện sự bản địa hoá nhanh chóng cả
hình thức nghệ thuật lẫn nội dung tôn giáo [85, tr.58].
129
Về nghệ thuật điêu khắc Hindu giáo: Nghệ thuật tạc tượng ở ĐBSCL có thể
đã xuất hiện từ rất sớm, các tượng thần Hindu giáo có mặt trong nhiều di tích trung
tâm thuộc văn hóa Óc Eo, với nghệ thuật tạc tượng tròn là chủ yếu. Sự phát triển
của nghệ thuật tạc tượng và sự thay đổi về phong cách có thể được nhận biết thông
qua việc phân tích các yếu tố về chất liệu, kỹ thuật thể hiện bề mặt, hình dáng,
đường nét cơ thể, khuôn mặt, trang phục và trang sức.
Về kỹ thuật, tượng Hindu giáo thường có giá đỡ phía sau thay cho vách tựa
của truyền thống nghệ thuật Ấn Độ cổ. Các tượng thường trong tư thế đứng thẳng
trên bệ có chốt. Mặc dù cách thể hiện các đặc điểm nhân dạng với những phong
cách khác nhau, tuy nhiên, có nhiều đặc điểm trên khuôn mặt từ giai đoạn đầu đến
những tượng được coi là muộn vẫn mang nét gần gũi với cư dân bản địa. Điều này
được thể hiện một cách rõ nét trên các tượng thần Vishnu ở ĐBSCL: Chẳng hạn,
một tượng thần Vishnu được tìm thấy ở Gò Tháp, cao khoảng 1,48m, có các nét
thanh tú, mềm mại: khuôn mặt thon dài, cằm tròn, mắt nhỏ hơi dài, miệng mỉm cười,
cơ thể cường tráng. Trang phục là sampot trơn, dài xuống ống chân, được cuộn lại,
tạo thành một dải trơn không xếp nếp. Tượng có những đặc điểm gần giống với
phong cách Phnom Da, nhưng mang sắc thái riêng biệt của người dân bản địa.
Đặc biệt là tượng Vishnu bằng đá lớn, được vớt dưới sông Đồng Nai. Tượng
được xem là sản phẩm nghệ thuật tôn giáo vào loại đẹp và hiếm thấy trong bộ sưu tập
tượng tròn cổ trong văn hóa Óc Eo. Tượng được tạc theo tư thế đứng, có bốn tay, đầu
đội mũ, quấn sampot đơn giản xếp hình dẻ quạt, nét mặt thanh thoát, môi nở nụ cười
hiền hoà. Tượng mang đậm dấu ấn của phong cách nghệ thuật Phnom Da, nhưng có
thể đã được giản lược khung giá đỡ hoặc vẫn sử dụng nhưng đã gãy mất thanh đỡ, chỉ
còn dấu vết ngang đầu làm lộ rõ khối hình tròn.
Ngoài ra, nghệ thuật điêu khắc được thể hiện trên các tượng như Siva,
Brahma, Ganesa trong Hindu giáo cũng đã phản ánh một nền nghệ thuật đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật cổ đại, đồng thời, là sự kết tinh giữa nghệ thuật và tín
ngưỡng tôn giáo cùng với sự hoàn thiện về mặt mỹ thuật, đã để lại một dấu ấn sâu
sắc cho đến ngày nay.
130
Như vậy, có thể thấy rằng, nghệ thuật điêu khắc Hindu giáo trong văn hóa
Óc Eo đã đạt đến trình độ thẩm mỹ cao, họ đã tiếp thu các kỹ thuật chạm khắc của
Ấn Độ một cách sáng tạo, thông qua việc cải tiến những hoạ tiết vốn có và bổ sung
những yếu tố mới để tạo ra những sản phẩm phù hợp với trình độ cũng như “gu”
thẩm mỹ của người dân địa phương, góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng
nghệ thuật Óc Eo.
Nhìn chung, qua những pho tượng phát hiện ở vùng ĐBSCL, có thể nhận
thấy, nghệ thuật tạc tượng thời Óc Eo đã phát triển một cách mạnh mẽ, phản ánh
nhu cầu thẩm mỹ và tôn giáo không thể thiếu trong đời sống của cư dân nơi đây,
đặc biệt là các tượng từ thế kỷ VI - VII. Các tượng Phật giáo và Hindu giáo thường
được thể hiện theo xu hướng hiện thực. Những người thợ thủ công có thể lược bớt
những yếu tố không cần thiết, tạo ra những bức tượng sống động. Tượng Phật được
tạc trong tư thế nghiêm trang, vẻ mặt biểu hiện sự khoan dung, nhân hậu. Các vị
thần trong Hindu giáo thường có xu hướng Vishnu hoá tiêu chí tiếu tượng. Phong
cách nghệ thuật này dường như đã kết hợp với yếu tố văn hóa ngoại nhập, được các
nghệ nhân cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa bản địa, tạo thuận lợi cho
việc truyền bá tôn giáo vào đời sống của con người nơi đây. Điều này cho thấy sự
nảy nở và phát triển của một nền nghệ thuật đặc sắc, tư duy nghệ thuật độc đáo,
phong cách tạo hình riêng biệt của văn hóa Óc Eo.
Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật điêu khắc Hindu giáo và Phật
giáo ở đây là từ thế kỷ V - VII. Sự đa dạng về loại hình và hình thức thể hiện đã
phản ánh sự phức tạp và đan xen của các nguồn gốc ảnh hưởng, trong đó chủ yếu là
nghệ thuật Ấn Độ, đồng thời, vẫn thể hiện rõ xu hướng hiện thực - bản địa hoá các
hình tượng tôn giáo Ấn Độ. Về loại hình, không chỉ có tượng và biểu tượng thần
phật mà còn có nhiều hình tượng linh thú, thần thoại trong điện thờ Ấn Độ giáo và
Phật giáo. Đặc biệt, trong văn hóa Óc Eo có những pho tượng Phật bằng gỗ khá lớn
và độc đáo như bộ sưu tập tượng gỗ ở di tích Gò Thành. Truyền thống nghệ thuật
tượng cổ ở Nam Bộ còn được duy trì và phát triển trong giai đoạn sau, từ thế kỷ
VIII trở đi mà nhiều nhà nghiên cứu tạm gọi là “giai đoạn hậu Óc Eo”. Nghệ thuật
Phật giáo và Ấn Độ giáo đến vùng ĐBSCL thông qua giao lưu trao đổi các vật
131
phẩm chủ yếu bằng đường biển, chúng góp phần làm giàu thêm văn hóa bản địa và
là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát triển các trung
tâm tôn giáo - văn hóa - kinh tế - chính trị lớn ở vùng đất này trong những thế kỷ
đầu Công nguyên.
Ngoài ra, nét đặc sắc của nền nghệ thuật Óc Eo còn được thể hiện trên nhiều
loại hiện vật khác nhau như tạo hình trên các đồ dùng bằng gốm, các trụ đá… Trong
đó, nổi bật nhất là nghệ thuật trang trí trên đồ gốm. Trên một bình gốm ở được phát
hiện Cạnh Đền, có nặn thành hình đầu con ngỗng. Hay trên mảnh gốm ở Nền Chùa,
Kiên Giang có đắp nổi hình một đôi nam nữ đang ngồi chơi đàn [PL2.4, h.9, tr.209]
trên nền chấm tròn đều nhau, tạo nên bố cục hợp lý, đẹp mắt.
Như vậy, có thể thấy, đặc điểm chung của nghệ thuật Óc Eo là kết hợp
truyền thống văn hóa bản địa của vùng Đông Nam Á với những yếu tố văn hóa mới
du nhập, tạo nên một nền nghệ thuật đặc sắc của văn hóa Óc Eo. Những nét đặc sắc
trong tư duy nghệ thuật của cư dân cổ ĐBSCL đã phản ánh nhu cầu thẩm mỹ không
thể thiếu đối với con người và nhu cầu diễn đạt tư tưởng tôn giáo và tư tưởng đạo
đức cộng đồng của cư dân Óc Eo, thể hiện trên hàng trăm di tích và hàng ngàn di
vật khảo cổ được phát hiện cho tới nay.
Âm nhạc, múa hát:
Ngay từ những buổi đầu hình thành nhà nước sơ khai, văn hóa Ấn Độ đã du
nhập, ảnh hưởng một cách sâu sắc đến đời sống của cư dân Óc Eo. Nó đã đóng một
vai trò cực kỳ quan trọng, và có những ảnh hưởng sâu đậm trong tâm thức mỗi
người dân nơi đây. Các tăng ni Phật giáo cùng với những giáo sĩ Bàlamôn đã mang
theo những phong tục tập quán, tiếng nói, cả những điệu múa, các hình thức kịch
bản biểu diễn, các nhạc cụ và một hệ nguyên lý thẩm mỹ được định hình trong đất
nước Ấn Độ. Những tư tưởng đó được các nhà vua hợp thức hoá thành công cụ để
trị vì vương quốc của mình. Nhà vua được đồng nhất với các vị thần trong thần điện
Ấn Độ giáo, và được thờ dưới hình thức là một pho tượng hoặc là biểu tượng được
đặt trong các ngôi đền của vương quốc.
Múa là loại hình nghệ thuật rất được coi trọng trong xã hội Óc Eo, nó xuất
hiện từ rất sớm trên mảnh đất mang đậm chất Ấn giáo này. Điều này được thể hiện
132
trên tấm mi cửa phát hiện ở Gò Tháp (Đồng Tháp) [PL2.5, h.12, tr.212], với hình
ảnh một người đang nhảy múa, đây có thể là hình ảnh của các vị thần. Tương truyền
rằng, điệu múa đầu tiên là do thần Siva thực hiện. Đó là nhịp điệu hình thành, sáng
tạo ra thế giới. Thế giới được tạo ra từ chính ngọn lửa sinh ra từ bàn tay của thần
Siva trong khi múa, và cũng chính ngọn lửa này đã huỷ diệt thế giới. Từ điệu múa
này mà Siva được mệnh danh là thần sáng tạo và thần huỷ diệt. Vì vậy, trong các
buổi lễ trọng đại của triều đình, hay các nghi lễ thờ cúng không thể thiếu những
điệu múa. Nó chính là lễ vật để dâng lên các vị thần linh, là phương tiện hữu hiệu để
giao cảm với thần linh [135, tr.83].
Trong một số bia kí (K389, K24, K51, K129, K137, K155…) có ghi tên của
nhạc cụ, nhạc công, vũ nữ đã cho thấy sự xuất hiện của môn nghệ thuật ca múa
trong xã hội Óc Eo. Đặc biệt, trong văn bia K555 tại Angkor Borei, Tà Keo người ta
thấy trong các lễ vật dâng lên các vị thần linh có một danh sách những vũ nữ ca
múa giỏi cùng những nhạc cụ. Danh sách này gồm: 6 vũ nữ, 11 ca sĩ, 2 nhạc công
chơi đàn kanjan, 1 người chơi đàn vina và 1 chơi đàn lalv [2, tr.157-164]. Điều đó
cho thấy, nghề ca múa trong xã hội Óc Eo rất được xem trọng, được coi là điệu múa
của thần linh, điệu múa sáng tạo thế giới, điều này khác với tư tưởng của Trung
Hoa, xem nghề ca múa là “xướng ca vô loài”.
Theo tài liệu khảo cổ học, trong xã hội Óc Eo đã xuất hiện nhiều loại nhạc cụ
khác nhau. Tại ấp Nhơn Thành, xã Nhơn Nghĩa, huyện Châu Thành A, Cần Thơ các
nhà khảo cổ học phát hiện một chiếc kèn nhỏ [PL2.12, h.2, tr.229], hiện đang được
trưng bày tại BTCT. Có thể đây là một loại đồ chơi của trẻ em (cũng có ý kiến cho
rằng, đây là chiếc hoa tai của cư dân Óc Eo). Chiếc kèn có hình dáng như chiếc
saxophon ngày nay.
Trên lá vàng tìm thấy trong mộ ở Đá Nổi có chạm hình một chiếc đàn vina
có hình chữ nhật với nhiều đường vạch ngang, đầu dài và hẹp giống hình cái lược bí
có cán. Trong Hindu giáo, đàn vina (cithare) là biểu trưng của nữ thần Sarasvati, vợ
thần Brahma, đồng thời, cũng là biểu tượng của Kinnara. Nữ thần Sarasvati là thần
hùng biện, âm nhạc và khoa học. Các loại nhạc cụ như xập xõa, lục lạc bằng đồng
cũng được tìm thấy trong di tích Óc Eo, Ba Thê. Như vậy cho thấy, thời kỳ này, âm
133
nhạc có thể đã rất phát triển. Có thể âm nhạc trở thành một môn nghệ thuật đặc biệt,
dành cho giới quý tộc và để dâng lên các vị thần linh trong những lúc tế lễ.
Ngoài ra, loại hình nghệ thuật này còn được dùng trong các buổi tiếp đãi sứ
đoàn của các nước. Điều này đã được thư tịch cổ Trung Hoa ghi chép một cách rõ
ràng, cụ thể: Tại xứ Phù Nam đã có đào kép. Họ diễn xướng rất hay khiến cho nhiều
người trong sứ đoàn Túc Thận (Thời Tấn - Trung Quốc) đã mượn y phục của họ
(Tống Thư). Một số nước chư hầu của Phù Nam cũng đã có những đoàn ca múa
nhạc được nuôi dưỡng trong cung đình. Vào một dịp đón sứ thần Trung Hoa là
Thường Tuấn, vua nước Xích Thổ đã sai 100 người thổi tù và, đánh trống, tấu nhạc
Thiên Trúc mừng khách và còn sai dàn nhạc nữ tấu nhạc từng hồi để chiêu đãi (Tuỳ
Thư). Trong nước Bàu Bàn có các loại nhạc khí như tỳ bà, sáo ngang, xập xõa bằng
đồng, trống sắt (Đường Thư) [2, tr.157].
Có thể thấy, loại hình nghệ thuật ca múa này đã rất phát triển trong xã hội Óc
Eo. Nó có thể coi là môn “nghệ thuật xa xỉ”, chỉ phục vụ cho giới quý tộc, thờ cúng
thần linh và dùng trong việc tiếp đãi khách trong cung đình. Loại hình nghệ thuật
này có thể nói đã đạt đến đỉnh cao của các loại hình nghệ thuật. Họ biết tổ chức các
đoàn lên đến cả trăm người, có sự phân công chuyên môn như: có những người
chuyên hát, múa hoặc đánh đàn. Họ biết hoá trang và có những bộ trang phục riêng
dành cho hoạt động biểu diễn.
3.3. Phong tục, tập quán
Phong tục, tập quán là những hoạt động sống, liên quan đến vòng đời của
con người, như phong tục về sinh đẻ, cưới xin, ma chay… Tuy nhiên, với nguồn tư
liệu hiện có rất khó có thể phác thảo hết được những phong tục tập quán của cư dân
Óc Eo ở miền tây Nam Bộ.
Tục lệ ma chay là phong tục duy nhất để lại dấu vết rõ nét trong hệ thống
những phong tục tập quán của cư dân Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ. Nó thể hiện thái
độ ứng xử của con người với con người, giữa cõi sống và cõi chết. Mỗi dân tộc có
một quan niệm, một hình dung riêng về cái chết. Tuỳ vào từng quan niệm mà họ có
những tục lệ, cách ứng xử với người chết khác nhau, từ đó cách thức mai táng cũng
khác nhau.
134
Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, ngay từ thời nguyên thuỷ, cư
dân Đông Nam Á đều tin rằng, mỗi người sinh ra và mất đi ra đều có linh hồn.
“Hồn” có quan hệ mật thiết đối với mỗi con người. Linh hồn là thứ tồn tại vĩnh
cửu. Khi nó cư trú trong thể xác con người thì nó chiếm hữu, điều khiển mọi suy
nghĩ và hành động của người đó. Nếu hồn thoát khỏi xác thì con người sẽ chết.
Nhưng chết không có nghĩa là hết. Người chết có thể “về với tổ tiên, ông bà nơi
chín suối. Do có hồn nên người chết vẫn có thể thường xuyên đi về phù hộ độ trì
cho con cháu ở dương gian” [12, tr.201]. Quan niệm này chính là cơ sở ra đời
những phong tục ma chay trong đời sống cư dân Đông Nam Á thời cổ đại.
Vương quốc Phù Nam nằm trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á, đối với cư
dân nơi đây, tục lệ ma chay rất quan trọng trong đời sống của họ. Theo Lương thư,
“tục chôn cất người chết ở Phù Nam có 4 cách: thuỷ táng (thả thi thể xuống sông),
hoả táng (thiêu xác), địa táng (chôn thi hài), điểu táng (để thi thể ngoài trời cho
chim rỉa xác)” [140, tr.332]. Tuy nhiên, dấu tích rõ ràng về phong tục này qua các
cuộc khai quật có thể thấy, cư dân Óc Eo có hai hình thức mai táng chủ yếu: hoả
táng và địa táng, trong đó hoả táng để lại nhiều dấu vết rõ ràng hơn.
Hoả táng: theo quan niệm của những dân tộc chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo,
cái chết chính là nơi nương náu cuối cùng, là chốn vĩnh hằng của con người, mà
thân xác chỉ còn được giữ lại với tư cách tượng trưng bằng một nhúm than tro. Phù
Nam là một vương quốc chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Ấn Độ giáo, trong đó, tục hoả
táng để lại nhiều dấu vết rõ nét nhất. Tục hoả táng được coi là hình thức mai táng
phổ biến trong cư dân Óc Eo. Nó thường được tổ chức theo nghi thức của những
người theo Bàlamôn giáo, Phật giáo. Khi người thân trong gia đình, dòng họ mất,
họ thường đưa lên giàn hoả thiêu chất củi để đốt. Sau khi thân xác cháy thành tro,
những người trong gia đình có thể cho than tro vào một chiếc chum hay tháp, chôn
trong mộ có hộc vuông được xây kiên cố cùng một số đồ tuỳ táng. Những ngôi mộ
này thường được đắp bằng nhiều lớp đất sét, cát, gạch, đá... trên một gò đất cao,
được xử lý đất đắp rất phức tạp: có lớp bằng phẳng, có lớp xéo, có lớp chồng chéo...
Ở trung tâm của mỗi ngôi mộ có khối trụ vuông bằng gạch, gỗ hay đá (ở Óc Eo),
bên trong lấp đầy cát trắng, xung quanh thường được gia cố bằng một khối lượng
135
lớn gồm hàng tấn đá tảng hay gạch vỡ và cát có chất kết dính [64, tr.313] như khu
mộ NC82BCX-A nằm trong khu di tích Gò Tháp (Đồng Tháp) hay một số mộ táng
ở Óc Eo (An Giang); Đá Nổi (An Giang); Nền Chùa, Cạnh Đền, Kè Một (Kiêng
Giang); Gò Thành, Nhơn Thành (Tiền Giang)...
Như vậy, có thể thấy rằng, trong các di tích Óc Eo, những ngôi mộ táng được
xây dựng một cách đồ sộ, kiên cố hơn những ngôi nhà ở của người sống. Họ xây
các mộ huyệt kiên cố với mong muốn mộ được trường tồn với thời gian, cũng đồng
nghĩa với mong muốn linh hồn được bảo vệ, trường tồn.
Địa táng không được phát hiện nhiều như hoả táng, tuy nhiên, đây cũng là
một hình thức mai táng hết sức quan trọng, thể hiện một cách nhìn, một phong tục
chôn cất đã từng tồn tại trong đời sống của cư dân Óc Eo ở miền TNB. Có thể do
cách thức chôn cất của địa táng (mộ đất - người chết được đặt trong huyệt, thường
không có áo quan, chỉ có một số đồ tuỳ táng), do vậy, khi các nhà khảo cổ khai quật
loại mộ này thường không tìm thấy xương cốt, hoặc chỉ còn vài mảnh xương và đồ
tuỳ táng nên rất khó xác định. Tuy nhiên, phát hiện gần đây của các nhà khảo cổ
học trong lớp sinh thổ hố 02OE.H2 ở Gò Tư Trâm “một ngôi huyệt mộ hình chữ
nhật, dưới đáy còn in dấu chiếu cói và chất hữu cơ màu trắng” [17, tr.20], đã góp
thêm tư liệu cho hình thức mai táng này. Như vậy, ở ngôi mộ này, không tìm thấy
xương, nhưng những chất hữu cơ màu trắng trong mộ có thể là xương cốt đã bị
phân huỷ. Đặc biệt, trước khi chôn cất thi thể đã được quấn bằng chiếu cói. Điều
này cho thấy, trước khi chôn cất người chết cư dân Óc Eo đã sử dụng chiếu (hoặc
một loại giống chiếu) để quấn thi thể người chết lại.
Tại chân Gò Minh Sư (Gò Tháp, Đồng Tháp), trong đợt khai quật năm 2003,
các nhà khảo cổ học phát hiện được 21 ngôi mộ. Trong đó, có một số ngôi mộ được
xác định chôn mộ huyệt đất, bởi sự xuất lộ các mảnh xương sọ, xương chi. Các mộ
được chôn quay đầu về hướng bắc, đông và đông bắc. Hình thức mai táng này (địa
táng) cũng được thấy ở giai đoạn sớm, tại An Sơn, các nhà khảo cổ học đã khai quật
3 ngôi mộ còn nguyên di cốt, trong đó có hai ngôi mộ được chôn quay đầu về
hướng nam, nằm ngửa, chân tay duỗi thẳng [140, tr.330]. Địa táng là hình thức mai
táng rất phổ biến trong đời sống của cư dân Đông Nam Á cổ xưa. Có thể nó mang
136
nhiều ý nghĩa riêng, khó giải thích hết được. Song cũng có thể, trong đó có quan
niệm con người được sinh ra từ cát bụi, khi chết lại trở về cát bụi của người xưa.
Một hình thức mai táng rất đặc biệt, đó là tục chôn cất người chết nối tiếp
nhau. Hình thức này được các nhà khảo cổ học phát hiện ở Rạch Rừng với 8 trong 3
di cốt nguyên vẹn được chôn trong tư thế đặt nằm sấp, người hơi gập xuống, hai tay
để giữa hai đùi và ba người được chôn nối tiếp nhau trên một đường thẳng, đầu
người sau tiếp theo chân người trước, quay đầu về hướng đông. Trên tay chân đeo
vòng bằng đá, đầu cũng được đeo nhiều đồ trang sức và những hạt chuỗi bằng
xương là trang sức trên áo [140, tr.330]. Hình thức mai táng này, cho đến nay, mới
chỉ phát hiện duy nhất ở Rạch Rừng. Có thể đây là một hình thức cúng tế chứ không
phải là một tập tục chôn cất của cư dân Óc Eo.
Với niềm tin về một thế giới bên kia đang tồn tại, chờ đợi con người từ thế
giới bên này đến cư ngụ, trong phong tục chôn cất người chết của cư dân Óc Eo, đồ
tuỳ táng là một trong những đồ vật quan trọng, không thể thiếu khi chôn cất người
thân của mình. Những đồ tuỳ táng là sự chuẩn bị cho tương lai để sử dụng ở thế giới
bên kia. Vì vậy, dù người giàu hay người nghèo đều được chôn theo các vật dụng
cần thiết cho cuộc sống. Chẳng hạn, họ tin rằng, khi sang thế giới bên kia vẫn phải
lao động sản xuất, tạo ra của cải nuôi bản thân (họ chôn theo các loại dụng cụ lao
động, sản xuất...); vẫn phải ăn uống (chén bát, nồi, cà ràng...); vẫn cần phải làm đẹp
(đồ trang sức); hay họ vẫn cần có những vị thần linh phù hộ khi bước sang cuộc
sống mới (những lá vàng có in hình hoặc liên quan đến các vị thần linh như Vishnu,
Siva...). Điều đặc biệt, trong hầu hết những ngôi mộ của cư dân Óc Eo đều có
những viên sỏi được chôn theo. Có thể, nó có một ý nghĩa tâm linh nào đó rất quan
trọng đối với họ mà chúng ta cần thời gian nghiên cứu tiếp.
Như vậy, qua đó cho thấy, nhân sinh quan, thế giới quan của cư dân Óc Eo ở
miền TNB không khác với quan niệm của những cư dân khác ở vùng Đông Nam Á
cổ đại. Họ cho rằng, khi chết là bước sang một thế giới khác, cũng giống như thế
giới họ đang ở, chứ không phải sẽ trở thành những vị thần linh có quyền năng vô
biên để phù hộ những người đang sống. Tuy nhiên, những đồ vật chôn theo này
thường được đập nhỏ, rải đều trong mộ.
137
Có thể dựa vào những đồ tuỳ táng được chôn trong các ngôi mộ để phân biệt
mộ của những người thuộc tầng lớp trên, tầng lớp tăng lữ với mộ của những người
bình dân, nô lệ. Qua phân tích những di vật trong các ngôi mộ táng, các nhà khảo cổ
phát hiện, có một số ít ngôi mộ chôn theo số lượng lớn đồ vật có giá trị, cùng với
không ít sản phẩm tiêu biểu cho trình độ kỹ thuật cao được du nhập từ nước ngoài
thời bấy giờ. Hay mộ táng ở Gò Thành (Tiền Giang) cũng cho thấy, hài cốt của
người chết chỉ còn lại dưới dạng than tro với những di vật tìm thấy trong các ngôi
mộ, chắc hẳn đây là táng thức của tầng lớp đẳng cấp tăng lữ, hoặc những người giàu
có, là tín đồ của đạo Bàlamôn và đạo Phật... Như vậy, có thể thấy, qua các ngôi mộ
không chỉ hiểu được những phong tục tập quán, mà còn có thể nhận biết phần nào
thân thế, địa vị xã hội của chủ nhân, sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc trong xã hội
của cư dân Óc Eo ở miền TNB.
Đặc biệt, trong văn hóa Óc Eo không có những nghĩa địa tách rời, riêng biệt,
các ngôi mộ được chôn rải rác trong các khu cư trú. Điều này được thấy rõ nhất ở di
tích Gò Tháp, Gò Minh Sư với các ngôi mộ được tập trung thành một khu vực liền
kề nơi cư trú.
Phong tục chôn cất của cư dân Óc Eo rất phong phú, đa dạng. Có thể họ còn
có nhiều nghi thức, nghi lễ cho người chết. Nhưng do thời gian, những phong tục,
nghi thức đó đã bị vùi lấp cùng chủ nhân của nó, khó có thể làm sáng tỏ được. Tuy
nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, cư dân Óc Eo đã có những tập tục, những
quan niệm nhất định trong phong tục chôn cất người chết. Cái chết đối với họ là
một sự giải thoát, đưa họ về với thế giới vĩnh hằng.
Phong tục đeo nhiều đồ trang sức của cư dân Óc Eo được thể hiện rất rõ qua
các bức tượng và số lượng lớn đồ trang sức được phát hiện trong các di tích Óc Eo
đã được chứng minh ở trên.
Ngoài ra, còn một số phong tục, tập quán của cư dân Óc Eo đã được các sứ
giả Trung Hoa mô tả lại như: khi thiết triều, nhà vua ngồi nghiêng một bên, chân
phải co lên, chân trái buông thõng xuống đất một cách thoải mái, còn trong cuộc
sống thì người Phù Nam rất đơn giản, nhưng họ không trộm cắp hay [1, tr.367]. Tuy
nhiên, những phong tục này khó có thể chứng minh bằng tư liệu khảo cổ học.
138
3.4. Chữ viết
Chữ viết là hệ thống ký hiệu, là phương tiện để ghi lại thông tin. Trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết có một vai trò rất to lớn, nó trở thành
công cụ duy nhất để con người có thể truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm sản
xuất và đấu tranh. Đây là dấu hiệu của một cộng đồng cư dân đã bước vào thời kỳ
lịch sử.
Vùng châu thổ sông Cửu Long được xem là nơi hội tụ của nhiều nền văn
hóa; nơi gặp gỡ, tiếp xúc của nhiều ngôn ngữ, nhiều tộc người, đặc biệt là nền văn
minh Ấn Độ. Chữ viết xuất hiện trên vùng đất này từ những năm đầu Công nguyên,
là kiểu chữ Brahmi của vua Ấn Độ. Những thương nhân và thuỷ thủ đã đưa các nhà
sư và những vị Bàlamôn từ Ấn Độ đi cùng để giúp họ một số nghi thức cầu nguyện,
hoặc để những nhà truyền giáo Ấn Độ đi cùng thuyền buôn cập bến dừng chân,
truyền những tôn giáo mới vào vùng đất này. Những người này đã mang theo chữ
viết Ấn Độ. Khi người dân bản xứ chấp nhận tôn giáo mới cũng là lúc họ chấp nhận
loại chữ viết này. Đó là dạng chữ Brahmi, theo ngôn ngữ Sanskrit, có niên đại sớm
nhất được xác định trên những cổ vật Óc Eo từ thế kỷ I và có sự tiếp nhận liên tục
đến thế kỷ VI SCN. Mẫu tự Brahmi gồm có 6 nguyên âm và 30 phụ âm [9, tr.39].
Cư dân Óc Eo những thế kỷ đầu Công nguyên đã tiếp nhận chữ viết từ Ấn
Độ và dần xây dựng nên một hệ thống chữ viết để ghi lại tiếng nói của mình. Chữ
Brahmi với ngôn ngữ Sanskrit là ngôn ngữ chính thức trong vương quốc Phù Nam.
Cư dân nơi đây sử dụng ngôn ngữ Sanskrit để chạm khắc những chỉ dụ trên bia đá,
trên khung cửa của những ngôi đền, trên kim khí bằng sắt, đồng, vàng, hoặc trên
những miếng đất nung…
Bia ký là một trong những di vật quan trọng nhất ghi lại những phong tục tập
quán, đặc trưng văn hóa của cư dân cổ cũng như lịch sử của vùng đất. Rất nhiều tấm
bia ký ở thời kỳ Phù Nam được tìm thấy khắp các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ Việt
Nam, Campuchia, Lào… nhưng chúng ta có thể phân làm 6 loại chữ viết [9, tr.36]:
- Bia ký có nét chữ Brahmi cổ nhất được tìm thấy ở Võ Cạnh (Nha Trang).
- Bia ký sử dụng những nét chữ đầu hộp mang tên nhà vua Bhadravarman.
Loại bia này xuất phát từ chữ viết bia ký Vātātaka của Ấn Độ.
139
- Chữ viết trên bia ký Phú Hữu và bia ký Long An tương tự chữ viết bia ký
Pallava.
- Những chữ viết trên bia ký Đồng Tháp Mười và bia ký Ta Prohm cùng
loại với chữ viết bia ký Pallava. Nó được chạm khắc rất tinh xảo.
- Chữ viết hình tròn được người ta tìm thấy ở những bia ký trong thời kỳ
đầu Công nguyên. Nét chữ chạm khắc rất thô.
- Chữ viết có hình thon dài, giống với chữ viết Amarāratī như bia ký Phu
Lokhon.
Qua đó cho thấy, những chữ viết trên bia ký Phù Nam đều có mối liên hệ mật
thiết với chữ viết Ấn Độ. Thời kỳ đầu chữ khắc trên đá còn thô, nhưng từ thế kỷ IV
trở đi, các chữ viết có phần sắc sảo hơn. Đặc biệt, từ thế kỷ VII SCN trở về sau, bia
ký ở vùng này có bước phát triển mạnh mẽ, có nhiều nét chữ khác với nguồn gốc
ban đầu [9, tr.37]. Nội dung trên các tấm bia ký ở vùng miền TNB đa số đề cập đến
những nội dung tôn giáo, lễ vật dâng cúng hoặc tán dương các vị vua, nhân vật quan
trọng, người đứng đầu cai trị vùng đất hay những người chạm khắc. Duy chỉ có bia
ký nằm ở xã Mỹ Hưng, huyện Bình Phú, tỉnh Long An là cột mốc chỉ rõ địa phận
“đây là biên giới của Rajaputra Kompon Do” [9, tr.262].
Ngoài ra, dấu tích chữ viết của cư dân Óc Eo còn được thể hiện trên những
miếng vàng được tìm thấy trong các ngôi mộ táng. Theo thống kê không đầy đủ, có
khoảng 35 lá vàng được khắc chữ cổ [17, tr.382]. Trong đó, di tích được phát hiện
nhiều nhất là di tích Đá Nổi với 31 lá vàng, Gò Tháp có 3 lá, Gò Xoài có 1 lá. Hầu
hết những lá vàng này đều được khắc dạng chữ Brahmi, theo ngôn ngữ Sanskrit,
trong đó có 5 lá vàng được khắc chữ riêng biệt.
Tại di tích Óc Eo (Ba Thê), các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy 1 chiếc nhẫn
mặt ngọc có khắc chữ Mã Lai, 12 mảnh thiếc có khắc chữ Brahmi [110, tr.39].
Những mảnh thiếc này có thể dùng để làm đồ trang sức như: nhẫn, dây chuyền,
vòng tay… Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, những di vật này được các thương
nhân mang đến. Đó chính là sự giao lưu, mua bán với các nước bên ngoài chứ
không phải là sản phẩm bản địa, không phải do cư dân Óc Eo chạm khắc. Chính sự
giao lưu buôn bán này đã tạo điều kiện cho chữ viết ở vùng đất này ngày một phát
140
triển, có sự tiếp xúc với các ngôn ngữ khác nhau, tạo nên xu hướng biến đổi, có
nhiều nét khác biệt so với chữ của Ấn Độ.
Như vậy, có thể thấy rằng, chữ viết có mặt trên vùng ĐBSCL từ rất sớm. Tuy
nhiên, kiểu chữ viết này có thể không được phổ biến trong đời sống của cư dân Óc
Eo mà chỉ sử dụng cho tầng lớp trên, tầng lớp tăng lữ. Điều này được thể hiện qua
nội dung của những chữ khắc trên vàng cũng như trên các văn bia tìm thấy trong
các di tích thuộc văn hóa Óc Eo ở miền TNB. Các bản văn minh này thường “liên
quan đến việc sinh hoạt cung đình, đến tôn giáo, đẳng cấp xã hội, mang màu sắc
văn hóa Ấn Độ, không tiêu biểu cho tầng lớp nhân dân lao động” [8, tr.47-51].
3.5. Giải trí
Vương quốc Phù Nam được đánh giá là một vương quốc phát triển mạnh mẽ
thời bấy giờ. Cư dân phồn thịnh, sung túc, các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp đều phát triển ở mức cao. Nhu cầu của người dân lúc này không chỉ
là cái ăn cái, mặc mà còn xuất hiện nhiều trò chơi, giải trí khác nhau.
Chơi chọi gà, đấu lợn có thể đã rất phổ biến trong xã hội Óc Eo. Tuy nhiên,
những trò giải trí này rất khó chứng minh qua các tài liệu khảo cổ, nó chỉ được nhắc
đến trong các tài liệu của thư tịch cổ Trung Hoa. Theo Nam Tề Thư, người Óc Eo
rất thích chơi chọi gà, đấu lợn [120, tr.271]. Họ nuôi rất nhiều lợn, gà để chọn
những con khoẻ mạnh nhất đem thi đấu. Tuy thư tịch cổ Trung Hoa không miêu tả
kỹ hơn về các trận đấu, nhưng chắc chắn sẽ thu hút được rất nhiều người dân đến
xem, có thể sẽ có những phần thưởng nhất định cho những con thắng.
Trong đợt khai quật gần đây (năm 2013) tại di tích Gò Tháp, các nhà khảo cổ
học lần đầu tiên tìm thấy những thông tin về hoạt động giải trí. Các trò chơi tưởng
chừng chỉ xuất hiện vào thời hiện đại, lại có mặt trong tầng văn hóa của cư dân Óc
Eo. Đó là sự xuất hiện các con cờ Ấn Độ và xúc xắc hay còn gọi là xí ngầu (tên gọi
ngày nay) [PL2.13, h.2, tr.235]. Có thể nói, đây là những con cờ và xúc xắc cổ nhất
được tìm thấy cho tới nay, cũng là lần đầu tiên tìm thấy trong văn hóa Óc Eo. Con
xúc xắc được làm bằng đất nung với các nút khác nhau ở sáu mặt. Sự phát hiện này
đã làm phong phú thêm những hiểu biết về đời sống tinh thần của cư dân nơi đây.
Tuy nhiên, trò chơi này có phổ biến hay không, có lẽ là một câu hỏi khó mà giải
141
thích được. Đến nay, các nhà khảo cổ học mới chỉ phát hiện duy nhất một con xúc
xắc và một quân cờ trong hố khai quật ở di tích Gò Tháp. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
có thể khẳng định, chơi cờ hay chơi xúc xắc cũng là một hình thức giải trí đã xuất
hiện trong đời sống của cư dân Óc Eo. Nó được chơi như thế nào và phổ biến
không, hay chỉ là một vật ngoại nhập, do những người nước ngoài mang đến đang là
những nghi vấn cần có thời gian nghiên cứu.
Ngoài ra, phải kể đến việc chơi các loại nhạc cụ đã được cư dân Óc Eo yêu
thích, đặc biệt là tầng lớp trên. Âm nhạc là một môn nghệ thuật cũng là một hình
thức giải trí của tầng lớp thượng lưu có trong xã hội. Chỉ khi xã hội phát triển đến
một trình độ nhất định thì loại hình giải trí này mới ra đời, nó được xem là một loại
hình nghệ thuật đặc sắc trong đời sống của cư dân nơi đây. Vì vậy, hát múa cũng
được xem là một loại hình giải trí, nhưng chủ yếu chỉ dành cho các tầng lớp quý tộc,
sử dụng trong triều đình và để dâng lên các vị thần linh.
Trẻ con cũng có những trò chơi riêng của mình như chơi “đồ hàng”. Điều
này được thể hiện qua việc phát hiện trong các di tích khảo cổ học một số chén bát
rất nhỏ. Theo các nhà nghiên cứu thì đây được coi là một trong những đồ chơi của
trẻ con thời bấy giờ.
Trên đây là những trò chơi, trò giải trí đã xuất hiện, có thể rất phổ biến trong
đời sống của cư dân Óc Eo những thế kỷ đầu Công nguyên. Nhưng chắc chắn rằng,
đây chưa phải là tất cả những trò giải trí tồn tại trong đời sống xã hội của cư dân Óc
Eo. Có thể còn nhiều trò giải trí khác, nhưng do sự huỷ hoại của thời gian, cho nên
những trò chơi, trò giải trí không được thể hiện qua các hiện vật.
Như vậy, có thể thấy văn hóa Óc Eo là một phức hệ văn hóa đa dạng, vốn sản
sinh từ yếu tố bản địa, với nền văn minh sông nước, kết hợp với văn hóa ngoại lai,
trong đó chủ yếu ảnh hưởng bởi văn minh Ấn Độ. Vì vậy, trong đời sống tinh thần
của cư dân Óc Eo đã có sẵn những tín ngưỡng bản địa đã giao lưu mật thiết với
những tôn giáo mới du nhập từ Ấn Độ. Hệ quả là hầu như không có hiện tượng văn
hóa nào còn nguyên tính chất bản địa, mà luôn có bóng dáng của những nền văn
hóa ngoại lai, đã hội tụ, tạo nên sự phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của
cư dân nơi đây.
142
Tiểu kết
Do lịch sử văn hóa Óc Eo đã lùi sâu vào quá khứ, những thăng trầm của nền
văn hóa này chỉ lưu lại qua những dấu tích khảo cổ học. Vì vậy những giải mã văn
hóa phi vật thể của cư dân Óc Eo cũng chỉ mới bước đầu phác thảo sơ lược. Tuy
nhiên, bằng những cố gắng, luận án dựa vào các tư liệu khảo cổ học để mạnh dạn
đưa ra những giả thuyết mang đặc trưng cơ bản nhất về đời sống tinh thần của cư
dân nơi đây.
Đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo những thế kỷ đầu Công nguyên rất
phong phú và đa dạng. Thời kỳ này, người dân nơi đây không còn chỉ lo cái ăn, cái
mặc mà đã bắt đầu có nhu cầu về thưởng thức cái đẹp. Các loại hình nghệ thuật nơi
đây đã rất phát triển, nổi bật nhất là nghệ thuật trang trí trên đồ trang sức, chạm
khắc trên vàng, tạc tượng… Họ đã tiếp nhận một cách linh hoạt các kỹ thuật cũng
như tinh thần nghệ thuật Ấn Độ và kết hợp với nghệ thuật bản địa, để tạo ra những
sản phẩm mang đặc trưng riêng của cư dân Óc Eo. Ngoài ra, các trò chơi như đá gà,
đấu lợn cũng được cư dân Óc Eo thường xuyên tổ chức để giải trí. Đặc biệt, thời kỳ
này, chữ viết đã trở thành công cụ để con người truyền đạt những kinh nghiệm sản
xuất và đấu tranh.
Trong đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo, ngoài thờ Phật giáo và Hindu
giáo đã rất phát triển, các tín ngưỡng bản địa vẫn được cư dân lưu giữ, cùng tồn tại
song song với các tôn giáo ngoại nhập. Những tượng thờ Phật giáo và Hindu được
phát hiện rộng khắp ở vùng ĐBSCL cho phép chúng ta nghĩ rằng, đại bộ phận cư
dân của nền văn hóa này đã theo đạo Bàlamôn và đạo Phật, “trong một chừng mực
nào đó, có thể coi tôn giáo như là một lối sống trong việc thờ phụng các vị thần
linh, các đức Phật và nghi lễ giữ một vai trò rất quan trọng” [14, tr.134-135]. Nhà
nước đều trọng dụng cả hai tôn giáo này và coi đó như là công cụ duy trì sự tồn tại
và phát triển của đất nước. Ngoài ra, có thể đạo Phật còn là một chiến lược ngoại
giao mà vua Phù Nam đã sử dụng trong việc bang giao với Trung Quốc. Đó chính là
những nét đặc thù của tôn giáo và cũng chính là thái độ ứng xử rất linh hoạt của cư
dân Óc Eo trước những tôn giáo mới và tín ngưỡng bản địa. Nó thể hiện tính dung
hợp, dễ tiếp nhận một cách rõ nét.
143
Bên cạnh đó, văn hóa ứng xử của cư dân Óc Eo đối với người chết được thể
hiện một cách rõ nét qua các hiện vật thu được trong các ngôi mộ táng. Cư dân Óc
Eo thường chôn theo rất nhiều đồ tuỳ táng, chủ yếu là những lá vàng có khắc hình
bò, rùa, rắn, cá, ốc, đinh ba…; những viên sỏi, đồ trang sức và các loại đồ gia dụng
khác. Những ngôi mộ đã được khai quật chủ yếu được chôn theo tục hoả táng, một
số mộ còn lại chôn theo tục địa táng, không thấy dấu vết của điểu táng và thuỷ táng
mà thư tịch cổ Trung Hoa từng nhắc đến. Bên trong mộ có nhiều hiện vật chôn theo
cho thấy, họ rất coi trọng cái chết.
Có thể nói, giao lưu, tiếp biến văn hoá chính là một trong những đặc trưng cơ
bản nhất trong đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo. Trong đó, sự tiếp nhận văn hóa
Ấn Độ để lại dấu ấn rõ nét nhất. Tuy nhiên, cư dân Óc Eo chỉ tiếp thu những yếu tố
đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần mình. Nó khiến cho văn hóa Óc
Eo ở TNB vừa tương đồng, lại vừa khác biệt với các nền văn hóa khác.
144
Chương 4
VĂN HÓA ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU
VĂN HÓA VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG
4.1. Tây Nam Bộ và mạng lưới thương mại trên biển giai đoạn thiên niên
kỷ I sau Công nguyên
Cùng với các khu vực khác trên đất nước Việt Nam, TNB nằm ở phía Nam
bán đảo Đông Dương, giữa Đông Nam Á và Đông Á; giữa lục địa và Thái Bình
Dương, được biển bao quanh từ hai phía. Đặc điểm kiến tạo địa chất và quá trình
biển tiến, biển thoái đã tạo nên nhiều vụng ven bờ và các đảo cho tàu thuyền neo
đậu và trú bão trên con đường hàng hải.
TNB còn được coi là ngã tư đường của sự giao lưu Đông Tây, mà trước hết
là sự giao lưu giữa hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Hoa; nằm trên con đường
biển nối liền Ấn Độ, Trung Quốc qua tới Trung Cận Đông. Đây là hai trung tâm văn
hóa của thế giới, có sự phát triển và ảnh hưởng sâu rộng đến các vùng lân cận. Ngay
từ thế kỷ I, “con đường mậu dịch hàng hải giữa đế quốc La Mã tại Châu Âu và
Trung Hoa đã được thiết lập. Thuỷ lộ xuyên qua hải phận Đông Nam Á, phát sinh
từ việc các thương nhân tại bờ biển phía đông Ấn Độ muốn tìm đến trực tiếp nguồn
cung cấp tơ lụa từ Trung Hoa” [152, tr.369]. Hải Cảng Óc Eo của vương quốc Phù
Nam là điểm dừng chân cho chặng đường buôn bán trên biển từ Ấn Độ đến Trung
Hoa và ngược lại [PL1.3, tr.191]. Tàu thuyền khởi hành từ các hải cảng gần cửa
sông Hằng Hà, chạy dọc theo bờ biển của vịnh Bengal cho đến khi gặp bán đảo Mã
Lai, từ đó trung chuyển qua eo đất Kra, rồi dọc theo bờ biển của vịnh Thái Lan cho
đến khi tới Phù Nam [152, tr.369]. Sau khi đến vùng TNB, họ dừng chân nơi đây
một thời gian để tiếp tế lương thực cũng như chờ cho thời tiết thuận lợi, rồi lên
chiếc thuyền khác để làm một cuộc du hành đến Trung Hoa. Mặc dù, băng qua bán
đảo Mã Lai tại eo đất Kra đòi hỏi việc bốc dỡ, vận tải trên đất liền nhưng so với
việc lái thuyền chạy qua bán đảo Mã Lai với eo biển nông, đầy bãi đá ngầm và xoáy
nước nguy hiểm, thì an toàn hơn nhiều.
145
Vùng TNB là xứ sở chịu ảnh hưởng gió mùa và chế độ dòng hải lưu. Gió
mùa tạo ra hai mùa: mùa mưa và mùa khô, với khả năng lợi dụng sức gió điều khiển
giao thông đường thuỷ bằng thuyền buồm, duy trì một hệ thống trao đổi từ Tây
Nam đến Đông Bắc (từ tháng 4 đến tháng 10) rồi từ Đông Bắc đến Tây Nam (vào
giữa tháng 10 đến tháng 4 sang năm), trong thời hạn một năm theo thường lệ. Chế
độ dòng hải lưu và chế độ gió định kỳ đã điều khiển việc giao thông đường thuỷ từ
miền duyên hải Châu Phi, nước Ả Rập, vịnh Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc giúp cho
các thương nhân thuận lợi trong việc trao đổi các loại hàng hoá. Cảng biển Óc Eo
của vương quốc Phù Nam là chỗ nghỉ giữa hai chặng đó. Chính nhờ vào yếu tố tự
nhiên này (chế độ các dòng hải lưu và chế độ gió định kỳ) mà vương quốc Phù Nam
trở thành một quốc gia có nền hải thương (buôn bán trên biển) phát triển rực rỡ lúc
bấy giờ [32, tr.250]. Buôn bán phát triển, các loại hàng hoá phong phú, đã làm thay
đổi bộ mặt của cả vương quốc, Phù Nam nhanh chóng trở thành cường quốc lớn
mạnh thống trị cả vùng Nam Đông Dương.
Bên cạnh đó, TNB là vùng đồng bằng châu thổ trẻ; có địa hình bằng phẳng
và thấp dưới 10m; là sản phẩm bồi lắng phù sa của hệ thống sông Mê Kông và
sông Sài Gòn từ khoảng 7.000 năm trở lại đây, tạo điều kiện thuận lợi cho các loại
cây trái phát triển, đặc biệt là cây lúa. Nguồn thực phẩm từ các loại động vật cũng
vô cùng phong phú. Nơi đây cũng là một vùng đồng bằng mới được hình thành do
mực nước biển rút vào thời kỳ 2000 năm cách ngày nay, rất thuận lợi cho cho việc
giao lưu trên con đường Đông - Tây. Đây chính là điểm dừng chân/ cảng biển an
toàn, nơi cung cấp lương thực, nước ngọt lý tưởng cho các chuyến buôn bán dài
ngày trên biển và là nơi có nguồn hàng lâm thổ sản phong phú để các thương nhân
lựa chọn.
Để thuận lợi cho việc luân chuyển hàng hoá giữa các vùng với nhau, cư dân
Óc Eo đã xây dựng một hệ thống kênh đào rất công phu, nối liền Angkor Borei
(Campuchia) với các di tích ở miền TNB. Họ có thể cho thuyền chạy sâu vào đất
liền theo các con kênh đào để giảm chi phí bốc dỡ hàng hoá khi phải lưu chuyển
trên cạn. Chính điều này giúp cho vương quốc Phù Nam trở thành một quốc gia có
nền thương nghiệp phát triển, có sự giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế
giới từ những thế kỷ đầu Công nguyên.
146
Như vậy, có thể thấy vùng TNB có vài trò rất quan trọng trong mạng lưới
thương mại trên biển những năm đầu Công nguyên. Tận dụng lợi thế về vị trí địa lý,
khí hậu và nguồn tài nguyên, cư dân Óc Eo đã có điều kiện để giao lưu, tiếp biến
những tinh hoa văn hóa của thế giới bên ngoài, đưa nền thương nghiệp phát triển rực
rỡ, làm cho đời sống vật chất và tinh thần người dân nơi đây phong phú, đa dạng hơn.
4.2. Văn hóa Óc Eo giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa khác
4.2.1. Giao lưu văn hóa với miền Trung và miền Bắc Việt Nam
Việt Nam có đường bờ biển dài với nhiều vụng, đảo ven bờ và các cửa sông,
thuận tiện cho việc giao thông trên biển. Ngay từ xa xưa, các nhóm cư dân bản địa
đã thường xuyên có các hoạt động giao lưu và trao đổi văn hóa bằng đường biển và
đường sông. Nhờ đó, họ tiếp nhận và chia sẻ các thành tựu văn hóa, góp phần hình
thành và phát triển nên những quốc gia và nền văn minh cổ trên đất nước Việt Nam.
Những dấu tích khảo cổ học rất phong phú và đa dạng đã phát hiện được từ nhiều di
tích ven biển, cũng như dọc theo các dòng sông vào sâu trong đất liền, cung cấp
nhiều chứng cứ quan trọng cho việc nghiên cứu mối quan hệ giao lưu giữa các quốc gia
cổ đại ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt Nam với các nước trong khu vực.
Các học giả cho rằng, từ 3.000 năm cách ngày nay, đã có những người đi
biển, lái buôn hoặc kiều dân lui tới và dần dần thiết lập các cơ sở ở vùng hải đảo và
đất liền Đông Nam Á [161, tr.10-118]. Tuy nhiên, mối quan hệ này chỉ thật sự phát
triển vào thời đại kim khí, đặc biệt vào giai đoạn muộn. Trong nhiều di tích khảo cổ
học quan trọng của thời kỳ này xuất lộ những di vật thể hiện các mối giao lưu văn
hóa rộng rãi giữa các vùng với nhau và với thế giới bên ngoài. Các di tích ở vùng
gần cửa sông, trên các cồn cát ven biển hay các đồng bằng nhỏ trước núi ven biển ở
thời kỳ này không chỉ là các địa điểm có tính chất dừng chân hay điểm trung
chuyển ven biển mà còn là những trung tâm lớn, thông thương với các vùng sâu
trong đất liền bằng các con sông và với nhiều vùng khác bằng các tuyến hải lộ.
Những thế kỷ trước SCN, trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại 3 nền văn minh
Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo (vào giai đoạn sớm - tiền Óc Eo). Đây đều là
những trung tâm có sự giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Sự xuất hiện kiểu mộ chum/vò trong các di tích Làng Cả, Làng Vạc, Đồng Mỏm,
147
Hoàng Lý… (Bắc Bộ); cũng như cá di tích Hậu Xá, An Bàng, Gò Mả Vôi, Tiên
Lãnh (Nam Trung Bộ); di tích Hàng Gòn, Dầu Giây, Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt…
(Đông Nam Bộ); ở di tích Trà Dôm, Bàu Cạn, Lung Leng (Tây Nguyên); di tích
Linh Sơn, Gò Tháp, Nhơn Thành (TNB) là những minh chứng thiết thực nhất cho
sự giao lưu giữa các nền văn hóa với nhau.
Một số loại hình di vật như hạt chuỗi đá quý, đá màu, thuỷ tinh, vàng, gương
đồng… có mặt trong cả ba nền văn minh Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo. Điều đó
cho thấy, mối quan hệ giao lưu giữa các vùng đã diễn ra một cách mạnh mẽ. Cư dân
các quốc gia cổ đại giao lưu, trao đổi, buôn bán với nhau trực tiếp theo con đường
ven biển, hoặc gián tiếp qua các hệ thống sông tới các di tích sâu hơn trong đất liền.
Những sản phẩm mang đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh (khuyên tai hai đầu thú), văn
hóa Hán (gương đồng, một số loại hình gốm), và các đồ trang sức ngoại nhập (hạt
chuỗi hình tròn hoặc hình quả nhót bằng đá mã não, serpentine, amethyst, cristal từ
Địa Trung Hải và Ấn Độ), được cư dân ở hai bên cửa sông Đồng Nai tiếp nhận và
có lẽ cũng là người trung gian chuyển tiếp vào sâu hơn dọc theo sông Đồng Nai, lên
tới vùng Bình Dương (di tích Phú Chánh), Lâm Đồng (di tích Phù Mỹ) và qua hệ
thống sông Vàm Cỏ, vào vùng Đồng Tháp Mười (di tích Gò Ô Chùa, Gò Hàng, các
dấu tích văn hóa sớm ở Gò Tháp)…
Qua những chứng cứ khảo cổ học đã cho thấy, sự tồn tại và phát triển của
các quốc gia cổ đại ở các khu vực khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam, cũng được
nhận thấy trên nhiều khu vực Đông Nam Á, đều có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho
sự hoạt động của các tuyến giao thương trên biển. Sự phát triển văn hóa, xã hội và
kinh tế, đặc biệt là thương mại trên biển, đã thúc đẩy các quốc gia cổ đại ngày một
lớn mạnh bởi sự vững chắc về năng lực tổ chức xã hội, ảnh hưởng chủ yếu từ nền
văn minh Ấn Độ. Mô hình tổ chức xã hội của Ấn Độ chủ yếu dựa vào tư tưởng và
tôn giáo mà các nhà truyền giáo cùng những thương nhân đã mang đến bằng đường
biển. Phù Nam là chính thể sớm nhất được biết tới như là một cường quốc hải
thương, đặc biệt phát triển vào thế kỷ III SCN theo các tư liệu thư tịch Trung Hoa,
với các dấu tích khảo cổ học phong phú và giàu có nhất xuất lộ từ Nam Việt Nam
và nhiều loại hình di vật tương đồng được phát hiện rộng rãi ở nhiều di tích thuộc
148
Đông Nam Á. Tuy nhiên, các chứng tích khảo cổ học vô cùng phong phú gợi ý sự
có mặt của nhiều chính thể thuộc các cấp độ khác nhau, ít nhất là vào đầu thiên niên
kỷ I SCN ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Phần lớn trong số này đã bị các lớp
văn hóa Hán che phủ một cách cưỡng bức. Chỉ có Lâm Ấp thoát khỏi một cách
nhanh chóng vào thế kỷ II SCN, chắc chắn có phần góp sức to lớn của kinh tế
thương mại và giao lưu văn hóa trên biển, để hình thành nên nền văn minh Champa
rực rỡ trong nửa sau thiên niên kỷ I SCN.
Kết quả của hoạt động giao lưu thương mại trên biển suốt hành trình dài từ
thời kỳ Đá mới đến nửa đầu thiên niên kỷ I SCN, đã góp phần tạo cơ hội cho các cư
dân bản địa tiếp nhận nhiều kiến thức, kỹ thuật, công nghệ mới. Đồng thời, nhu cầu
về hàng hoá, lương thực, thực phẩm và các đồ tiêu dùng khác đã góp phần thúc đẩy
các nền kinh tế địa phương khởi sắc. Mật độ dân cư ngày càng tập trung đông hơn
dọc bờ biển và những cửa sông quan trọng. Cho đến những thế kỷ đầu Công
nguyên, các chứng cứ khảo cổ học đã cho thấy, nông nghiệp phát triển mạnh mẽ,
với các kỹ năng xử lý và khai thác nguồn nước độc đáo của các cư dân miền Trung
và hệ thống kênh đào phát triển rộng khắp trên vùng đồng bằng Nam Bộ giúp cho
nông nghiệp, đặc biệt là nghề trồng lúa phát triển, đồng thời, giúp cho sự giao lưu
giữa các nhóm cư dân được dễ dàng hơn. Vai trò và vị trí của những người đứng
đầu các nhóm cư dân, thường là liên quan đến thương mại và giao lưu trao đổi
chính trị, ngoại giao, văn hóa có thể nhận thấy rõ nét thông qua mức độ giàu có của
các đồ ngoại nhập xuất lộ trong các khu mộ táng (Việt Khê, Lai Nghi…). Lúc này,
các ngành thủ công phát triển mạnh mẽ. Người thợ thủ công thời kỳ này đã có thể
tạo ra những đồ trang sức bằng thuỷ tinh, mà kỹ thuật kéo ống để tạo ra các hạt
chuỗi hình trụ tròn nhỏ được truyền bá từ Nam Ấn Độ. Dấu tích sản xuất được thấy
ở di tích Giồng Cá Vồ (Cần Giờ), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp) và
nhiều di tích ở Nam Thái Lan. Dấu vết xỉ còn được thấy trong các khu vực cư trú và
cả trong các mộ táng (di chỉ cư trú và mộ táng chân Gò Minh Sư, Gò Tháp, Đồng
Tháp) [158, tr.232-244].
Điêu khắc đá và gỗ cũng là một ngành thủ công ra đời và đặc biệt phát triển.
Nó là những sản phẩm quan trọng của quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia
149
cổ đại. Với nghề mộc, kỹ thuật ghép gỗ bằng mộng cắt và chốt rời ở mộ thuyền
Động Xá (Thế kỷ II SCN), cũng được thấy sử dụng trong việc ghép các cánh tay
vào thân tượng Phật bằng gỗ ở Gò Tháp, một khu vực xuất lộ dấu tích xưởng điêu
khắc gỗ của thời kỳ văn hóa Óc Eo [159].
Như vậy, có thể thấy, bên cạnh việc tiếp thu nhiều kiến thức và kỹ thuật khác
nhau từ Ấn Độ, sự giao lưu văn hóa với các quốc gia cổ đại khác đã khiến cho cư
dân cổ vùng đồng bằng sông Mê Kông, cũng như cư dân vùng đồng bằng sông
Hồng, tiếp nhận được những kỹ thuật từ vùng địa Trung Hải từ những thế kỷ đầu
Công nguyên.
Vào những thế kỷ cuối TCN và những thế kỷ đầu SCN, con đường thương
mại mà Việt Nam là điểm dừng chân quan trọng giữa vùng Đông Á và thế giới Địa
Trung Hải, đi qua Ấn Độ và Đông Nam Á, hoạt động rất sôi nổi. Vùng châu thổ
sông Hồng, ở nhiều mức độ khác nhau, đã chia sẻ và tiếp nhận các ảnh hưởng văn
hóa từ bên ngoài. Trong khi kỹ thuật đóng thuyền ở mộ thuyền Việt Khê chia sẻ kỹ
thuật truyền thống, sử dụng chốt gỗ, buộc dây phổ biến ở Đông Nam Á, tồn tại từ
3.000 năm TCN đến 1.200 năm SCN [162], thì kỹ thuật đóng thuyền sử dụng mộng
cắt và gắn chốt rời của các mộ thuyền Động Xá và Yên Bắc (niên đại xác định vào
thế kỷ II SCN) được cho là tương tự kỹ thuật truyền thống của châu Âu và Tây Á.
Những con thuyền thời kỳ sớm của Ai Cập và Châu Âu sử dụng kỹ thuật này trong
khoảng thời gian 1.300 năm TCN hay sớm hơn và kéo dài tới năm 700 SCN. Rất
nhiều tàu có nguồn gốc Ai Cập, La Mã, trong đó, đáng chú ý nhất là các tàu
Kyrenia, Madrague de Giens, Antikythera I and Caesarea, có niên đại 300 TCN -
100 SCN, sử dụng kỹ thuật như ở Động Xá và Yên Bắc. Điều đáng chú ý là trong
khi các mộng và chốt của Động Xá và Yên Bắc có kích thước nhỏ, thì ở các tàu kể
trên, chúng có kích thước lớn hơn nhiều. Sự khác biệt đó được cho là quy định bởi
kích thước của các con tàu lớn được chế tạo cho những chuyến đi xa trên biển. Còn
ở Bắc Việt Nam, những con thuyền nhỏ ở Động Xá và Yên Bắc phù hợp với việc đi
lại trong sông [163]. Thuyền độc mộc là một phương tiện truyền thống phổ biến
trên thế giới nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Những con thuyền sớm nhất
150
được phát hiện ở Đan Mạch, cách ngày nay 8.300 - 7.200 năm đã chứng minh điều
đó. Nó là phương tiện đi lại quan trọng của cư dân vùng hải đảo châu Á Thái Bình
Dương và quần đảo Hawai. Gần đây, ngày càng nhiều thuyền độc mộc và các mảnh
vỡ [PL2.6, h.1-h4, tr.214-215] được phát hiện ở khu vực Huế, Đồng Nai, Tiền
Giang, Bến Tre, An Giang. Một số có thể thuộc niên đại rất muộn, căn cứ vào các di
vật đi kèm. Sự có mặt của loại thuyền này ở vùng ven biển Tiền Giang, cho thấy, có
khả năng chúng không chỉ được dùng trên sông mà còn được dùng cho các chuyến
đi ven biển [131].
Ngoài ra, những di vật ngoại nhập như tiền Ngũ thù, lục lạc [PL2.13, h.3, tr.235],
chuông đồng và gương đồng Trung Quốc [PL2.2, h.6, tr.201] là một trong số những
dấu hiệu về sự phát tán các thành quả của văn minh Trung Hoa trong khu vực quốc
gia cổ đại trên lãnh thổ Việt Nam và Đông Nam Á. Hay là một pho tượng Phật đồng
[PL2.12, h.17, tr.233], có kích thước nhỏ bé được phát hiện ở Gò Cây Thị, Óc Eo.
Phong cách thể hiện cho thấy, đây là hình mẫu tiêu biểu của nghệ thuật thời Bắc
Nguỵ [85, tr.27-29].
Như vậy, từ các chứng cứ khảo cổ học có thể thấy, từ rất sớm, cư dân Phù
Nam đã có các hoạt động trao đổi với các nhóm cư dân cổ ở Việt Nam và Đông
Nam Á bằng đường biển, đường sông. Việc trao đổi hàng hoá là yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành sản xuất thủ công bản địa, tăng cường
sức sản xuất và số lượng sản phẩm, nâng cao đời sống người dân nơi đây.
4.2.2. Văn hóa cư dân Óc Eo trong mối quan hệ với Đông Nam Á
Các dân tộc ở khu vực Đông Nam Á đã từng có những cuộc tiếp xúc và trao
đổi sản phẩm với nhau từ hơn 5 thế kỷ TCN. Đặc biệt, trong khu vực Châu Á đã
hình thành và phát triển hai nền văn hóa lớn. Đó là văn hóa Hoa Hạ (Trung Nguyên,
Trung Quốc) và văn hóa Ấn Hà (vùng sông Indus, Ấn Độ). Hai nền văn hóa này là
hai trung tâm văn hóa lớn của thế giới đã phát triển ảnh hưởng về phương Nam,
phương Đông. Từ đấy bắt đầu diễn ra quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa - tộc
người với các cộng đồng cư dân trong vùng, góp phần làm cho nội hàm văn hóa vật
thể của các cộng đồng cư dân nơi đây, trong đó có Nam Bộ (Việt Nam) thêm phong
phú, đa dạng [29, tr.30].
151
Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa của cư dân Óc Eo với các nước Đông Nam Á
không chỉ là sự ảnh hưởng lan toả văn hóa trong khu vực, mà sự giao lưu được thể
hiện rõ nét qua các cuộc buôn bán, trao đổi hàng hoá. Vào những thế kỷ trước và
SCN, con đường thương mại quốc tế chủ yếu đi qua vùng phía Nam bán đảo Đông
Dương và vùng hạ lưu các con sông Chao Phraya [68, tr.3], tức là đi qua vương
quốc Phù Nam và Đốn Tốn của người Môn. Vì vậy, vương quốc Phù Nam có vai
trò rất quan trọng, là trung gian trong các mối quan hệ thương mại và trao đổi văn
hóa giữa các nước trong khu vực. Nhiều di chỉ ở Myanmar, Thái Lan, Campuchia
như Beikthano, U Thong, Chansen, Klong Thom (Khuan Luk Pak)... có những điểm
khá tương đồng với văn hóa Óc Eo ở Việt Nam về hình dạng, loại hình hiện vật. Đó
chính là dấu hiệu cho thấy sự giao lưu văn hóa đã diễn ra giữa các nước.
Đồ trang sức bằng vàng được chế tác rất tinh xảo, là một trong những sản
phẩm đặc trưng của cư dân Óc Eo. Chúng đều là những sản phẩm được chế tác tại
chỗ, sau đó được tiêu thụ rộng rãi ở các nước láng giềng. Điều này đã được chứng
minh qua việc tìm thấy các hiện vật này ở một số nước Đông Nam Á, như loại vòng
hở hình bầu dục được tìm thấy ở Indonesia và miền duyên hải Luzo (Philippines);
loại “vòng nặng” được tìm thấy ở Philippines và Java; loại vòng có hình chữ D
cũng đã được tìm thấy ở phía Đông Java... Trong cuốn “Vàng cổ Java” (Old
Javanese gold, 1989) của tác giả John N.Milksic đã nêu lên khá cụ thể về đồ vàng
Óc Eo ở Java và những ảnh hưởng của Óc Eo đến đồ trang sức bằng vàng ở Java
trong giai đoạn từ thế kỷ II - VII SCN [17, tr.74].
Những đồng tiền Óc Eo là hiện vật thể hiện sự giao lưu, buôn bán giữa các
nước trong khu vực một cách rõ nét nhất. Tại nhiều di tích ở các nước trong khu
vực Đông Nam Á như Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào... các nhà khảo cổ học
đã tìm thấy những đồng tiền Óc Eo được làm bằng kim loại, chủ yếu bằng bạc, trên
bề mặt có in hình con ốc hoặc hình mặt trời. Trong một bài viết “Tiền cổ ở Thái Lan
trong thế kỷ VI - thế kỷ X” trên tạp chí Thái Lan có tên “The Silpakom Journal” (tập
IV, số 2/1991) đã đề cập đến việc tìm thấy nhiều đồng tiền Óc Eo - loại tiền có biểu
tượng hình con ốc ở các di tích như Chainat, Nakhon Pakhom và Suphanburi [17,
tr.76]. Những đồng tiền tương tự cũng được tìm thấy ở một số di tích khác như U
152
Thong, Ku Bua, Prahma Tir Dong Khon, U Ta Pa... Những đồng tiền được cắt tư,
cắt tám để làm tiền lẻ như những đồng tiền ở di tích Óc Eo, Tráp Đá, Đá Nổi (An
Giang) cũng đã được phát hiện trong một số di tích khác ở Thái Lan. Trên bề mặt có
in hình những vị vua, hình con ốc (sankha) hay hình Srivatsa. Điều này đã giúp cho
chúng ta có thêm những chứng cứ xác thực nhất về sự giao lưu, buôn bán giữa các
nước Đông Nam Á những thế kỷ đầu Công nguyên.
Một số hiện vật khác như đồ gốm, hạt chuỗi... của cư dân Óc Eo có những
điểm giống hoặc gần giống với các nước trong khu vực. Chẳng hạn, đồ gốm trong
di tích Angkor Borei, U Thong có những đặc điểm khá giống với gốm Óc Eo, đó là
xương gốm mịn, đôi khi khá cứng chắc; gốm thường có màu hồng, hồng cam, vàng
nhạt, xám... được làm bằng đất sét, sàng lọc kỹ; sử dụng kỹ thuật bàn xoay; hoa văn
trang trí giống với hoa văn trong văn hóa Óc Eo. Những loại đồ gốm mang đặc
trưng của gốm Óc Eo như cốc chân cao, bát miệng rộng, chai lọ, bình có vòi, nắp
đậy... cũng xuất hiện trong các di tích này. Các loại hạt chuỗi màu đen có in hình
chim và bông hoa, hạt chuỗi hình trụ tròn bằng thuỷ tinh, hay hạt chuỗi bằng ngọc
có chạm hình rùa... cũng được tìm thấy ở di tích Óc Eo, U Thong và Klong Thom.
Một số con dấu có in dòng chữ “Datravayam” (vật này được ban tặng) bằng chữ
Brahmi (Phạn), giống con dấu ở Óc Eo cũng được tìm thấy ở di tích Klong Thom.
Ngoài ra, tại các di tích Óc Eo, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều di vật
mang đặc trưng của nền văn hóa đến từ các nước trong khu vực Đông Nam Á như:
gương đồng thời Hán, có xuất xứ từ vùng Nam Trung Hoa; tượng Phật thời Bắc
Nguỵ (thế kỷ IV - V SCN) và những đồ trang sức gồm nhiều chủng loại (hạt chuỗi,
nhẫn bằng đá quý, đá màu, thuỷ tinh, vàng...) có nguồn gốc từ nền văn minh Ấn Hà.
Đây đều là những sản phẩm cao cấp, được các thương nhân mang tới trong quá
trình giao lưu, buôn bán và chỉ sử dụng trong giới thượng lưu lúc bấy giờ. Hay tại di
tích Gò Cây Tung, các nhà khảo cổ đã tìm được khá nhiều rìu tứ giác và bôn có mỏ
[46, tr.329]. Đó là loại công cụ bằng đá được sử dụng phổ biến ở Malaysia và Java
cùng thời.
Chính vì có những nét tương đồng giữa các nền văn hóa trong khu vực, nên
có tác giả cho rằng, một số di tích ở Đông Nam Á thuộc nền “văn minh Phù Nam”.
153
Chẳng hạn J.Boisselier cho rằng, di tích U Thong (Thái Lan) và Óc Eo (Việt Nam)
có chung một nền văn hóa gọi chung là Phù Nam. Ngay cả L.Malleret cũng cho
rằng, “Óc Eo có điểm giống Samrong Sen về loại tô có chân, giống Sa Huỳnh về
cây giá nến, giống Đông Sơn ở một dạng hoa văn hình tròn có chấm, nhưng giống
Thượng Lào hơn cả về loại vò. Ông còn thấy Óc Eo có nhiều nét gần gũi với văn
hóa vùng hải đảo Đông Nam Á, dựa trên các hạt trang sức bằng ngọc, bằng thuỷ
tinh và dựa trên kiến trúc” [148, tr.248]. Đó là các chứng cứ xác thực nhất về sự
giao lưu, tiếp xúc văn hóa - tộc người với nhau trong khu vực, đã diễn ra từ rất sớm.
Những di tích này có đặc điểm chung là đều nằm trong những thung lũng phì nhiêu
của các sông lớn, tạo điều kiện cho thuyền bè đi lại một cách dễ dàng. Nhờ đó, đã
giúp cho các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á có điều kiện phát triển nền nông
nghiệp và thương nghiệp một cách mạnh mẽ ngay từ những thế kỷ đầu Công
nguyên, làm cho đời sống của cư dân nơi đây ngày càng được nâng cao.
4.2.3. Văn hóa Óc Eo giao lưu, tiếp biến với Ấn Độ và các nền văn hóa khác
Khi phân tích đặc trưng và xu hướng phát triển của văn hóa Óc Eo, ta thấy có
những đặc điểm giống nhau với các nước láng giềng về tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ
thuật điêu khắc, các hình thức mai táng, những hình thức sinh hoạt hằng ngày và
các hoạt động kinh tế… Tuy nhiên, với những tư liệu hiện nay, vẫn chưa thể cho
chúng ta một hình ảnh rõ nét về mối quan hệ này, nhưng điều có thể khẳng định là
giữa văn hóa cư dân Óc Eo và các nước láng giềng như Chămpa, phía Bắc Việt
Nam, các nước Đông Nam Á… đặc biệt là Ấn Độ, có những mối liên hệ mật thiết
với nhau. Thông qua những lần tiếp xúc như trao đổi mua bán, những cuộc xâm
lược hay bang giao giữa các nước… các nhóm cư dân đã để lại nơi đây một nền văn
hóa đa dạng và phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về văn hóa - xã
hội của cư dân Óc Eo.
Sự hình thành nhà nước Phù Nam và một số nước Đông Nam Á chính là sự
vay mượn hình thức tổ chức nhà nước, tư tưởng, tôn giáo, chữ viết... từ Ấn Độ diễn
ra trong quá trình tiếp xúc, giao lưu và buôn bán của những thương nhân đến từ Ấn
Độ và một số nước khác. Mối quan hệ, giao lưu này được thể hiện qua sự tiếp nhận
các yếu tố:
154
4.2.3.1. Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa vật chất
Vương quốc Phù Nam có một cảng thị quốc tế là Óc Eo. Ở đây diễn ra quá
trình tiếp xúc khá sớm giữa nhà nước Phù Nam với các nước khác. Trong những
hiện vật khai quật được ở Óc Eo có hiện vật của các vương triều Ấn Độ, Trung Á,
Đông Hán và Bắc Nguỵ, La Mã… Đặc biệt, ngay từ những thế kỷ đầu Công
nguyên, “người Ấn Độ đã mang đến đây kỹ thuật làm thuyền đi biển, phát triển
ngành thương nghiệp và kỹ thuật nông nghiệp khô với chiếc cày do bò kéo” [32,
tr.230], làm cho đời sống của người dân Phù Nam ngày một sung túc, phồn thịnh.
Tuy nhiên, do vương quốc Phù Nam hiện nay không còn tồn tại, chủ nhân của nền
văn hóa này cũng không còn, cho nên khi nói đến sự tiếp biến các yếu tố vật chất
như phương thức canh tác, cũng như kỹ thuật nông nghiệp chưa có cứ liệu rõ ràng
để chứng minh. Nhưng cũng có một số yếu tố thể hiện rõ mối quan hệ này như:
Kỹ thuật chế tác đồ thủ công: Về kỹ thuật chế tác đồ thủ công cho đến nay,
rất nhiều hiện vật vẫn chưa xác định được là do ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ
hay chỉ là sự trao đổi, mua bán. Nhưng nhìn chung, chúng ta không thể phủ nhận có
sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ về lĩnh vực này. Đối với các di vật có nguồn gốc
Ấn Độ, chúng ta có thể phân biệt thành 3 loại chủ yếu [151, tr.326-328]:
Thứ nhất, những vật phẩm có nguồn gốc ngoại nhập, được các thương nhân
mang đến từ các nước khác như: chiếc nhẫn mặt ngọc được tìm thấy ở Óc Eo (Ba
Thê) có khắc chữ La Mã hay các con dấu được viết bằng các kiểu văn tự Ấn Độ…
Đây là những di vật có được qua quá trình trao đổi mua bán. Những loại hiện vật
này có giá trị rất lớn, chỉ dành riêng cho các tầng lớp quý tộc, những thương nhân
giàu có.
Thứ hai, những vật phẩm kiểu Ấn Độ nhưng được sản xuất, chế tác tại Óc Eo
như các công trình kiến trúc tôn giáo (đền đài, mộ táng...), đồ kim hoàn... Đây là
những sản phẩm của sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của cư dân Óc Eo và các nền
văn hóa khác, đặc biệt là Ấn Độ.
Thứ ba, những sản phẩm chịu ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đã có phần pha trộn
truyền thống địa phương như bình có vòi, các loại nắp đậy bằng gốm... được cải
biên cho phù hợp với điều kiện tại chỗ. Chính những sản phẩm ngoại nhập được địa
155
phương hoá cùng với những yếu tố bản địa đã tạo nên những đặc điểm riêng, độc
đáo của văn hóa Óc Eo.
Như vậy cho thấy, sự giao lưu, tiếp biến những kỹ thuật chế tác đồ thủ công
của Ấn Độ đã tạo nên sự thay đổi rất lớn trong sản xuất thủ công cũng như đời sống
của cư dân Óc Eo. Từ những thói quen ở nhà sàn, làm nhà bằng tre nứa chuyển sang
xây dựng những đền đài; từ chuyên sản xuất gốm thô sang sản xuất gốm mịn; đặc
biệt là kỹ thuật làm đồ kim hoàn đã đạt đến trình độ điêu luyện. Nó có tác dụng rất
lớn, không chỉ thúc đẩy các nghề thủ công phát triển, nâng cao trình độ kỹ thuật sản
xuất mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân Óc Eo từ những thế kỷ đầu
Công nguyên.
Về kiến trúc: Cư dân Óc Eo đã dựa trên kiến trúc truyền thống của họ là gỗ,
tre, lá để tiếp nhận kiến trúc gạch, đá xây dựng nên những đền tháp tôn giáo. Những
kiểu kiến trúc đền tháp được phát hiện ở các di tích thuộc văn hóa Óc Eo như: Gò
Tháp (Đồng Tháp), Óc Eo (An Giang), Nền Chùa (Kiên Giang)... chính là sự tiếp
thu kiến trúc của Ấn Độ. Kiến trúc của cư dân Óc Eo có đặc điểm là những đền tháp
đứng riêng lẻ hoặc hợp thành từng cụm, hầu hết đều xây bằng gạch. Một số điện thờ
vẫn giữ được các yếu tố Ấn Độ như cách đặt các thánh tích trong lòng các ngôi
tháp. Do phía trên bị tàn phá bởi thời gian nên không thấy được phần kiến trúc này,
tuy nhiên, có thể thấy sự thay đổi trong đời sống xã hội Óc Eo. Lúc này, chắc chắn
họ còn có thêm một nghề thủ công mới, đó là sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ
cho việc xây dựng các đền tháp.
Về thương nghiệp: Các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di vật mang đậm
dấu ấn văn hóa Ấn Độ như những mảnh bia ký ghi chữ Ấn Độ, tượng Hindu giáo và
Phật giáo chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ trong các di tích Óc Eo. Theo
Lương Thư (502 - 556), có một cộng đồng buôn bán người Tamil (Đông Ấn) là một
nhánh của phường buôn Ấn Độ và “có vương quốc Touen Sium, chư hầu của nước
Phù Nam giáp với Ấn Độ (phía Tây) có chợ trời biên giới buôn bán Đông - Tây có
ngày lên tới 10.000 người và không thiếu một thứ hàng hoá gì” [32, tr.251]. Chữ
viết kiểu Tamil phát hiện trên một mảnh gốm ở Phu Khao Thong (Thái Lan) là
chứng cứ khảo cổ học cho ghi chép này. Qua đó, có thể thấy, một nền thương
156
nghiệp phát triển rực rỡ lúc bấy giờ trên vùng đất Nam Bộ những thế kỷ đầu Công
nguyên và tạo điều kiện cho sự tiếp biến đa dạng về văn hóa vật chất, làm cho đời
sống người dân nơi đây ngày một nâng cao.
4.2.3.2. Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa tinh thần
Nhờ tính cởi mở, ít kỳ thị với các tư tưởng và tôn giáo mới, cư dân Óc Eo đã
tiếp nhận các yếu tố văn hóa đến từ Ấn Độ. Cùng với các nhân tố văn hóa kèm theo,
các tôn giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn hóa tinh thần của cư dân nơi
đây. Các thể chế nhà nước cùng với chữ viết, những tri thức khoa học, văn hóa,
nghệ thuật… được cư dân Óc Eo tiếp nhận, đồng thời bản địa hoá tạo nên những nét
rất riêng.
Về ngôn ngữ, chữ viết: Khác với sự tiếp xúc văn hóa Hán - Việt ở phía Bắc
Việt Nam, vương quốc Phù Nam tiếp xúc văn hóa Ấn Độ không chịu sự thống trị
của Ấn Độ. Nền văn hóa Ấn Độ được chuyển tải qua con đường truyền giáo và
buôn bán hoà bình. Vì vậy, con đường tiếp xúc ngôn ngữ và văn tự chủ yếu qua đạo
Bàlamôn, đạo Phật, “Chữ viết ở vùng châu thổ sông MêKông vào khoảng đầu Công
nguyên là một sản phẩm của sự giao lưu văn hóa do các thương nhân, các tu sĩ Phật
giáo và Ấn giáo đem đến” [64, tr.49].
Từ những ngày đầu lập quốc, vương quốc Phù Nam đã đi theo mô hình nhà
nước của Ấn Độ, bên cạnh các tôn giáo đóng vai trò quốc giáo, nền giáo dục Ấn Độ
cũng được sao phỏng nơi đây. Con đường vay mượn ngôn ngữ được chuyển tải
trước hết là qua các kinh, sách, sau đó mới đến giáo dục. Các vương triều Phù Nam
đều thiết lập chế độ vương quyền kết hợp với thần quyền. Do đó, nhà vua cùng với
tăng lữ rất giỏi ngôn ngữ và văn tự Ấn Độ. Chính quyền, triều đình và tăng lữ đã du
nhập hệ thống chữ viết Brahmi và ngôn ngữ Sanskrit của Ấn Độ.
Tư tưởng tôn giáo: Sau khi Hỗn Điền - một tu sĩ Bàlamôn từ Ấn Độ theo
thuyền buôn tới Phù Nam, rồi làm vua của nước này đã “tuỳ theo luật Ấn Độ mà
sửa đổi lại nền nếp trong nước”. Bàlamôn giáo trở thành quốc giáo, thâu tóm cả
vương quyền lẫn thần quyền. Siva giáo với biểu tượng linga, yoni và Vishnu giáo
với các biểu tượng con ốc, bánh xe, quả cầu, cây gậy được phổ biến rộng khắp
vùng ĐBSCL. Sự kết hợp giữa hình tượng Siva và Vishnu tạo thành thần Harihara
157
(Hari = Vishnu + Hara = Siva) có ý nghĩa là thần hộ mạng cho cư dân Phù Nam,
được thờ rộng rãi trong nhân dân.
Khoảng từ thế kỷ II trở đi, đạo Phật cũng được du nhập vào Phù Nam và phát
triển mạnh cho đến thế kỷ VII - VIII. Tuy không giữ vị trí quan trọng như Bàlamôn
giáo, nhưng đạo Phật có tác động tích cực đến đời sống của cư dân Óc Eo, tạo được
mối quan hệ giao lưu rộng rãi với các nước trong khu vực: Nam Tông với các nước
Nam Á, Bắc Tông với Trung Quốc và các nước thuộc khu vực chịu ảnh hưởng văn
hóa Hán (Đông Á). Dù là Bắc Tông hay Nam Tông, khi đến vùng TNB đều được cư
dân nơi đây bản địa hoá cho phù hợp với điều kiện sống của họ.
Khi đánh giá về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với các quốc gia cổ đại trong khu
vực Đông Nam Á, G.Coedes cho rằng: “ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ chủ
yếu là sự bành trướng của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan điểm của Ấn
Độ về vương quyền, có đặc trưng là những lễ thức thờ cúng Hindu giáo hoặc Phật
giáo” [30, tr.19].
Về nghệ thuật: Phù Nam có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, chịu
ảnh hưởng bởi các trào lưu nghệ thuật ở Ấn Độ. Cũng như Ấn Độ, nghệ thuật Phù
Nam hầu hết đều phục vụ cho một tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó
mà thể hiện, chủ yếu từ hai tôn giáo Phật giáo và Hindu giáo. Những hiện vật được
tìm thấy ở các di tích Óc Eo là các vật nhỏ, mảnh vàng và một số loại tiền bằng kim
loại đều có nhiều hình vẽ thể hiện những biểu tượng tôn giáo, biểu tượng Ujain,
hình cá và hình đinh ba được thấy trên các mảnh tiền dập (punch - marked coins) -
một loại tiền được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ. Rõ ràng, từ cái nôi của nghệ thuật
điêu khắc Ấn Độ, đã có các mối quan hệ thông qua những con đường buôn bán giao
thương và các mối quan hệ chính trị tới vùng đất này.
Nghệ thuật trong Phật giáo có thể đã được đem đến và thể hiện ở đây từ rất
sớm. Tuy nhiên, cho đến nay, do sự phát hiện rời rạc của các tư liệu, chúng ta chưa
thể nhận diện hết các giá trị của nghệ thuật Phật giáo được thể hiện trên các hiện
vật. Trong các di tích ở An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp đã phát hiện với số
lượng lớn các loại tượng Phật, với nét mặt thanh thoát, dáng vẻ nhẹ nhàng. Đặc biệt
là những tượng Phật gỗ ở Gò Tháp chịu ảnh hưởng từ các trung tâm nghệ thuật nổi
158
tiếng như Gandhara, Mathura và các trung tâm nghệ thuật giai đoạn sớm ở vùng
Andhara (Nam Ấn).
Nghệ thuật Gupta ở miền Bắc và nghệ thuật Pallava ở miền Nam Ấn cũng
ảnh hưởng rất lớn đến nghệ thuật của văn hóa Óc Eo. Bên cạnh việc tiếp thu liên tục
những ảnh hưởng mới, các nghệ nhân bản địa tiếp tục sáng tạo và định hình những
nét phong cách riêng của mình về trang phục, đặc điểm nhân thể và các tiêu chí tiếu
tượng. Có thể nói nghệ thuật của Gupta và Pallava đã cung cấp những yếu tố và
hình mẫu cơ bản nhất để hình thành nên hệ thống tiếu tượng Hindu giáo và Phật
giáo ở ĐBSCL. Đồng thời sự giao lưu thường xuyên với nhiều khu vực khác nhau
trên tiểu lục địa Ấn Độ đã khiến cho nhiều dòng ảnh hưởng cùng gặp gỡ tại đây.
Điểm độc đáo của nghệ nhân là từ những tiêu bản Ấn Độ, họ biết tiếp thu có chọn
lọc để tạo nên những phong cách khác nhau theo truyền thống văn hóa của địa
phương [85, tr.178-179].
4.2.3.3. Sự tiếp biến các yếu tố văn hóa xã hội
Vương quốc Phù Nam là một quốc gia ngay buổi đầu đã được xây dựng trên
cơ sở một nền nông nghiệp trồng lúa khá phát triển, bắt nguồn từ ruộng nương của
cư dân Môn - Khmer kết hợp với nghề đi biển cổ truyền của cư dân Nam Đảo. Trên
cơ sở đó, các tu sĩ Bàlamôn từ Ấn Độ đến, với kinh nghiệm tổ chức nhà nước của
mình, đã góp phần quan trọng trong việc tổ chức vương quốc Phù Nam mô phỏng
theo mô hình Ấn Độ trên tất cả các mặt: tổ chức chính trị, thiết chế xã hội, đô thị
hoá, giao thông, kỹ thuật công nghiệp cùng một hệ thống tôn giáo và các nền văn
hóa kèm theo, trong đó, đạo Bàlamôn là tối thượng, chữ Brahmi và ngôn ngữ
Sanskrit là của thần linh... Trong xã hội, chia làm bốn tầng lớp: tăng lữ; quý tộc
(vua chúa, quan lại); thương nhân, nông dân, thợ thủ công; nô lệ. Như vậy, xã hội
Phù Nam có sự phân chia giai cấp một cách rõ rệt.
Về tư tưởng chính trị, cũng giống như Ấn Độ và theo truyền thống của Ấn
Độ, lịch sử chính trị của vương quốc Phù Nam là lịch sử mở mang đất đai, thôn tính
các vương quốc láng giềng. Điều cần lưu ý là do cơ chế của Bàlamôn giáo và “theo
mô hình văn hóa Ấn Độ quá thiên về thần quyền thiếu một tầng lớp thế tục lo việc
cai trị nên rất khó xây dựng một quốc gia thống nhất bền vững” [32, tr.230].
159
4.3. Sự suy tàn của văn hóa Óc Eo
Phù Nam là vương quốc từng tồn tại từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ VII SCN.
Theo thư tịch cổ Trung Quốc, trong thời kỳ hưng thịnh, vương quốc này về phía
đông, đã kiểm soát cả một vùng rộng lớn. Phía Nam là vùng Trung Bộ (Việt Nam),
phía tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía nam đến phần phía bắc
bán đảo Malaysia. Có khoảng 10 “nước” phải cống nộp và bị kiểm soát về đối ngoại
[128, tr.58]. Với một vương quốc phồn thịnh và một nền văn minh đồ sộ như vậy,
nhưng không hiểu vì sao lại bị chôn vùi dưới lòng đất? Hiện vẫn chưa có lời giải
thích nào có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, có một số giả thuyết được đưa ra
nhằm giải thích nguyên nhân của sự biến mất này:
Thứ nhất, có ý kiến cho rằng, sự mất tích của vương quốc Phù Nam là do
thiên tai (có thể là do một trận động đất hay đại hồng thuỷ) gây nên. Sở dĩ có các
nhà khoa học đưa ra giả thuyết này vì khi khai quật di tích Óc Eo (An Giang), các
nhà khảo cổ học phát hiện những hiện vật được bày ra một cách la liệt. Điều này có
thể chứng minh, dân chúng đã hấp tấp rời bỏ một cách vội vàng đến nỗi những đồ
quý giá như nữ trang, vàng bạc cũng không kịp mang theo. Đồng ý với quan điểm
này, L. Malleret cho rằng, vùng Óc Eo hằng năm đều chịu cảnh ngập lụt, bằng
chứng là những cọc nhà sàn được tìm thấy trong lòng đất. Riêng Óc Eo bị vùi lấp có
lẽ do một trận lũ lụt lớn làm cho bùn lầy, phù sa tràn ngập xuống thành phố. Thiên
tai có thể xảy ra vào khoảng cuối thế kỷ VII. Quan sát xung quanh, người ta thấy ở
những nơi thấp, lớp phù sa lầy lối 2 thước, nơi cao (đất giồng) lối 6 tấc. Trung bình
mỗi năm, sông Cửu Long bồi một lớp đất dày từ 0,0005 đến 0,00016 [53, tr.35].
Nhưng theo nhiều nhà khoa học thế giới thì kỷ tan rã băng hà cuối cùng cách
đây ít ra cũng đã 8.000 năm. Những trận động đất hay những cơn sóng thần cục bộ
xảy ra ở thời kỳ này khó có khả năng xoá được cả một vương quốc như Phù Nam.
Thứ hai, cũng có ý kiến cho rằng, Phù Nam biến mất là do đại dịch bệnh gây
nên. Tuy nhiên, ý kiến này bị các nhà khoa học phản đối một cách mạnh mẽ. Bởi lẽ,
qua các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học cho biết, họ tìm thấy những bộ hài cốt cổ
không có dấu hiệu bị nhiễm dịch bệnh và đều được mai táng đàng hoàng trong mộ.
160
Thứ ba, Phù Nam biến mất là do những cuộc ngoại xâm tàn sát. Và nghi vấn
ngoại bang ấy chính là người Giava (Mã Lai). Theo PGS, TS Ngô Văn Lệ thì “Từ
nửa thế kỷ VIII vùng hạ lưu sông Cửu Long rơi vào cảnh bi thảm, bị thuỷ quân
Giava đánh phá, lại bị ngập lụt và nước phù sa bồi lấp, cả vùng đất Nam Bộ trở nên
hoang phế” [78, tr.44]. Nhưng thư tịch cổ không thấy ghi như thế và cũng chưa tìm
được chứng cứ để xác định...
Phù Nam là một vương quốc phồn thịnh, từng tồn tại trong lịch sử Đông
Nam Á những thế kỷ đầu Công nguyên. Việc biến mất một cách đột ngột, bí hiểm
của vương quốc này để lại nhiều nghi vấn và tranh luận cho thế hệ sau. Mỗi một
cách giải thích đều có lý do riêng, giúp chúng ta đến gần hơn với sự thật lịch sử.
Cũng như một số tác giả khác, tôi cho rằng, sự suy tàn dẫn đến sụp đổ và biến mất
của vương quốc Phù Nam - đế chế hùng mạnh một thời, không chỉ do một, hai
nguyên nhân mà là sự tổng hợp của nhiều nguyên nhân:
Trước hết là nguyên nhân từ yếu tố tự nhiên: Lịch sử hình thành vùng đất
Nam Bộ được các nhà địa chất học ghi nhận đã trải qua 4 đợt biển tiến và 3 đợt biển
thoái. Trong đó, giai đoạn Holocen muộn có một đợt biển tiến quy mô nhỏ, gọi là
biển tiến Holocen IV, được xác nhận là nhân tố ảnh hưởng đến sự tồn vong của
nước Phù Nam [73]. Đợt biển tiến Holocen IV diễn ra từ khoảng thế kỷ IV đến giữa
thế kỷ XII với mực nước cao trung bình là 0,8m (thế kỷ VII) so với mực nước hiện tại.
Như vậy, yếu tố thiên tai ở đây không phải là do một trận đại hồng thuỷ ập
xuống một cách bất ngờ mà có thể là do đợt biển tiến Holocen IV, nước biển dâng
cao nhấn chìm một phần TNB, trong đó, hai tỉnh Long An và Đồng Tháp gần như
nằm sâu dưới đáy biển. Điều này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền nông
nghiệp và kinh tế cảng thị của Phù Nam, gây nên sự khủng hoảng và suy yếu nền
kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân thứ hai là do sự thay đổi con đường mậu dịch trên biển, Phù
Nam mất đi vị trí chiến lược của mình, làm cho nền thương nghiệp của đất nước bị
suy thoái.
Như trên đã đề cập, Phù Nam được biết đến trong lịch sử là một cường quốc về
thương nghiệp, từng khống chế nền thương nghiệp hàng hải ở khu vực Đông Nam Á.
161
Con đường giao thương giữa các đế quốc La Mã, Ấn Độ và Trung Hoa đều đi qua
vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên, bắt đầu thế kỷ V trở đi, bối cảnh mậu dịch có nhiều
biến chuyển gây nhiều bất lợi và tổn hại cho vị trí thương mại của Phù Nam.
Nguyên nhân trước hết là do sự phát triển của nghề hàng hải và kinh tế của
các nước trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Lúc này, kinh nghiệm đi
biển cũng như công nghệ đóng tàu của các nước có bước phát triển mạnh mẽ, họ
đóng những con tàu có thể chở hàng hoá với số lượng lớn đi xuyên qua những vùng
nước sâu một cách dễ dàng. Các thuỷ thủ không còn phải chở hàng hoá băng qua eo
Kra để đến Phù Nam nữa, mà chuyển dần xuống phía nam qua eo biển Malacca
(Maleka) và Sunda để đến với một trong những cảng tại Biển Đông, rút ngắn hành
trình, mở rộng phạm vi buôn bán hơn. Hải trình này ngày càng được nhiều thuỷ thủ
lựa chọn, đóng vai trò chi phối trên con đường biển từ Thái Bình Dương sang Ấn
Độ Dương, từ Trung Quốc qua Đông Nam Á sang Ấn Độ. Chính điều này làm cho
hoạt động thương mại của Phù Nam giảm sút, nền mậu dịch đối ngoại bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, làm suy yếu nền kinh tế của vương quốc và cả đế chế nói chung.
Một nguyên nhân khác cũng cần được đề cập đến là sự suy thoái nền kinh tế
Phù Nam và những biến chuyển trong nhu cầu hàng hoá của con đường thương mại
trên biển. Thế kỷ VI đã chứng kiến một biến chuyển kinh tế quan trọng, ngành
trồng dâu nuôi tằm, phục vụ cho nghề dệt lụa đã được thiết lập tại các vùng đất của
phía đông Địa Trung Hải. Lụa của Trung Hoa vẫn còn là một vật phẩm quan trọng
trong mậu dịch đường trường nhưng không còn là động lực thúc đẩy các con đường
buôn bán trên đất liền cũng như trên biển. Nhu cầu thị trường lúc này nhắm vào
Đông Nam Á với sản vật chính là vàng và gia vị - những sản phẩm thế mạnh của
quần đảo Mã Lai và miền Trung Việt Nam [71, tr.83]. Bên cạnh đó, vào khoảng
giữa thế kỷ VI, nước Phù Nam nhanh chóng bước vào thời kỳ suy thoái nghiêm
trọng. Theo kết quả nghiên cứu điều kiện tự nhiên cho thấy, sự đổi dòng của các
con sông, sự hình thành các cồn cát… đã làm mất đi vai trò của các kênh rạch tự
nhiên và nhân tạo, làm cô lập một số vùng. Công tác thuỷ nông không được coi
trọng, khiến cho những trận lũ lụt của sông Mê Kông, gây tai hoạ khủng khiếp cho
các cánh đồng ruộng trũng, biến những vùng đồng bằng vốn phì nhiêu thành những
162
đầm lầy ở miền hạ lưu sông Mê Kông. Vương quốc Phù Nam lúc này chỉ tập trung
phát triển ở một số đô thị lớn đông dân cư, còn cuộc sống ở các vùng nông thôn
rộng lớn thì không quan tâm, Phù Nam đã không còn đủ sản vật để cung cấp cho
nhu cầu thị trường thế giới.
Nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Phù Nam chính là
do mô hình tổ chức nhà nước lỏng lẻo, dựa trên quan hệ thuần phục là chủ yếu.
Sự hình thành Phù Nam cũng như một số quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á là
sự liên minh những bộ lạc với nhau, tạo nên một khối liên kết về chính trị. Trong
một vương quốc, quyền lực sẽ tập trung vào những người ưu việt, có năng lực, tài
năng, có thể thuyết phục người khác tin vào tài năng phi thường của họ. Tài năng ở
đây chính là năng lực tôn giáo. Chính niềm tin tôn giáo là sức mạnh, là chỗ dựa cho
thể chế chính trị đương thời. Mô hình tổ chức của đế chế Phù Nam chủ yếu dựa trên
quan hệ thuần phục dưới những hình thức và mức độ khác nhau với nước tôn chủ
[74, tr.13]. Với tư tưởng bành trướng, Phù Nam đã dùng sức ép về kinh tế, sức
mạnh quân sự để chinh phục các nước láng giềng làm thuộc quốc, cống nộp các loại
hàng hoá. Theo Lương Thư, “Man (Phạm Man, Phạm Sư Man) là một người khoẻ
mạnh, dũng cảm, có mưu lược, đã dùng lực lượng quân sự tấn công các nước lân
cận, bắt họ phải thuần phục rồi tự xưng là Phù Nam Đại vương. Tiếp đó lại đóng
thuyền lớn, đi khắp Trướng hải, tấn công và khuất phục được hơn mười nước như
Khuất Đôn Côn, Cửu Trĩ, Điển Tôn… mở mang đất đai năm sáu nghìn dặm” [70,
tr.34]. Mặc dù chinh phục được nhiều nước chư hầu, lại có những hạm đội hùng
mạnh, nhưng do quan hệ thuần phục lỏng lẻo, giới cầm quyền đế chế Phù Nam
không thể kiểm soát các thuộc quốc như trước. Vì vậy, mỗi khi các nước thành viên
phát triển và lớn mạnh thì mâu thuẫn trong nội bộ phát sinh và làm suy yếu đế chế
Phù Nam. Theo các nguồn sử liệu, khoảng thế kỷ V, nhiều thuộc quốc của Phù Nam
như Xích Thổ (một chi nhánh của Phù Nam), Chân Lạp (một thuộc quốc của Phù
Nam)… đã đạt đến sự thống nhất, quyền lực chính trị đã được tập trung, có ảnh
hưởng với những nước xung quanh. Một số tiểu vương tách khỏi sự bảo hộ của Phù
Nam, thậm chí, xuất hiện nhiều nhóm phái chống đối, ly khai cát cứ thành những
vùng độc lập.
163
Bên cạnh đó, cơ chế quản lý và vận hành của đế chế Phù Nam mang nặng
tính chất liên kết kinh doanh, thương mại, rất linh hoạt nhưng cũng rất lỏng lẻo
[128, tr.62]. Sức mạnh kinh tế Phù Nam có được chủ yếu là nhờ vào lợi thế về vị trí
địa lý, hệ thống các sông, kênh đào và cảng biển quốc tế hợp thành một mạng lưới
giao thông hoàn chỉnh, vừa tương hỗ, vừa nối kết với nhau. Nhưng khi Phù Nam
không thể chi phối con đường thương mại trên biển cũng là lúc mất đi vai trò của
mình đối với các thuộc quốc.
Sau 6 thế kỷ hình thành và phát triển, đến cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII đế
chế Phù Nam và các thuộc quốc của đế chế này bắt đầu từng bước suy yếu, Chân
Lạp đã nổi lên chinh phục và hợp nhất thành quốc gia Khmer, mà Bhavaraman I có
thể coi là người sáng lập. Đây cũng chính là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho
Phù Nam - một đế chế hùng mạnh, từng thống trị cả vùng Nam Đông Dương dần
biến mất trong lịch sử các nước Đông Nam Á.
Tiểu kết Qua các tư liệu khảo cổ học có thể thấy, từ rất sớm, những nhóm cư dân cổ
trên lãnh thổ Việt Nam và các nước Đông Nam Á, nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận
lợi đã có những hoạt động trao đổi với thế giới bên ngoài bằng đường biển. Tuy
nhiên, phải tới thiên niên kỷ I TCN, các hoạt động này mới được kết nối vào mạng
lưới giao thương rộng khắp giữa phương tây và phương đông. Cùng với việc trao
đổi hàng hoá, các kỹ thuật cũng được chuyển tải, tiếp nhận và cải biến. Đây là yếu
tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển và chuyên môn hoá nhiều ngành sản
xuất thủ công bản địa, tăng cường sức sản xuất và số lượng sản phẩm. Song song
với đó là sự thúc đẩy các ngành nông nghiệp và khai thác phát triển, sản xuất nông
nghiệp bắt đầu mang tính hàng hoá, nơi đây trở thành nơi cung cấp lương thực, thực
phẩm, hàng thủ công và lâm thổ sản cho các nhà buôn khi dừng chân giữa những
chuyến đi dài.
Như vậy, có thể nói giao lưu, tiếp biến văn hóa là một trong những yếu tố
quan trọng, có vai trò rất lớn vào việc hình thành vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên,
nguồn lực chủ yếu để hình thành một văn minh có nền thương nghiệp phát triển rực
rỡ lại chính là những nhân tố nội tại của cư dân Óc Eo.
164
KẾT LUẬN
1. Trên vùng đất Nam Bộ, văn hóa Óc Eo đã hình thành, phát triển và toả
sáng. Con người nơi đây đã khai phá đất đai, tạo dựng cuộc sống, tiếp thu và phát
triển một nền văn minh tương đối cao trong hơn 5 thế kỷ. Thông qua những tài liệu
khảo cổ học đã cho phép phác hoạ một cách khái quát bức tranh về đời sống của cư
dân Óc Eo ở miền TNB:
Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ, nó được nhìn nhận là chứng cứ
vật chất của vương quốc Phù Nam; là quốc gia cổ đại đầu tiên được hình thành ở
Đông Nam Á.Phù Nam được hình thành từ rất sớm, vào khoảng cuối thế kỷ I đầu
thế kỷ II, với tư cách là một bộ phận tiên tiến thời bấy giờ, nó chinh phục các lãnh
thổ xung quanh và nhanh chóng trở thành một đế quốc cổ đại. Nó tồn tại cho đến
thế kỷ VII thì bước vào giai đoạn suy vong rồi tan rã hoàn toàn.
Vương quốc Phù Nam phân bố trên một địa bàn rộng lớn, về phía Đông đã
kiểm soát cả vùng đất Nam Trung bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung lũng sông
Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến gần phía Bắc bán đảo Malaysia. Tuy nhiên,
địa bàn trung tâm của nước Phù Nam vẫn là vùng hạ lưu và vùng tam giác của châu
thổ sông Cửu Long, trên một vùng khí hậu nóng ẩm, sình lầy, đất thấp nhưng phì
nhiêu, thảo mộc quanh năm xanh tốt (lúa, mía và các thứ cây ăn quả nhiệt đới); rừng
có nhiều gỗ quý như trầm hương. Gia súc thì không khác với ngày nay mấy; cầm
thú thuần hoá có voi, rùa, công két ngũ sắc; dã thú có cá sấu, tê giác... Khoáng sản
gồm nhiều loại như quặng kim loại, ngọc, đá quý và kim cương.
Văn hóa Óc Eo ở miền TNB từ những thế kỷ đầu Công nguyên đã đạt được
một số thành tựu quan trọng về các mặt sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp,
thương nghiệp cũng như về tổ chức đời sống xã hội.
Cư dân Óc Eo đã tự tạo cho mình một cuộc sống tương đối ổn định, phong
phú. Họ biết tận dụng những thức ăn sẵn có bằng cách triển khai các hoạt động săn
bắt, hái lượm theo phổ rộng, và chăn nuôi nhiều loại động vật, trồng nhiều loại cây
để bổ sung nguồn lương thực, thực phẩm cho cuộc sống. Họ biết đào kênh dẫn thuỷ
nhập điền, tưới tiêu cho ruộng đồng, phát triển nghề trồng lúa nước, đồng thời, cũng
là phương tiện giao thông hữu hiệu cho người dân nơi đây.
165
Hình thức cư trú trên nhà sàn là truyền thống cư trú bản địa của cư dân Óc
Eo. Loại kiến trúc này còn lưu lại nhiều dấu vết ở các địa điểm trong vùng đầm lầy,
thấp trũng, ngập nước ven sông, ven bờ biển cổ trong các di chỉ thuộc thời đại kim
khí trước đó và liên tục kế thừa nhiều thế kỷ SCN ở vùng duyên hải và châu thổ
sông Cửu Long. Còn ở những giồng đất cao, họ biết đắp nền làm nhà trệt. Những
hình thức cư trú này đã thể hiện rất rõ văn hóa ứng xử linh hoạt của cư dân Óc Eo
với môi trường tự nhiên.
Các nghề thủ công ở Phù Nam rất phong phú và đa dạng với trình độ và quy
mô khác nhau, phản ánh một số đặc điểm địa lý tự nhiên - môi trường, kỹ thuật sản
xuất và trong một chừng mực nào đó, là tư duy thẩm mỹ, trí thông minh sáng tạo
của tộc người trong quá trình thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội. Các nghề
thủ công đã tạo ra rất nhiều sản phẩm nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt
hàng ngày của cư dân nơi đây. Các loại công cụ sản xuất, vật liệu, đồ trang trí mỹ
nghệ có giá trị văn hóa và hàng hoá cao, trong khuôn khổ của nền sản xuất tiền công
nghiệp, gắn chặt với hoạt động nông nghiệp qua các giai đoạn lịch sử.
Với vị trí của một thương cảng toạ lạc tại địa điểm trung gian của “Con
đường tơ lụa trên biển”, cư dân Óc Eo đã sớm tiếp xúc với nhiều nền văn hóa trên
thế giới. Điều này đã khiến cho nhiều học giả xem Óc Eo là một trung tâm liên thế
giới của vương quốc Phù Nam. Quan hệ thương mại giữa Óc Eo với thế giới bên
ngoài sớm được chứng minh qua những hiện vật được phát hiện trong các di tích Óc
Eo như hai đồng tiền vàng La Mã, gương đồng thời Hán, đồ trang sức hai đầu thú…
Có thể nói, thủ công nghiệp, thương nghiệp đã đóng vai trò quan trọng bậc nhất
trong việc hình thành nên các thị tứ và các đô thị thời cổ đại trên vùng đất Nam Bộ,
mà Óc Eo (An Giang) là một ví dụ.
Đời sống tinh thần của cư dân Óc Eo thời kỳ này cũng vô cùng phong phú,
đa dạng.
Về tín ngưỡng, tôn giáo, cư dân Óc Eo ở vùng ĐBSCL có sự hội nhập giữa
tín ngưỡng dân gian với các nước cổ đại cùng thời. Cùng với các tín ngưỡng bản
địa, hai tôn giáo Phật giáo và Hindu giáo đã phát triển một cách mạnh mẽ trên vùng
đất này. Các vị thần Hindu rất phong phú và đa dạng, trong đó thần Vishnu được
thờ cúng rộng rãi nhất. Còn thần Siva được thờ chủ yếu dưới hình thức linga và
166
yoni. Đạo Phật cũng có mặt ở đây từ rất sớm, khoảng thế kỷ II với 2 phái Đại thừa
và Tiểu thừa, được chứng minh qua các di vật: tượng Phật Thích Ca, Quan Âm và
tượng Di Lặc Bồ Tát… Các vị thần, Phật xuất hiện trong các di tích với số lượng
lớn, nhiều chủng loại, cho thấy đời sống tâm linh của cư dân nơi đây vô cùng phong
phú, đa dạng.
Bên cạnh đó, các loại hình nghệ thuật thời kỳ này đã rất phát triển. Đó là nền
nghệ thuật đặc trưng bởi kỹ thuật chạm khắc trên khuôn đúc, tạo ra những hình ảnh
được cách điệu, ổn định và có tính tiêu chuẩn hoá. Bằng những hình ảnh nghệ thuật
này, nghệ nhân Phù Nam truyền đạt một quan niệm nằm trong thế quan tôn giáo,
tiêu biểu cho xã hội nông nghiệp, thương nghiệp và thủ công nghiệp phát triển.
Thêm vào đó là sự tiếp nhận một cách linh hoạt các kỹ thuật cũng như tinh thần
nghệ thuật Ấn Độ kết hợp với nghệ thuật bản địa, để tạo ra những sản phẩm mang
đặc trưng của cư dân Óc Eo từ những thế kỷ đầu Công nguyên.
Quan niệm về thế giới quan, nhân sinh quan của cư dân Óc Eo cũng được thể
hiện rất rõ qua văn hóa ứng xử với người đã chết. Dưới con mắt của người dân nơi
đây - những tín đồ theo Ấn Độ giáo thì cái chết là khởi nguồn của mọi niềm hạnh
phúc, an lạc, là được về với một thế giới khác tốt đẹp hơn. Chính vì thế mà đồ tuỳ
táng trong các ngôi mộ cổ rất phong phú, đa dạng.
Luận án xem xét văn hóa Óc Eo trong bối cảnh giao lưu thương mại đã tác
động đến đời sống của người dân nơi đây một cách toàn diện. Nhờ lợi thế nhiều
mặt, đặc biệt là điều kiện tự nhiên mà vương quốc Phù Nam nhanh chóng có sức
hút đối với thương nhân nhiều nơi trên thế giới. Phù Nam trở thành nơi dừng chân
trên con đường buôn bán Đông - Tây, họ mang tới nhiều “đồ lạ” để đổi lấy sản vật
địa phương. Người dân nơi đây đã khéo léo tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa
khác, nhất là văn hóa Ấn Độ để tạo ra diện mạo mới, mang một sắc thái riêng. Trải
qua hàng ngàn năm tích luỹ của cải và trau dồi trí tuệ, bước vào thiên niên kỷ mới
SCN, cư dân nơi đây đã hội đủ điều kiện để thành lập nên những nhà nước sớm, có
tổ chức xã hội ngày càng hoàn chỉnh hơn, chia sẻ những thành tựu về tôn giáo, nghệ
thuật, chữ viết… của các nền văn minh lớn, tạo đà cho sự phát triển của một quốc
gia hùng mạnh trong khu vực. Phù Nam luôn luôn nỗ lực tham gia vào các hoạt
167
động trên biển và lớn mạnh thêm từ đó. Sự suy giảm các điều kiện thuận lợi và
những nguyên nhân làm thay đổi môi trường phát triển hàng hải cũng là những tác
nhân tác động không nhỏ vào sự suy tàn của nền văn hóa và văn minh Phù Nam.
2. Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo trong kho tàng văn hóa dân tộc
Đối với lịch sử - văn hóa dân tộc: Các di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo đã
được phát hiện ở vùng đồng bằng trũng thấp miền TNB, cùng với những sử liệu
Trung Hoa đã góp phần minh chứng cho một nền văn hóa - văn minh từng tồn tại
trên đất nước Việt Nam vào những thế kỷ đầu Công nguyên. Họ vốn là chủ nhân
của nền văn hóa Đồng Nai (người Mã Lai) - một nền văn hóa đạt trình độ khá cao ở
vùng miền Đông Nam Bộ, họ dần dần thâm nhập xuống vùng đất TNB để tìm sản
vật, cùng với những người đến từ vùng biển nói ngôn ngữ Nam Đảo sinh sống trên
vùng đất mới. Tại đây, họ tiếp tục tạo nên một nền văn hóa đa dạng đạt đến trình độ
cao về mọi mặt.
Giá trị của nền văn hóa Óc Eo để lại cho các thế hệ sau là rất lớn. Bởi lẽ, Phù
Nam được coi là một trong ba quốc gia hình thành sớm nhất Đông Nam Á từ thế kỷ
I SCN; cũng là một trung tâm chính trị quyền lực lớn mạnh, có tầm ảnh hưởng lớn
tới các nước trong khu vực, đã từng kiểm soát cả vùng Nam Đông Dương. Đây là
một quốc gia có nền kinh tế, mậu dịch hàng hải đặc biệt phát triển thời bấy giờ, trở
thành một cường quốc quân sự - chính trị, hình thành một nền văn hóa Phù Nam cổ
và lan toả đến các vùng lân cận, mà ngày nay còn để lại nhiều dấu ấn sâu sắc.
Trước hết, mặc dù cư dân Phù Nam dù không phải là người sáng tạo ra chữ
viết, nhưng họ đã vay mượn chữ của người Ấn Độ, chữ Brahmi theo ngôn ngữ
Sanskrit để ghi lại những sự kiện quan trọng về chính trị, tôn giáo còn lưu lại cho
đến ngày nay. Đây là một cứ liệu lịch sử vô cùng quan trọng, xác thực để những
người hôm nay có thể tìm hiểu về nền văn minh và những giá trị mà họ để lại.
Về tôn giáo, cư dân Phù Nam đã sớm có tín ngưỡng bản địa. Trong quá trình
phát triển, họ đã tiếp thu cả hai tôn giáo của nền văn minh Ấn Độ: Hindu giáo và
Phật giáo. Điều này làm cho đời sống tinh thần của họ vốn đã phong phú lại càng
thêm đa dạng, tạo dấu ấn đặc sắc cho nền văn hóa Óc Eo, để lại nhiều di vật có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học cho ngày nay.
168
Về nghệ thuật, cư dân Phù Nam đã sớm có một nền nghệ thuật phát triển.
Đặc biệt, nghệ thuật chạm khắc đã đạt đến một trình độ cao và được biểu hiện trên
nhiều hiện vật khác nhau, từ các vật dụng bằng đá, gốm, và các tác phẩm điêu khắc,
kiến trúc đến những đồ trang sức tinh vi.
Như vậy, có thể thấy rằng, văn hóa Óc Eo thực chất là sản phẩm vật chất của
vương quốc cổ Phù Nam tồn tại sáu thế kỷ đầu Công nguyên, với những địa điểm
phát hiện trải rộng hầu khắp châu thổ sông Cửu Long mà nền tảng của nó là miền
Tây sông Hậu. Nền văn hóa này tồn tại và phát triển, rực rỡ và đa dạng, tinh tế và
độc đáo cùng với không gian và thời gian của vương quốc Phù Nam. Nó còn có ảnh
hưởng lan toả ra bên ngoài châu thổ, để lại nhiều dấu tích cho đến ngày nay.
Từ những điều đó đã cho thấy vị trí và tầm quan trọng của nền văn hóa Óc
Eo vô cùng to lớn; là nền văn minh cổ nằm trên vùng châu thổ ĐBSCL. Những giá
trị văn hóa đặc sắc này là chính là một phần nằm trong dòng chảy của tiến trình văn
hóa Việt Nam. Văn hóa Óc Eo (vương quốc Phù Nam) cũng như văn hóa Sa Huỳnh
(vương quốc Champa) đều là một phần không thể thiếu trong lịch sử cổ đại Việt
Nam. Đây chính là tính đa tuyến của lịch sử Việt Nam mà trong dòng chảy của nó
ngoài dòng chủ lưu là nền văn hóa Văn Lang - Âu Lạc thì Chămpa và Phù Nam là
hai dòng hội nhập tạo nên toàn bộ lịch sử Việt Nam. Trong một bài phát biểu tổng
kết hội thảo khoa học “Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam”, GS Phan Huy Lê
từng nói rằng: “Lãnh thổ của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều trải qua những
biến động, khi mở rộng, khi bị thu hẹp và có hướng bị thu hẹp, có hướng được mở
mang, thậm chí có trường hợp bị thôn tính và sáp nhập vào nước khác. Không có một
lãnh thổ quốc gia bất biến, lãnh thổ là sản phẩm lịch sử gắn kết với công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước của các cộng đồng quốc gia, dân tộc. Quá trình hình thành
và xác lập lãnh thổ Việt Nam cũng không ngoài quy luật chung đó” [75, tr.395].
Như vậy, có thể khẳng định rằng, văn hóa Óc Eo trên vùng đất Nam Bộ, văn
hóa Champa ở miền Trung Việt Nam cùng với lịch sử của các vương quốc này là
một bộ phận của văn hóa và lịch sử văn hóa Việt Nam tạo nên sự đa dạng, phong
phú trong một chỉnh thể nền văn hóa Việt Nam.
169
Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng TNB: Ngay từ những năm đầu của
thế kỷ XX, những cổ vật đầu tiên của văn hóa Óc Eo đã được phát hiện trên cánh
đồng Óc Eo thuộc xã Vọng Thê - huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Sự phong phú về
loại hình, độc đáo về chất liệu và vẻ đẹp rực rỡ của mỹ thuật chế tác, nên đã lôi cuốn
sự chú ý của nhiều học giả nổi tiếng như: G.Coedès, L.Malleret, H.Parmentier…
Từ sau năm 1975, diện mạo văn hóa Óc Eo ngày càng rõ nét, hàng ngàn hiện
vật làm bằng các chất liệu như vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, thuỷ tinh, đá, gỗ, gốm…
đang được bảo quản và trưng bày tại bảo tàng ở các tỉnh Nam Bộ. Đây là nguồn tài
liệu chủ yếu giúp các nhà khoa học nghiên cứu về nhiều mặt đời sống cư dân văn
hóa Óc Eo. Bản thân nó chứa đựng những giá trị vô cùng to lớn của dân tộc trong
quá khứ; là tài sản vô giá của thời đại trước để lại; là một nguồn lực quan trọng để
phát triển kinh tế - xã hội vùng TNB. Bởi trong bản thân mỗi di vật đều chứa đựng
tâm hồn, in dấu những nét đẹp văn hóa phong phú, đa dạng, muôn sắc màu của một
đế chế hùng mạnh tồn tại trên đất Nam Bộ, từng thống trị cả vùng Nam Đông
Dương. Đây chính là nguồn lực phong phú, góp phần vào sự phát triển kinh tế, đưa
vùng TNB thoát ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu. Bởi lẽ, những DSVH Óc Eo thông
qua các hoạt động kinh tế, du lịch, dịch vụ đang là một trong những nguồn thu hút
vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Nó không chỉ tạo điều kiện cho ngành kinh tế du
lịch phát triển mà còn tác động đến sự tăng trưởng các ngành kinh tế khác.
3. Kiến nghị về bảo tồn và phát huy DSVH Óc Eo ở miền TNB
Văn hóa Óc Eo đã được UNESCO công nhận là DSVH thế giới. Việc bảo
tồn, khai thác di sản văn hóa này một cách đúng mực, tương xứng với tầm vóc của
nó là vấn đề bức thiết, cần được sự quan tâm của các ngành, các cấp.
Từ năm 1975 đến nay, công cuộc nghiên cứu về văn hóa Óc Eo đã có những
bước tiến khá dài, các di tích, di vật được phát hiện ngày càng nhiều trên các tỉnh,
thành Nam Bộ. Những di vật đó không chỉ được phát hiện qua các cuộc khai quật của
các nhà khảo cổ học, mà còn được dân chúng tìm thấy ngẫu nhiên hoặc do những kẻ
săn lùng cổ vật bán lại. Nhiều di vật được các bảo tàng địa phương thu mua, bảo quản.
Tuy nhiên, do nguồn kinh phí hạn chế, trình độ quản lý có hạn, nhiều di vật Óc Eo có
giá trị trôi nổi khắp nơi, gây nhiều khó khăn trong việc thu mua và bảo quản.
170
Một thực tế đang diễn ra ở các di tích thuộc văn hóa Óc Eo, cũng như nhiều
di tích khảo cổ khác là các nhà nghiên cứu không có điều kiện để khảo sát, khai
quật, nghiên cứu, nhưng những kẻ chuyên săn lùng cổ vật thì lại đang đào bới khắp
nơi. Nhiều hiện vật có giá trị được bán cho những người chuyên thu mua cổ vật rồi
bán lại cho tư nhân hoặc các bảo tàng với giá cao. Đặc biệt, một số cổ vật bằng
vàng được những người dân đem bán cho tiệm vàng để đúc thành những đồ trang
sức khác bán lại.
Một vấn đề không kém phần quan trọng, đó là các địa phương “đua nhau”
xây dựng di tích để phát triển du lịch trong khi chưa có những khảo sát tổng thể. Có
những di tích khi đào bới để xây dựng mới phát hiện phía dưới là một địa tầng văn
hóa với hàng trăm di vật có giá trị. Việc phát triển du lịch theo phong trào với
những nguồn lợi trước mắt, không theo một quy trình, quy định cụ thể, không có
tầm nhìn chiến lược cũng đang dần phá hoại các di tích một cách nghiêm trọng.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc quản lý DSVH Óc Eo vẫn còn nhiều vấn đề bất
cập. Để bảo tồn và phát huy mạnh mẽ giá trị di sản văn hóa Óc Eo ở ĐBSCL, các tỉnh,
thành phố trong khu vực cần có sự phối hợp triển khai một số hoạt động như sau:
Vấn đề cấp bách hiện nay là chúng ta phải tiến hành khảo, sát tổng thể các di
tích ở miền TNB, đánh dấu và lập bản đồ di tích trước khi tiến hành bất cứ một cuộc
khai quật hay xây dựng nào. Tránh xây dựng các loại kiến trúc nặng trong khu vực
di tích hoặc những nơi gần di tích mà chưa có những thăm dò, rà soát của những
người có chuyên môn.
Nhanh chóng xây dựng một đội ngũ những nhà nghiên cứu chuyên sâu, cơ
quan nghiên cứu nhằm nghiên cứu các di tích, di vật đã được khai quật và các tư
liệu văn tự, đặc biệt là văn bia cổ. Làm rõ các giá trị, nội dung của văn hóa Óc Eo
nhằm giúp người dân hiểu rõ để có những định hướng đúng đắn, tự nguyện tham
gia bảo tồn, khai thác, phát huy DSVH Óc Eo phục vụ phát triển du lịch dịch vụ,
nâng cao chính đời sống vật chất, tinh thần của họ.
Đào tạo và sử dụng những người có trình độ chuyên môn, có sự hiểu biết sâu
rộng về nền văn hóa này trong việc bảo tồn, phát huy di tích. Một thực trạng hiện
nay là những người tham gia vào công tác quản lý ở địa phương, hoặc làm trong các
171
ban quản lý di tích nhưng không có sự hiểu biết về di tích, không được đào tạo bài
bản hoặc thuộc những chuyên ngành khác cũng được tham gia vào công tác này.
Một số di tích được xây dựng phát triển du lịch nhưng không có người hướng dẫn,
hoặc có thì không đủ sức thuyết phục. Du khách đến tham quan không được hướng
dẫn, không thỏa mãn nhu cầu mở mang sự hiểu biết nên không mong muốn trở lại
hoặc giới thiệu cho người khác đến tham quan. Xây dựng một đội ngũ hướng dẫn
viên am hiểu văn hóa Óc Eo là rất cần thiết. Muốn thế, cần phải trang bị cho họ tri
thức lịch sử nhất định về vấn đề này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần có chính sách đầu tư thích hợp để giúp các
địa phương khẩn trương tu bổ các di tích văn hóa Óc Eo trọng điểm, đồng thời đầu
tư cho việc mua hiện vật thuộc văn hóa Óc Eo đang còn tồn trữ trong nhân dân các
địa phương.
Trong thời gian tới, kết quả nghiên cứu văn hóa Óc Eo cần được đưa vào
thực tiễn dưới những hình thức, như: tổ chức các hoạt động hội thảo, toạ đàm; đưa
lịch sử, văn hóa Óc Eo vào chương trình giảng dạy phần lịch sử địa phương ở các
nhà trường phổ thông, đại học, cao đẳng dưới hình thức thích hợp. Kết hợp với đó
là tổ chức những báo cáo chuyên đề, trưng bày, trình chiếu tư liệu, hiện vật về văn
hóa Óc Eo - Phù Nam rộng rãi trong cộng đồng. Mở các lớp tập huấn cho lãnh đạo
các địa phương, cán bộ văn hóa, đội ngũ hướng dẫn viên nhằm trang bị những tri
thức cơ bản về văn hóa Óc Eo - Phù Nam. Chỉ trên cơ sở hiểu biết vấn đề, hành
động bảo tồn, khai thác, phát huy di sản văn hóa mới có hiệu quả lâu dài.
Sau hàng ngàn năm bị hoang phế, chịu sự tàn phá của thiên nhiên (lũ lụt, sự
bồi lấp của phù sa), của con người và xã hội (chiến tranh), văn hóa Óc Eo giờ đây
chỉ còn là những phế tích và các “mảnh vụn”. Đó là những chứng cứ xác thực nhất
góp phần làm sáng tỏ quá trình khai phá, mở mang và phát triển vùng đất Nam Bộ.
Việc sưu tầm, lưu giữ, nghiên cứu và bảo tồn di tích - di vật văn hóa Óc Eo là một
vấn đề rất quan trọng cần được sự quan tâm của các ngành, các cấp và người dân
Nam Bộ. Bởi lẽ, văn hóa Óc Eo chứa đựng những giá trị lớn về vật chất và tinh
thần, có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội
ở Nam Bộ hiện nay.
172
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thị Song Thương (2010), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (310), tr.70-74.
2. Nguyễn Thị Song Thương (2010), “Di sản văn hóa Gò Tháp, giá trị và tiềm năng”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (314), tr.17-21.
3. Nguyễn Thị Song Thương (2014), “Vài nét về đồ gốm trong văn hóa Óc Eo”,
Tạp chí Di sản Văn hóa, (356), tr.55-60.
4. Nguyễn Thị Song Thương (2014), “Giao lưu, tiếp biến văn hóa Ấn Độ và văn
hóa Óc Eo”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (356), tr.13-17.
5. Nguyễn Thị Song Thương (2014), “Văn hóa mưu sinh của cư dân Óc Eo ở
miền Tây Nam Bộ”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, (12), tr.28-35.
6. Nguyễn Thị Song Thương (2014), “Một số hoạt động kinh tế nông nghiệp trong
văn hóa Óc Eo ở miền Tây Nam Bộ”, Tạp chí Khảo cổ học, (5), tr.50-57.
7. Nguyễn Thị Song Thương (2015), “Tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân Óc Eo qua
tài liệu khảo cổ học”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, (12), tr.18-26.
173
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử văn hóa Việt Nam, NXB Thuận hoá.
2. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân
ĐBSCL, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Trần Văn Bính - chủ biên (2006), Lý luận Văn hóa và Đường lối văn hóa của Đảng,
Giáo trình hệ cao cấp chính trị, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
4. Bộ Khoa học Công nghệ và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2005), Lịch sử vùng
đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, Kỷ yếu hội thảo Khoa học tại thành phố
Hồ Chí Minh.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Viện Kinh tế và Quy hoạch thuỷ sản
(2009), Quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng ĐBSCL đến năm
2015 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
6. Các Hiến chương quốc tế về bảo tồn và trùng tu (2004), NXB Xây dựng, Hà Nội.
7. Hà Văn Cẩn (2010), “Di tích kiến trúc văn hóa Óc Eo tại tỉnh Bến Tre”, Tạp chí
Khảo cổ học, (6), tr.27-35.
8. Thái Văn Chải (1986), “Chữ cổ trên những hiện vật vàng ở di chỉ Đá Nổi, huyện
Thoại Sơn (An Giang)”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 47-51.
9. Thái Văn Chải (2009), Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Trung Chiến, Lê Hải Đăng (2011), “Các loại hình mộ táng và phương
thức chôn cất của cư dân tiền - sơ sử trên các hải đảo ven biển miền Nam
Việt Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, (2), tr.15-33.
11. Hoàng Xuân Chinh (2009), Các nền văn hóa cổ Việt Nam (từ thời nguyên thuỷ
đến thế kỷ 19), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
12. Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, NXB Phương
Đông, Hà Nội.
13. Đào Linh Côn (1985), Báo cáo khai quật di tích Đá Nổi, Tư liệu Viện Khoa học
Xã hội, thành phố Hồ Chí Minh.
174
14. Đào Linh Côn (1995), Mộ táng trong văn hóa Óc Eo, Luận án phó tiến sĩ khoa
học lịch sử, Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
15. Đào Linh Côn (2004), Một số di tích tiêu biểu của văn hóa Óc Eo trên đất Nam
Bộ, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam - Kỷ yếu hội thảo nhân
60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944 - 2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
16. Đào Linh Côn (2009), Nhìn lại một số di tích quan trọng ở Nam Bộ, trong Hội
thảo khoa học Văn hóa Óc Eo - Nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát huy
giá trị di tích, thành phố Long Xuyên.
17. Đào Linh Côn, Lê Xuân Diệm (2009), Giá trị văn hóa Óc Eo ở miền Tây Nam
Bộ, Đề tài khoa học cấp bộ, thành phố Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Lân Cường (2005), Báo cáo về di cốt người cổ ở di tích An Sơn, tư liệu
Bảo tàng Long An.
19. Nguyễn Lân Cường (2008), Di cốt người cổ ở Nam Bộ, trong Văn hóa Óc Eo và
Vương quốc Phù Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện
văn hóa Óc Eo (1944-2004), NXB Thế Giới, Hà Nội, tr.177-199.
20. Nguyễn Mạnh Cường, Hà Văn Cẩn, Báo cáo điều tra khai quật di chỉ khảo cổ học
Cạnh Đền, Thư viện Khảo cổ học, Ký hiệu HS356, tài liệu đánh máy.
21. Bùi Phát Diệm, Đào Linh Côn, Vương Thu Hồng (2001), Khảo cổ học Long An
những thế kỷ đầu Công nguyên, Sở Văn hóa Thông tin Long An - Bảo
tàng Long An, Long An.
22. Bùi Phát Diệm (2003), Di tích văn hóa Óc Eo ở An Giang, Luận án tiến sĩ khảo
cổ học, Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
23. Lê Xuân Diệm (1983), Báo cáo kết quả khảo sát và khai quật di chỉ Ba Thê - Óc
Eo, Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu đánh máy.
24. Lê Xuân Diệm (1984), Báo cáo khai quật di tích Ba Thê - Óc Eo (Thoại Sơn - An
Giang), Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
25. Lê Xuân Diệm (1984), Óc Eo - một đô thị xưa hay một trung tâm văn hóa cổ,
trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở ĐBSCL, Sở Văn hóa và Thông
tin An Giang.
175
26. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo những khám
phá mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
27. Lê Xuân Diệm (2004), Quá trình hình thành châu thổ sông Cửu Long (tiếp cận
từ địa-sử học và thư tịch học), trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù
Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo
(1944-2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
28. Lê Xuân Diệm (2008), Ba mươi năm khám phá và nghiên cứu văn hóa Óc Eo,
trong Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, tập 3, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
29. Lê Xuân Diệm (2011), Thử đề xuất vài khác biệt lớn về văn hóa - xã hội giữa
thời tiền sử muộn và thời sơ sử ở Nam Bộ, Việt Nam, trong Một số vấn đề
khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
30. Ngô Văn Doanh (2011), “Những ảnh hưởng của Ấn Độ đến đời sống chính trị - xã
hội Đông Nam Á thời cổ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (01), tr.19.
31. Nguyễn Thị Kim Dung (1996), Công xưởng và kỹ thuật chế tạo đồ trang sức bằng
đá thời đại đồng thau ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam
và Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Phạm Đức Dương (2013), Từ văn hóa đến văn hóa học, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội, tr.35-36.
34. Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Văn Thuận (2004), Lịch sự phát triển cổ địa lý trong kỷ
đệ tứ ở đồng bằng Nam Bộ, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam -
Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944-
2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
35. Nguyễn Tấn Đắc (2010), Văn hóa Đông Nam Á, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
36. Trần Độ - chủ biên (1984), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, NXB Văn hóa,
Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Hậu, Lê Thanh Hải (2010), Khảo cổ học bình dân Nam Bộ Việt Nam từ
thực nghiệm đến lý thuyết, NXB Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh.
176
38. Nguyễn Xuân Hiển (1984), Nghề trồng lúa cổ ở Óc Eo, trong Văn hóa Óc Eo và
các văn hóa cổ ở ĐBSCL - Sở văn hóa và Thông tin An Giang.
39. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long, NXB
Thời Đại, Hà Nội.
40. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, NXB Thanh Niên,
Hà Nội.
41. Diệp Đình Hoa (1978), “Nền văn minh nông nghiệp của cư dân thời đại đồng và
sơ kỳ thời đại đồ sắt ở miền Đông Nam Bộ”, Tạp chí Dân tộc học, (03).
42. Lê Như Hoa (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
43. Nguyễn Đức Hoà (2012), “Những vấn đề liên quan đến tư liệu giảng dạy lịch sử
Phù Nam và Campuchia cổ trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (03).
44. Trịnh Thị Hoà (1995), “Các di tích Văn hóa Óc Eo - vài suy nghĩ”, Tạp chí
Khảo cổ học, (02).
45. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
46. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2004), Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù
Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo
(1944 - 2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
47. Hội Khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam,
NXB Thế giới, Hà Nội.
48. Vương Thu Hồng (2007), “Di tích văn hóa tiền Óc Eo ở Long An với mối quan
hệ xa - gần trên vùng châu thổ sông Cửu Long”, Tạp chí Khảo cổ học, (04).
49. Vương Thu Hồng (2008), Di tích Gò Ô Chùa (Vĩnh Hưng - Long An), Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
50. Nguyễn Việt Hùng (2010), “Tục thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam”,
http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-to-chuc-doi-
song-ca-nhan/1700-nguyen-viet-hungtuc-tho-da-trong-tin-nguong-dan-
gian-viet-nam.html, truy cập ngày 15 tháng 01 năm 2015.
51. Trương Sỹ Hùng (2010), Tôn giáo trong đời sống văn hóa Đông Nam Á, NXB
Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
177
52. Phạm Minh Huyền (1996), Văn hóa Đông Sơn tính thống nhất và đa dạng,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
53. Lê Hương (1974), Sử liệu Phù Nam, Nguyên Nhiều, Sài Gòn.
54. Nguyễn Thị Hoài Hương, Tokusawa Keiichi, Yuko Hirano (2011), Nghiên cứu
kỹ thuật chế tạo thuỷ tinh cổ qua sưu tập trang sức tại bảo tàng lịch sử
Việt Nam TP.HCM, trong Một số vấn đề Khảo cổ học ở miền Nam Việt
Nam, tập 4, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Mai Hương, Lê Thị Liên (2013), “Môi trường Tây Nam Bộ qua kết
quả phân tích bào tử phấn hoa ở một số di chỉ văn hóa Óc Eo”, Tạp chí
Khảo cổ học (số 2), tr.43-59.
56. G.E. Coedès (2011), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hoá Viễn Đông, NXB Thế giới,
Hà Nội, Nguyễn Thừa Hỷ dịch.
57. Geetesh Sharma (2012), Những dấu vết văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam, NXB Văn
hóa Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
58. Lương Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều, NXB Thế giới, Hà Nội.
59. Lê Trung Khá (1985), Về những sọ cổ mới phát hiện ở An Giang và Đồng Tháp
trong Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1984, tr. 247-250.
60. Lê Trung Khá (1989), Tổng quan về di cốt người cổ và động vật cổ ở khu di tích
Cạnh Đền (đợt thám sát tháng 3 và 4/1986), Tư liệu Viện Khoa học Xã hội,
thành phố Hồ Chí Minh.
61. Võ Sĩ Khải (1983), Báo các khai quật khu di tích Nền Chùa (xã Tân Hội, huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang), Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí
Minh, tài liệu đánh máy.
62. Võ Sĩ Khải (1984), Báo cáo sơ bộ khai quật đợt 1 di chỉ Miếu Bà Chúa Xứ,
huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành
phố Hồ Chí Minh.
63. Võ Sĩ Khải (1986), Khảo sát di tích Cạnh Đền, Kiên Giang 1986, Tư liệu Viện
Khảo cổ học.
64. Võ Sĩ Khải (1997), Văn hóa Óc Eo - hai mươi năm nhìn lại, trong Một số vấn đề
Khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
178
65. Võ Sĩ Khải (2008), Văn hóa Óc Eo sáu mươi năm nhìn lại trong Văn hóa Óc Eo
và vương quốc Phù Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát
hiện văn hóa Óc Eo (1944 - 2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
66. Đặng Ngọc Khánh (2011), Lý thuyết của Jared Diamond về sự sụp đổ của các xã
hội và trường hợp vương quốc Phù Nam, trong Một số vấn đề khảo cổ học ở
miền Nam Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
67. Đinh Trung Kiên (2009), “Tìm hiểu nền văn minh Đông Nam Á”, NXB Giáo
dục Việt Nam, Hà Nội
68. Nguyễn Văn Kim (2008), “Thể chế biển Srivijana và các mối quan hệ khu vực”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (01), tr.3.
69. Nguyễn Văn Kim (2011), “Mối quan hệ giữa Lục Chân Lạp và Thuỷ Chân Lạp”,
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (01).
70. Nguyễn Văn Kim (2011), “Dấu ấn cổ sơ của các xã hội Đông Nam Á”, Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, (11), tr.34.
71. Đặng Ngọc Kính (2012), “Lý thuyết của Jared Diamond về sự sụp đổ của các xã
hội và trường hợp Phù Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, (01), tr.83.
72. Nguyễn Trường Kỳ (1996), Đồ thuỷ tinh cổ ở Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
73. Phan Huy Lê (2007), Lịch sử văn hóa Việt Nam tiếp cận bộ phận, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
74. Phan Huy Lê (2007), “Qua di tích văn hóa Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện
nước Phù Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 379 (11), tr.13.
75. Phan Huy Lê (2008), Bài phát biểu tổng kết hội thảo khoa học Văn hóa Óc Eo
và vương quốc Phù Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát
hiện văn hóa Óc Eo (1944 -2004), NXB Thế giới, Hà Nội.
76. Phan Huy Lê (2009), Lịch sử vùng đất Nam Bộ đến cuối thế kỷ XIX, trong Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam: Một số vấn đề lịch sử vùng đất Nam Bộ đến
cuối thế kỷ XIX, NXB Thế giới, Hà Nội.
77. Phan Huy Lê (2011), Đề án Khoa học xã hội cấp Nhà nước, Quá trình hình
thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, Hà Nội.
179
78. Ngô Văn Lệ (2012), “Về mối quan hệ cội nguồn của cư dân Nam Bộ thời cổ đại
với một số tộc người ở Tây Nguyên”, Tạp chí Phát triển Khoa học và
Công nghệ, 16 (X1/2012), tr.41-47.
79. Vũ Đức Liêm (2011), “Tiếp cận khu vực học trong nghiên cứu cổ sử Đông Nam Á:
trường hợp Srivijaya”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (9).
80. Lê Thị Liên, Nguyễn Hai Nghĩa (1984), Về nhóm hiện vật bằng đồng phát hiện
được ở An Giang, Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội.
81. Lê Thị Liên, Phạm Thị Hồ (1995), Khai quật khu di tích Đá Nổi huyện Tân
Hiệp (Kiên Giang), Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội.
82. Lê Thị Liên (1997), Về vật liệu hợp mái của các kiến trúc trong Văn hóa Óc Eo,
trong Một số vấn đề về khảo cổ học miền Nam Việt Nam, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
83. Lê Thị Liên, M.Witzet (2000), Thêm một cách đọc chữ viết trên các lá vàng ở
khu mộ Đá Nổi (An Giang), Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội.
84. Lê Thị Liên, Trần Văn Nam, Võ Tánh Nghĩa, Nguyễn Thị Bé Tư, Phạm Như Hồ,
Lương Ninh, Nguyễn Đình Bướng (2001), Những hiện vật đáng chú ý qua
khai quật di chỉ Gò Tháp (1-2001), Những phát hiện mới về khảo cổ học,
Hà Nội.
85. Lê Thị Liên (2006), Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở ĐBSCL trước thế kỷ X,
NXB Thế giới, Hà Nội.
86. Lê Thị Liên (2008), “Tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa truyền thống
Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (08), tr.41.
87. Lê Thị Liên, Lê Xuân Diệm (2014), “Tiếp xúc và giao lưu văn hóa Ấn Độ - Đông
Nam Á: Chứng tích từ Nam Việt Nam những thế kỷ trước, sau Công nguyên”,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (03).
88. Nguyễn Văn Long (1984), Khai quật những gò đá ở khu di tích Óc Eo (Thoại
Sơn - An Giang), Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Văn Long (1984), Báo cáo thám sát quanh chân núi Ba Thê - Óc Eo
(An Giang), Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
180
90. Nguyễn Văn Long (1997), Di tích văn hóa Óc Eo miền Đông Nam Bộ - Những
phát hiện mới ở Đồng Nai, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện
Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
91. Louis Malleret (1960), L’Archéologie du delta du Mékong - Volume XLIII - La
civilisation mat érialle d’Oc - Eo. École Francaise d’Extrêmxe orient,
Pari (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam dịch).
92. Louis Malleret (1959 - 1963), L’Archéologie du delta du Mékong - 2 ème partie.
Volume II - La civilisation mat érialle d’Oc - Eo. École Francaise
d’Extrêmxe orient, Pari (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam dịch).
93. Louis Malleret (1959 - 1963), L’Archéologie du delta du Mékong - 3 ème partie.
Volume II - La civilisation mat érialle d’Oc - Eo. École Francaise
d’Extrêmxe orient, Pari (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam dịch).
94. Nguyễn Đức Lưu, Bùi Phát Diệm (1989), Thám sát một số di tích thuộc văn hóa
Óc Eo ở Đồng Tháp Mười (Long An), Tư liệu Viện Khoa học Xã hội thành
phố Hồ Chí Minh.
95. Nguyễn Quốc Mạnh (2009), Đồ Gốm Óc Eo trong di chỉ cư trú khu di tích Gò
Tháp (huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), Luận văn thạc sĩ sử học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh.
96. Phạm Đức Mạnh (2010), “Các phức hệ di tích văn hóa thời tiền sử - cổ sử trên
đất An Giang (Việt Nam)”, Tạp chí Khảo cổ học, (01).
97. Phạm Đức Mạnh (2010), “Ứng dụng GIS trong xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu
đề tài: Những di tích khảo cổ học văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở An Giang”,
Tạp chí Khảo cổ học, (05).
98. Dương Thị Ngọc Minh (2011), “Vishnu giáo ở vùng đất Đồng Tháp qua các tài
liệu khảo cổ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (07), tr.42-45.
99. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
100. Hà Hữu Nga (2001), Văn hóa Bắc Sơn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
101. Nguyễn Xuân Ngọc (2013), Văn hóa Đa Bút tiếp cận văn hóa học tiền sử,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
181
102. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
103. Lương Ninh (1984), Văn hóa cổ ĐBSCL trong quan hệ khu vực tộc người,
trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở ĐBSCL, Sở văn hóa và Thông
tin An Giang.
104. Lương Ninh, Vương quốc Phù Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
105. Lương Ninh (2001), “Về vấn đề tộc người Phù Nam và cư dân ở Nam Bộ -
Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (02).
106. Lương Ninh (2005), Vương quốc Phù Nam - Lịch sử và Văn hóa, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
107. Lương Ninh (2006), Vương quốc Champa, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
108. Lương Ninh - chủ biên (2008), Lịch sử Đông Nam Á, NXB Giáo dục, Hà Nội.
109. Lương Ninh (2011), “Tiền tệ Phù Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, (02), tr.68-76.
110. Lương Ninh (2011), “Óc Eo - cảng thị quốc tế của vương quốc Phù Nam”,
Tạp chí Khảo cổ học, (03), tr.39- 42.
111. Nishimura Masanari (2002), Những đặc trưng và phân kỳ giai đoạn đồ gốm di
chỉ Nhơn Thành (Cần Thơ), Những phát hiện mới về khảo cổ học, Hà Nội.
112. Nishimura Masanari (2003), Nhận thức bước đầu về đồ gốm địa điểm chân Gò
Minh Sư (Gò Tháp - Đồng Tháp), Những phát hiện mới về khảo cổ học,
Hà Nội.
113. Cao Xuân Phổ (1984), Óc Eo trong sự phát triển thương mại ở Đông Nam Á,
trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở ĐBSCL, Sở văn hóa và Thông
tin An Giang.
114. Cao Xuân Phổ (1994), “Văn hóa biển ở Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, (04).
115. Cao Xuân Phổ (2009), Óc Eo, một trung tâm văn hóa - thương mại ở Nam
Đông Dương trong 6 thế kỷ đầu Công nguyên, trong Hội thảo khoa học
Văn hóa Óc Eo - nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích,
thành phố Long Xuyên.
182
116. Châu Đạt Quan (2007), Chân Lạp phong thổ ký, NXB Văn Nghệ, thành phố
Hồ Chí Minh, Lê Hương dịch.
117. Trịnh Sinh, Nguyễn Văn Huyên (2001), Trang sức của người Việt cổ, NXB
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
118. Nguyễn Khắc Sử (2007), “Tản mạn đôi điều về di sản nhân ngày Di sản văn
hóa Việt Nam”, Tạp chí Di sản văn hóa, (04), tr.14-15.
119. Nguyễn Khắc Sử (2010), “Văn hóa Sa Huỳnh - văn hóa Lung Leng: Những
mối liên hệ”, Tạp chí Khảo cổ học, (05), tr.64-78.
120. Nguyễn Hữu Tâm (2004), Khái quát về Phù Nam - Chân Lạp qua ghi chép của
các thư tịch cổ Trung Quốc, trong Văn hóa Óc Eo và vương quốc Phù Nam -
Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944-2004),
NXB Thế giới, Hà Nội.
121. Bùi Thị Tân (2012), “Quan hệ thương mại Đàng Trong với Chân Lạp và Xiêm
La thế kỷ XVII - XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (04), tr.48-54.
122. Hà Văn Tấn (1985), “Miền Nam Việt Nam trong bối cảnh tiền sử Đông Nam Á”,
Tạp chí Khảo cổ học, (03).
123. Hà Văn Tấn - chủ biên (1994), Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
124. Hà Văn Tấn - chủ biên (1998), Theo dấu các văn hóa cổ, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
125. Hà Văn Tấn (1999), Khảo cổ học Việt Nam - thời đại kim khí Việt Nam, tập 2,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
126. Đặng Quang Thành, Lưu Hoàng Chương, Phan Công Khanh (2003), Một số
vấn đề về văn hóa và lý luận văn hóa hiện nay, NXB Giáo dục, Hà Nội.
127. Đặng Văn Thắng, Võ Thị Huỳnh Như (2012), “Trung tâm tôn giáo Gò Tháp
(Đồng Tháp)”, Tạp chí Khảo cổ học, (06), tr.71-90.
128. Đặng Văn Thắng (2013), “Óc Eo - Ba Thê trong vương quốc Phù Nam”, Tạp
chí Khảo cổ học, (03), tr.58-62.
129. Đặng Văn Thắng (2013), Báo cáo khảo cổ học khai quật Gò Minh Sư (Gò Tháp,
Đồng Tháp).
183
130. Lê Ngọc Thắng (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Nam Bộ Việt Nam,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
131. Nguyễn Mạnh Thắng (2013), Thuyền độc mộc Tân Điền - Tiền Giang, trong
Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2012, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
132. Ngô Đức Thịnh (2010), “Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống các tộc
người ở Tây Nguyên”, Tạp chí Phát triển kinh tế và xã hội Đà Nẵng, (02
và 03), tr.50-55.
133. Ngô Đức Thịnh - chủ biên (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam,
NXB Trẻ, Hà Nội.
134. Lục Đức Thuận, Võ Quốc Kỳ (2009), Tiền cổ Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
135. Nguyễn Phan Thọ (2010), Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
136. Lê Xuân Thuyên (2005), “Áp dụng các phân tích địa chất môi trường để xác định
lòng kênh cổ thuộc văn hóa Óc Eo”, Tạp chí Khảo cổ học, (04) , tr.76-82.
137. Tống Trung Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn Minh Sang (1996), Khai quật di tích
Gò Cây Tung (An Giang) lần thứ hai trong Những phát hiện mới về Khảo
cổ học năm 1995, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 233.
138. Phan Thanh Toàn (2011), “Khảo cổ học tiền sử An Giang và vấn đề nguồn
gốc văn hóa Óc Eo”, Tạp chí Khảo cổ học, (01), tr.16-26.
139. Phan Thanh Toàn, Huỳnh Kim Bảng, Lâm Thành Trung (2013), “Phát hiện di
tích Óc Eo ở Hà Tiên (Kiên Giang)”, trong Những phát hiện mới về khảo
cổ học 2013, tr.706-708.
140. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Khoa học Xã hội
thành phố Hồ Chí Minh (1997), Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam
Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
141. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học Những vấn
đề lý luận và thực tiễn về đời sống văn hóa, môi trường văn hóa.
184
142. Mai Văn Tùng (2012), “Quá trình xác lập kinh tế nông nghiệp sớm ở Việt
Nam và Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (09), tr.9-16.
143. Trịnh Cao Tưởng (1994), Văn hóa Óc Eo - Nhận thức sau ba mùa điền dã
khảo cổ học, Bài viết tham dự hội thảo Khoa học về Óc Eo tại Đại học
Hawai - Hoa Kỳ.
144. Nguyễn Duy Tỳ, Nguyễn Phụng Anh (1995), Những hiện vật văn hóa Óc Eo ở
Bảo tàng tỉnh Cần Thơ, Bảo tàng tỉnh Cần Thơ.
145. Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật, Sở Văn hóa Thông tin - Thể dục Thể thảo An
Giang (1992), Khảo cổ An Giang Văn hóa Óc Eo, Thông tin chuyên đề.
146. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2009),
Hội thảo khoa học Văn hóa Óc Eo - Nhận thức và giải pháp bảo tồn, phát
huy giá trị di tích, thành phố Long Xuyên.
147. Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam - Bảo tàng lịch sử Việt Nam thành phố Hồ
Chí Minh (1998), Khảo cổ tiền sử và sơ sử thành phố Hồ Chí Minh, thành
phố Hồ Chí Minh.
148. Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh - Uỷ ban nhân dân tỉnh An
Giang (1984), Văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long,
Sở Văn hóa và Thông tin An Giang xuất bản.
149. Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh - Trung tâm nghiên cứu khảo
cổ học (2004), Một số vấn đề khảo cổ học ở Miền Nam Việt Nam, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
150. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Khảo cổ học (2005), Một thế kỷ Khảo
cổ học Việt Nam, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
151. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ (2008),
Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
152. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện phát triển bền vững vùng Nam Bộ (2011),
Một số vấn đề khảo cổ học ở miền Nam Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
185
153. Hoàng Vinh (1995), Tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, trong Đường
lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
154. Nguyễn Thị Vân (2012), “Ảnh hưởng của Hindu giáo đối với kiến trúc và điêu
khắc của một số vương quốc cổ Đông Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, (09), tr.46-53.
Tiếng Anh
155. Bellwood, Peter, et. al 2011. An Son and the Neolithic of Southern Vietnam,
AP, Vol. 50 (1&2), Spring/ Fall 2011, 144-175.
156. G.E. Coedès (1931), Deux Isncriptions Sanskrites du Fou-nan, BEFEO,
T.XXXI.
157. Vo Si Khai 2003. The Kingdom of Fu Nan and the culture of Oc Eo. In J. C.
M. Khoo (ed.), Art & Archaeology of Fu Nan: Pre-Khmer Kingdom of the
Lower Mekong Valley, pp. 35-86. Bangkok: Orchid Press.
158. Le Thi Lien 2006. Excavations at Minh Su Mound, Go Thap site, Dong Thap
Province, South Vietnam, Uncovering Southeast Asia’s past - Selected
papers from the 10th International Conference of the European
Association of Southeast Asian Archaeologists, NUS Press, Singapore.
159. Lê Thị Liên, Nguyễn Thị Bé Tư (2011), Chứng tích chế tác điêu khắc ở di tích
Gò Tháp [Evidence of stone sculpture manufacturing from Go Thap site],
paper presented in the annual conference “New Discoveries in
Archaeology of 2010”.
160. Miksic, J. N. 2003. Introduction: The Beginning of Trade in Ancient Southeast
Asia: the Role of Oc Eo and the Lower Mekong River, Art and
Archaeology of Fu Nan, Edited by Jame C. M. Khoo, The Southeast Asian
Ceramic Society, Bangkok, Thailand, pp.1-34.
161. Moorhead, A History of Malaya and her Neibours, 1957, Vol. I, pp. 10 -118.
162. Peter Bellwood, Judith Cameron, Nguyen Viet, Bui Van Liem 2007 Ancient
Boats, Boat Timbers, and Locked Mortise-and-Tenon Joints from
186
Bronze/Iron-Age Northern Vietnam, The International Journal of Nautical
Archaeology (2007) 36.1: 2-20, The Nautical Archaeology Society,
Blackwell Publishing Ltd; Wei Weiyan and Shiung Chung-Ching 2014.
Viet Khe Burial 2: Identifying the Exotic Bronze Wares and Assessing
Cultural Contact between Dong Son and Yue Cultures, Bài trình bày tại
Hội nghị IPPA lần thứ 20, Siem Riep, 13-17/1/2014.
163. Peter Bellwood et. al. 2007.
164. P.Pelliot, Le Fou-nan, BEFO III, 1931.
165. Southern institute for social sciences - Archaeological research centre (2012),
Results report on the exigency excavation of a dugout boat a Nhon Trach
archaeological relic area (Phong Dien district - Can Tho city) (august 2012),
Ho Chi Minh city.