REV. JUDE WINKLER, OFM Conv.
Transcript of REV. JUDE WINKLER, OFM Conv.
REV. JUDE WINKLER, OFM Conv. Imprimi Potest: Michael Kolodziej, OFM Conv., Minister Provincial of St. Anthony of Padua Province (USA) Nihil Obstat: Rev. James M.Cafone. M.A., S.T.D., Censor Librorum Imprimatur: + Most Rev. John J. Myers,
J.C.D., D.D., Archbishop of Newark The Nihil Obstat and imprimatur are ofliciai declarations that a book or pamphlet is free ot doctrinal or moral error. No implication Is contained
therein that those who have granted the Nihil Obstat and Imprimatur agree with the contents, opinions or statements expressed.
1
2
KAROL WOJTYLA ĐƯỢC SINH RA
Đức giáo hoàng Gỉoan Phaolo II được sinh tại một thị
trấn nhỏ gần Krakow, Ba Lan, vào ngày 18 tháng 5 năm 1920.
Ngài là con thứ hai của Emilia và Karol, một sĩ quan quân đội
của Ba Lan. Cậu bé được rửa tội một tháng sau đó vào ngày
20 tháng 6 và được đặt tên là Karol (theo tiếng Anh có nghĩa là
Charles hoặc là Carl).
Ngay từ nhỏ, Karol đã phải chịu nhiều mất mát. Mẹ qua
đời khi Karol mới chỉ 9 tuổi và người anh Edmond cũng mất khi
Karol mới 12 tuổi. Karol lớn lên trong tình yêu thương và sự dạy
dỗ của người cha. Cha ngài là một mẫu gương tuyệt vời về đức
tin. Ông dạy các con biết phó thác mọi sự trong tay Chúa. Cậu
bé Karol còn nhớ có lần giật mình thức giấc trong đêm và thấy
bố đang quỳ gối cầu nguyện.
Ngay từ những năm đầu đời, ngài đã hết lòng tin cậy
vào Đức Maria, và cũng như hầu hết những người Công giáo
Ba Lan, ngài cũng hành hương viếng Đức Mẹ Đen (Black
Madonna). Đến năm 15 tuổi, ngài gia nhập Hội đạo binh Đức
Mẹ.
Cậu bé Karol cũng cho thấy những biểu hiện của niềm
đam mê sân khấu. Những năm học trung học ngài hình thành
nhóm kịch đầu tiên của ngài. Sau này, chính ngài đã viết một
số kịch bản.
4
ĐỨC QUỐC XÃ CHIẾM ĐÓNG BA LAN
Khi lên 18 tuổi, Karol theo học triết và văn học tại trường
đại học Krakow.
Việc học của ngài bị gián đoạn khi Đức quốc xã chiếm
đóng Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939. Ngay lập tức, bọn
chúng đóng cửa các trường đại học và bỏ tù các giáo sư.
Chế độ Phátxít thật tàn ác. Chúng bắt giam rất nhiều
người chỉ bởi vì họ có học thức hoặc họ là những người đứng
đầu trong xã hội. Nhiều người trong số đó hầu như không bao
giờ gặp lại.
Karol phải tìm cho mình một công việc nếu không muốn
bị bắt và đưa vào các trại lao động khổ sai. Anh tìm được công
việc ở một mỏ đá, nơi anh cũng như nhiều người khác phải làm
việc hết sức vất vả. Không lâu sau, anh được chuyển tới làm việc
trong một nhà máy hóa chất.
Mặc dù phải làm việc trong điều kiện vất vả, anh vẫn tiếp
tục trau dồi kiến thức bằng cách đọc những sách mà anh có.
Các đồng nghiệp rất quý mến anh và họ thường để anh đọc sách
ngay trong giờ làm việc. Karol cũng tham gia vào một đoàn kịch
để biểu diễn tại các căn hộ riêng. Việc này hết sức nguy hiểm vì
nếu Đức quốc xã phát hiện, bọn chúng sẽ bắt anh.
7
ĐỜI SỐNG TÂM LINH CỦA KAROL
Đầu năm 1941, cha ngài qua đời để lại mình ngài trơ trọi
trong thời kỳ đen tối này.
Tuy nhiên, những khó khăn đó không lay chuyển được
niềm tin của Karol. Trái lại, ngài còn cảm thấy điều gì đó rất đặc
biệt trong tâm hồn mình.
Người có ảnh hưởng lớn đến đời sổng tâm linh của Karol
là bác thợ may Jan Tyranowski. Tuy chỉ là thường dân nhưng
ông đã đọc và học hỏi những bài viết của thánh Têrêsa thành
Avila và thánh Gioan Thánh giá. Karol cũng thấm thía những
lời dạy của các vị ấy. Từ lúc đó, ngài viết về áo Đức Bà (Việc
đạo đức do các tu sĩ Carmelo phổ biến).
Càng ngày, ngài càng cảm thấy được mời gọi sống đời
linh mục. Tuy nhiên, tại thời điểm ấy, Đức quốc xã đã đóng cửa
các Đại chủng viện. Ngài đã nói chuyện với nhiều linh mục và
cả với Tổng giám mục địa phận. Cuối cùng, ngài bắt đầu tự
học, tự đào luyện. Mặc dù phải làm việc cả ngày, ngài vẫn dành
chút thời gian trước và sau khi làm việc để học. Đôi khi, ngài
cũng tận dụng cả giờ nghỉ để trau dồi kiến thức.
Đầu năm 1944, ngài bị xe tông khi đang cố gắng cứu
sống một người và phải nằm viện 2 tuần. Cuối năm ấy, Chủng
viện ở Krakow mở cửa trở lại và ngài có thể dành toàn thời gian
cho việc tu học để trở thành linh mục.
7
TỪ MỘT LINH MỤC TRẺ
TRỞ THÀNH GIÁM MỤC
Ngày 1 tháng 11 năm 1946, Karol Wojtyla được lãnh
nhận chức linh mục. Hai tuần sau, Đức tổng giám mục đã
gởi ngài đi học tại trường Angelicum ở Roma. Ngài đã nhận
bằng tiến sĩ tại đây vào tháng 6 năm 1948.
Trở về Ba Lan, Cha Karol được bổ nhiệm làm linh mục
phụ tá. Mặc dù phải làm việc ở nhiều giáo xứ khác nhau, ngài
vẫn tiếp tục học tập và có thêm một bằng tiến sĩ nữa.
Năm 1953, ngài bắt đầu dạy tại trường đại học Công
giáo mới thành lập ở Krakow. Không lâu sau, khi trường này
bị cộng sản đóng cửa, ngài dạy tại Đại chủng viện và tại
trường Đại học Công giáo ở Lublin, một thành phố khác của
Ba Lan.
Ngài cũng là tuyên úy cho các sinh viên và là nhân
viên y tế. Trong các tác phẩm viết vào thời gian này, ngài
bày tỏ quan tâm về những điều cần thiết cho đời sống tâm
linh của sinh viên. Trong số đó, tác phẩm Tình Yêu và Sự Đáp
Trả, đề cập tới vấn đề làm thế nào để người nam và người
nữ thể hiện tình cảm của mình trong hôn nhân.
Năm 1958, Cha Karol Wojtyla được bổ nhiệm làm
giám mục phụ tá giáo phận Krakow. Đây là khoảng thời gian
hết sức khó khăn cho các linh mục và giám mục tại Ba Lan
khi cộng sản dùng mọi biện pháp để cản trở các hoạt động
tôn giáo.
TỪ GIÁM MỤC ĐẾN HỒNG Y
Đức giám mục Karol Wojtyla ngay lập tức chứng tỏ tài
năng của mình khi ra sức bảo vệ những nhu cầu thiết yếu
của Hội thánh trong khi vẫn làm hài lòng nhà cầm quyền
cộng sản. Ngài dành nhiều thời gian quan tâm đến mọi
người.
Đây là lý do ngài được chọn cho chức vụ Tổng giám
mục của Giáo phận Krakow, năm 1962 Tổng giám mục của
ngài qua đời. Năm 1965, Ngài được chính thức bổ nhiệm làm
Tổng giám mục Krakow.
Trên cương vị Tổng giám mục, ngài tham dự Công
đồng chung Vaticano II được tổ chức từ năm 1962 đến 1965.
Với kiến thức uyên thâm và sự khôn ngoan, ngài được mời
tham gia soạn thảo nhiều văn kiện của công đồng, trong đó
có văn kiện về Giáo Hội Trong Thế Giới Hôm Nay.
Đức giáo hoàng Phaolo VI nhận biết tài năng và
những đóng góp của ngài cho Công đồng, đã trao cho ngài
mũ hồng y năm 1967. Các hồng y là những cố vấn của Đức
giáo hoàng và là những người có thể bầu chọn giáo hoàng
khi một vị giáo hoàng qua đời.
Là hồng y, ngài không chỉ chăm lo cho Giáo phận
mình mà cho cả Giáo hội toàn cầu. Ngài đến nhiều quốc gia
để tham dự các buổi gặp gỡ, thuyết giảng, nêu lên những
khó khăn của Giáo hội khi phải sống trong chế độ cộng sản,
cũng như để học tập những điều hay từ những nơi ngài đi
qua.
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
Tháng 8 năm 1978, Đức giáo hoàng Phaolo VI qua
đời. Cùng với các Hồng y trên toàn thế giới, hồng y Karol
Wojtyla về Roma để bầu giáo hoàng mới. Đức hồng y Luciani
được chọn. Danh hiệu của ngài là Gioan Phaolo I (được ghép
theo tên của 2 giáo hoàng tiền nhiệm là Gioan XXIII và Phaolo
VI). Tuy nhiên, triều đại của ngài chỉ kéo dài được 33 ngày.
Một lần nữa, các hồng y phải tập hợp lại để bầu một giáo
hoàng mới.
Ngày 14 tháng 10 năm đó, các hồng y tiến vào Mật
tuyển viện để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Hai ngày sau,
Hồng y đoàn đã chọn hồng y Karol Wojtyta làm Giáo hoàng
thứ 264 của Giáo hội Công giáo. Ngài lấy danh hiệu là Gioan
Phaolo II để tưởng nhớ vị Giáo hoàng tiền nhiệm.
Kể từ Đức Giáo Hoàng Adriano năm 1520 trong gần
500 năm qua, tất cả các Giáo hoàng đều là người Ý. Khi Đức
Gioan Phaolo II đứng nơi cửa sổ đền thờ thánh Phêrô để chào
giáo dân đang đứng nơi quảng trường thánh Phêrô, ngài nói
rằng ngài đến từ một nơi rất xa và nếu tiếng ý của ngài không
được chuẩn xác thì xin mọi người hãy giúp đỡ.
Ngày 22 tháng 10, Đức Gioan Phaolo II chính thức
nhận Pallium, một kiểu dây các phép nói lên quyền chủ chăn.
Giống như trong Tin Mừng Gioan, thánh Phêrô được trao phó
coi sóc đoàn chiên của Chúa. Đức giáo hoàng Gioan Phaolo
II cũng trở thành vị chủ chăn của toàn thể Giáo hội.
, \
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA
ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLO II
Trước khi được chọn làm giáo hoàng, ngài đã viết rất
nhiều thơ ca, kịch và sách. Ngay từ đầu triều đại giáo hoàng
của mình, Đức Gioan Phaolo II đã vận dụng tài năng để viết
rất nhiều thông điệp nhằm giáo dục và khích lệ đức tin của
các tín hữu.
Đức Gioan Phaolo II viết về chúa Giêsu Đấng Cứu
Chuộc, Thiên Chúa Cha và chúa Thánh Thần. Ngài cũng
viết về Đức Trinh Nữ Maria mà Ngài hết lòng trông cậy, về
bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Ngài cũng viết nhiều
thông điệp nhằm khích lệ niềm tin vào công lý và tôn trọng
sự sống.
Trong triều đại giáo hoàng của ngài, Đức Gioan
Phaolo II đã cho phép ấn hành 2 cuốn sách rất quan trọng
trong Hội Thánh. Cuốn đầu tiên là "Bộ Giáo Luật" gồm những
luật lệ và quy định trong Hội Thánh. Qua thời gian, có những
luật lệ đã lỗi thời. Vì thế, Đức giáo hoàng kêu gọi thu thập
đồng thời soạn thảo những luật mới để hướng dẫn đời sống
đức tin của Giáo Hội.
Cuốn thứ hai là "Giáo lý Hội Thánh Công Giáo". Đây là
tập hợp những điều căn bản trong đức tin Công Giáo về:
Thiên Chúa, Giáo hội, các Bí tích, các Thiên thần, các
Thánh, Thiên đàng, Hỏa ngục, Luyện ngục, và nhiều điều
khác.
NHỮNG CHUYẾN CÔNG DU QUỐC TẾ
Đức giáo hoàng Gioan Phaolo II muốn gặp gỡ nhiều
người để củng cố họ về đức tin, và ngài cũng có thể lắng nghe
những nhu cầu của họ.
Đức giáo hoàng là giám mục Roma. Vì thế, sau khi
nhận chức, ngài bắt đầu viếng thăm các giáo xứ trong địa
phận mình. Ngài gặp gỡ nhiều đoàn thể trong các giáo xứ, cử
hành thánh lễ đại triều, chào đón và dạy dỗ tất cả những ai
đến với Ngài.
Ngài cũng viếng thăm đoàn chiên rộng lớn hơn của
mình thông qua hơn 100 chuyến công du đến hơn 129 quốc
gia trên thế giới. Một số nơi, người ta chào đón ngài hết sức
nồng nhiệt, đặc biệt là khi ngài trở về quê hương Ba Lan thân
yêu của mình.
Một số chuyến công du cũng gặp chút ít khó khăn.
Ngài viếng thăm các quốc gia vẫn được điều hành bởi những
người cộng sản như Cuba. Các quốc gia có đông tín hữu theo
Chính Thông Giáo như: Rumania và Ukraina. Trong quá khứ,
Giáo hội Công giáo và chính thống không luôn hợp nhất,
nhưng việc làm của ngài là xây dựng tương quan hòa bình
với các nhà lãnh đạo chính thống giáo, Do thái giáo và Anh
giáo. Ngài cũng viếng thăm các quốc gia có rất ít tín hữu Công
giáo.
Những chuyến viếng thăm của ngài đem đến niềm vui
cho giáo dân. Mọi người lắng nghe sứ điệp của ngài và trở về
với sự xác tín mạnh mẽ vào đức tin.
SỰ CÁO CHUNG
CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Bất cứ nơi nào Giáo hoàng đến, ngài bênh vực phẩm
giá con người. Mọi người đều lắng nghe ngài và bắt đầu tự hỏi
xã hội mà họ đang sống có tôn trọng phẩm giá làm người của
họ không.
Ở những nước Xã Hội Chủ Nghĩa, mọi người nhận ra:
có quá nhiều sai lầm trong cách điều hành nhà nước.
Không lâu sau, cuộc viếng thăm quê hương Ba Lan lần
đầu tiên trên cương vị giáo hoàng, phong trào đấu tranh cho
nhân quyền được dấy lên mạnh mẽ. Nó được gọi là phong trào
Đoàn kết, đầu tiên là từ Công Đoàn Đoàn Kết, một tổ chức
nhằm bảo vệ quyền lợi cho công nhân sau đó nhanh chóng lan
rộng đến mọi thành phần trong xã hội.
Đấu tranh cho tự do không hề dễ dàng. ít lâu sau, binh
lính được huy động để bảo vệ chính quyền cộng sản. Nhưng
đến năm 1989, làn sóng đấu tranh cho tự do ngày càng lớn
mạnh. Cũng trong năm đó, chính quyền cộng sản bị lật đổ ở
nhiều quốc gia và nhiều người được tự do.
Dấu chỉ rõ ràng nhất cho cuộc cách mạng hòa bình này
là sự sụp đổ của bức tường Bá Linh. Bức tường được xây dựng
để ngăn chặn dòng người chạy tìm tự do. Giờ đây, mọi người
có thể đi đến đâu họ muốn, tự do tổ chức các hoạt động tôn
giáo và tự do nói những gì mình muốn mà không sợ bị bắt bớ.
20
ĐỨC GIÁO HOÀNG BỊ ÁM SÁT
Đức Gioan Phaolô II phải trả giá đắt cho sự dũng cảm
và trung thực của mình. Ngày 13 tháng 5 năm 1981, một kẻ
ám sát tên là AIi Agca đã bắn Đức giáo hoàng.
Cho đến hôm nay, không biết kẻ chủ mưu đứng sau
tên ám sát. Vài người tin rằng, chính cộng sản đã làm để ngăn
chặn ngài mang hy vọng đến cho mọi người.
Đức thánh cha bị thương rất nặng gần chết. Ngài phó
dâng mọi sự trong tay Đức Mẹ Fatima vì ngài bị bắn trong
ngày lễ kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.
Nhiều năm sau, Đức thánh cha nhận ra rằng tất cả
những sự kiện trên thế giới đều đã được báo trước khi Đức
Nữ Đồng Trinh Maria hiện ra với ba trẻ tại Fatima, Bồ Đào
Nha, năm 1917. Đức Mẹ đã nói đến 3 bí mật. Hai điều đầu
tiên chính là sự phát triển mạnh mẽ và diệt vong của chủ
nghĩa cộng sản và sự tàn phá của 2 cuộc chiến tranh thế giới.
Điều bí mật thứ ba chính là tiên báo về việc Đức giáo
hoàng bị ám sát, khi những đứa trẻ thấy một Giám mục mặc
đồ trắng nhưng dính đầy máu.
Sau khi qua khỏi cơn nguy kịch, Đức giáo hoàng đã
đến thăm Ali Agca trong ngục và tha thứ cho người đã cố
gắng để giết ngài.
20
23NIỀM TIN MẠNH MẼ
NƠI ĐỨC NỮ TRINH MARIA
Đức giáo hoàng bày tỏ sự tin tưởng của mình nơi Đức
Mẹ bằng nhiều cách.
Ngay khi còn trẻ, ngài đã thăm viếng nhiều nhà thờ
dành cho việc tôn kính Đức Maria để xin Đức Mẹ yêu thương
và nâng đỡ. Ngài cũng thực hành việc đạo đức ấy khi nhận
lãnh sứ vụ giáo hoàng, ngài thăm viếng hầu hết những nơi
thánh liên quan đến Mẹ Maria trên khắp thế giới.
Ngài viết một tông huấn về việc sùng kính Đức Mẹ
Maria và về vị trí của Đức Mẹ trong đời sống Hội Thánh. Trong
nhiều tông huấn khác, Đức giáo hoàng cũng đề cập đến tầm
quan trọng của Đức Mẹ trong lịch sử cứu độ và trong đời sống
cầu nguyện của mỗi người.
Vào năm 2002, ngài đã ban bố thêm 5 mầu nhiệm trong
kinh Mân Côi: Mầu nhiệm Sự Sáng
Qua nhiều thế kỷ, chỉ có 15 mầu nhiệm kinh Mân CÔI.
Kinh Mân Côi chỉ rõ vai trò quan trọng của Đức Mẹ đối với
Chúa Giêsu, tâm điểm của đời sống và tình yêu của chúng ta.
Năm mầu nhiệm mới đã nhấn mạnh thêm đời sống công khai
của Chúa Giêsu, làm phong phú hơn chuỗi Mân Côi. Những
mầu nhiệm đó là: Chúa Giêsu chịu phép rửa, tiệc cưới Cana,
việc rao giảng Nước Trời, Chúa Biến Hình và bí tích Thánh
Thể.
CÁC THÁNH VÀ CHÂN PHƯỚC
Đức thánh cha thường dạy rằng mọi người đều được
mời gọi nên thánh. Một cách ngài thực hiện điều này là phong
chân phước và phong thánh cho rất nhiều người, nhiều hơn tất
cả những vị giáo hoàng khác phong từ năm 1594 đến 1978.
Phong chân phước là một bước trước khi tuyên bố một
ai đó là thánh. Giáo hội tiến hành điều tra tất cả những lời giảng
dạy của đương sự và chắc chắn rằng những điều ấy trung
thành với giáo huấn của Giáo Hội. Kèm theo đó, Giáo Hội cũng
khảo sát sự trổi vượt về nhân đức và đòi phải có 2 phép lạ cho
những người chạy đến xin các ngài cầu bầu.
Tiến trình phong thánh, Giáo hội chính thức tuyên bố
ai đó là thánh. Điều này đòi hỏi đương sự phải có thêm 1 phép
lạ nữa ngoài 2 phép lạ kể trên.
Thánh Maximilian Kolbe là một trong những trường hợp
được Đức thánh cha Gioan Phaolo II phong Thánh đầu tiên.
Ngài đã chết thay cho một tù nhân trong trại tập trung của Đức
quốc xã trong thế chiến thứ 11.
Đức Gioan Phaolo II cũng phong thánh cho cha Padre
Pio, dòng Capuchin-Phanxico mang 5 dấu thánh của Chúa
Giêsu ở hai tay, hai chân và cạnh sườn trong suốt 50 năm.
Ngài cũng phong chân phước cho mẹ Têrêsa thành
Calcutta người đã chăm sóc cho người nghèo ở Ấn Độ trong
nhiều năm và qua đời tại đó.
27
NĂM THÁNH
Một cách khác Đức thánh cha dạy chúng ta sống kết
hiệp mật thiết với Chúa chính là công bố các năm thánh để
tưởng nhớ việc Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại, tưởng nhớ
ngày sinh của Đức Trinh Nữ Maria và tổ chức Đại năm
thánh 2000.
Năm thánh có nguồn gốc từ Cựu Ước. Cứ 7 năm một
lần, người Do Thái tổ chức năm "Sabat" để tha nợ cho nhau
và để nghỉ ngơi. Sau đó, cứ 50 năm, họ lại có một Đại năm
thánh để tha nợ nhiều hơn, trả lại đất đai cho chủ cũ và giải
phóng các nô lệ.
Ngày nay, năm thánh được tổ chức 25 năm một lần.
Trong năm thánh, mọi người trên khắp thế giới hành hương
về Roma để cầu nguyện. Đôi khi, Đức thánh cha cũng tổ
chức những năm thánh đặc biệt.
Năm thánh đầu tiên được Đức Gioan Phaolo II khai
mở vào năm 1983 để tưởng nhớ 1950 năm cái Chết và Phục
Sinh của Chúa Giêsu.
Năm thánh thứ hai được tổ chức năm 1988, để kỷ
niệm 2000 năm sinh nhật Đức trinh nữ Maria
Năm Thánh thứ ba được tổ chức vào năm 2000 để
đánh dấu sự khởi đầu của một thiên niên kỷ mới.
27
NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI
Từ khi còn là một linh mục, Đức Gioan Phaolo II đã luôn
mong muốn có một tổ chức dành cho giới trẻ.
Vì thế, ngài đã lập một truyền thông mới: Ngày giới trẻ
thế giới. Trong những ngày ấy, giới trẻ khắp thế giới sẽ tập trung
về để cầu nguyện, ca hát và chia sẻ niềm tin của mình với Đức
thánh cha.
Các bạn trẻ rất vui vẻ tham dự các hoạt động này. Họ
thường phải ngủ trong những lều trại ngay giữa cánh đồng. Họ
cũng không có thức ăn ngon. Thời tiết nắng mưa bất thường.
Họ trải qua ngày đêm cầu nguyện, ca hát và chia sẻ với nhau
những câu chuyện đức tin.
Đức thánh cha cũng rất vui khi gặp gỡ các bạn trẻ, mặc
dù mệt mỏi hay bệnh tật, ngài vẫn thắp lên nhiệt huyết cho giới
trẻ với nụ cười thường trực trên môi.
Một lần nọ, ngài đến với các bạn trẻ đang chơi khúc côn
cầu, ngài đã dùng gậy chủ chăn của mình như là gậy để chơi
bóng.
Mỗi khi nói chuyện với giới trẻ, ngài thường nhắc cho họ
nhiệm vụ sống Tin Mừng và biết loại bỏ những giá trị sai lạc
trong thế giới ngày nay.
1
PHONG TRÀO ĐẠI KẾT
Đức giáo hoàng Gioan Phaolo II đã vươn ra khỏi giới
hạn của Công giáo để đến với những người tin kính Chúa Giêsu
cũng như những người tin kính Thiên Chúa.
Ngài thân tình đến với những người Do Thái Giáo. Ngài
quen biết nhiều người Do Thái khi còn sống ở Ba Lan. Trong
chiến tranh thế giới thứ II, ngài đã giúp bảo vệ họ khỏi Đức
quốc xã.
Khi là Giám mục, ngài cũng thăm viếng Hội đường và
trưởng tế Do Thái Giáo ở tại Krakow.
Trên cương vị là giáo hoàng, nhiều lần ngài cũng viếng
thăm Hội đường Do Thái tại Roma, ngài tưởng nhớ những đau
đớn mà người Do Thái đã phải trải qua trong thế chiến thứ II
bằng việc thăm các trại tử tù ở Đức, ở Ba Lan và đài tưởng niệm
ở Israel, những người đã chết trong thế chiến thứ hai.
Đức Gioan Phaolô II cũng gặp gỡ các vị lãnh đạo của
Giáo hội Anh Giáo, Giáo hội Tin Lành và nhiều cộng đoàn Kitô
hữu khác.
Trong suốt triều đại của ngài, Đức Gioan Phaolô II cũng
nhiều lần mời các nhà lãnh đạo tôn giáo khắp thế giới (Phật
giáo, Khổng giáo, Chính thống giáo, Do Thái, Cao đài giáo, Hồi
giáo...) về Assisi, Ý, để cầu nguyện cho hòa bình. Assisi là quê
hương của Thánh Phanxico Assisi, biểu tượng cho những
người tìm kiếm hòa bình và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân
tộc.
ĐAU YẾU CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG
Một trong những giáo huấn quan trọng nhất của Đức giáo
hoàng Gioan Phaolo II là tính thánh thiêng của sự sống từ lúc mới thụ
thai cho đến cái chết tự nhiên của người ấy.
Cuộc đời ngài là chứng tá vĩ đại của giáo huấn này. Ngài phải
đối mặt với bệnh tật hay những xúc phạm, nhiều những khó khăn với
những đau đớn sâu xa ngài phải chịu vì Hội thánh. Ngay cả khi đã già
yếu, bị giới hạn rất nhiều vì bệnh tật, ngài vẫn phục vụ Giáo hội bằng
nghị lực can đảm. Ngài đã cho thế giới gương mẫu chịu đựng và vượt
qua nỗi đau thể xác.
Sau 26 năm trên ngôi Giáo Hoàng, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolo II về Nhà Cha vào ngày 2 tháng 4 năm 2005. Đức Giáo Hoàng
Phaolo II được phong là Đấng đáng kính ngày 19/12/2009 và phong
Chân Phước ngày 01/05/2011 do Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16.
Ngày 27/04/2014 Đức Giáo Hoàng Phanxico đã tuyên thánh
cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II như mẫu gương thánh thiện
cho toàn Giáo Hội. "Các con hãy nên thánh như cha các con trên trời
là Đấng Thánh".
Nếu có điều kiện, xin Quý Vị mua sách ủng hộ
TNTT tại Ban Mục Vụ Thiếu Nhi 180 Nguyễn Đình
Chiểu, phường 6, Tp.HCM .
Xin chân thành cám ơn.
Đánh máy : Anh chị Giuse Phan Ngọc Sơn
Margarita Trần Thị Ánh Loan
Cataria Ngô Thanh Vân
Trình bày : Các Anh Chị cộng tác viên
Thư Viện Công Giáo Việt Nam
11 / 04 / 2018