LUẬN VĂN -...
Transcript of LUẬN VĂN -...
MMởở đđầầuu
11.. TTíínnhh ccấấpp tthhiiếếtt ccủủaa đđềề ttààii
Tín ngưỡng, tôn giáo đã xuất hiện từ xa xưa trong lịch sử loài người. Nó tồn tại,
phát triển và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Với hình thức
manh nha là tín ngưỡng nguyên thủy như thờ thần, thờ cây, muông thú tới những hình
thức tôn giáo có giáo lý, tổ chức chặt chẽ... Tín ngưỡng, tôn giáo đã trở thành một thành
tố quan trọng của nền văn hóa, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận người, đang và sẽ
tồn tại lâu dài cùng tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Trong một vài thập kỷ gần đây, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trên thế giới có xu
hướng phát triển và có những diễn biến phức tạp liên quan đến vấn đề xung đột dân tộc,
sắc tộc ở nhiều quốc gia dân tộc đã và đang thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều
người, đặc biệt là các nhà nghiên cứu, các nhà chính trị, các nhà hoạch định chính sách...
Trong giai đoạn hiện nay, xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,
tác động đến hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, môi trường, giáo dục,
y tế, quan hệ ngoại giao, vấn đề nghèo đói, vấn đề nhân quyền... của các nước trên thế
giới. Đặc biệt, đối với văn hóa, quá trình toàn cầu hóa đã và đang gây ra nguy cơ suy
thoái văn hóa, bị nô dịch về văn hóa ở một số quốc gia, mà trước hết là các nước chậm và
đang phát triển. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát triển văn hóa bản địa là một nhu cầu
cấp thiết nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo với sáu tôn giáo lớn hiện nay đã
được công nhận tư cách pháp nhân. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24, xác định
“Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân...”. Tiếp theo, ngày 12 tháng 03 năm 2003, tại Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã ra nghị quyết số 25-NQ/TW, xác định: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng
dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Các hình thức tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, trong đó có các hình thức tín ngưỡng phổ
biến như: thờ cúng tổ tiên, thờ thần, thờ mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc, những người
có công với nhân dân, có công lập ấp, truyền nghề... Những hình thức tín ngưỡng này có
lịch sử lâu đời, tồn tại cùng với quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta.
Công cuộc đổi mới đất nước trong hai mươi năm qua đã đạt được rất nhiều thành
tựu quan trọng trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực tôn giáo, sau Nghị quyết
24/NQ-TW của Bộ chính trị về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”.
Ngày 21/03/1991 Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 69/NĐ/HĐBT, quy định về các hoạt
động tôn giáo, thể hiện chủ trương đổi mới chính sách đối với các hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng.
Thờ cúng tổ tiên, tôn vinh các anh hùng có công với dân với nước vừa là tín ngưỡng
vừa là đạo lý làm người, đồng thời cũng là nét đẹp của văn hóa dân tộc. Kế thừa tư tưởng
của Hồ Chủ tịch và nguyện vọng của đa số nhân dân, Văn kiện Hội nghị Trung ương lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX nêu quan điểm: “Giữ gìn và phát huy những
giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ
quốc và nhân dân”.
Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam là một tín ngưỡng phổ biến trong cả nước. ở các
làng, xã nông thôn Việt Nam, Thành hoàng là một niềm tin thiêng liêng, là một chỗ dựa
tinh thần cho cộng đồng từ bao đời nay. Theo quan niệm của người dân, đối với cộng
đồng làng xã, Thành hoàng có chức năng giám sát việc làm, hành vi của mỗi thành viên
của cộng đồng, hướng họ tới cái thiện. Sự trách phạt của Thành hoàng, thực chất là sự
trừng phạt của bản thân mình, ở đây Thành hoàng đại diện như một Đấng phán xét uy
linh. Đối với bên ngoài, Thành hoàng khống chế tất cả những tác động gây thiệt hại cho
cộng đồng như: thiên tai, bệnh dịch, cướp bóc ... Đối với cộng đồng, Thành hoàng góp
phần giáo dục, lưu giữ truyền thống về làng; “Thành hoàng và ngôi đình là một biểu
tượng, một thành tố tạo nên cái truyền thống làng, tâm lý làng không thể thiếu được trong
đời sống con người Việt Nam” [50, tr.10].
Bắc Ninh là một trong những cái nôi văn hóa của đồng bằng Bắc bộ. Hầu hết các
làng, xã ở Bắc Ninh đều có đình, đền, miếu làng cùng với các lễ hội truyền thống diễn ra
hàng năm. Trên mảnh đất Bắc Ninh – Kinh bắc vẫn còn lưu giữ được kho tàng di sản văn
hóa vô cùng phong phú và đặc sắc trong đó có hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa và
sinh hoạt lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa dân gian. Đó là tài sản vật chất và tinh
thần vô giá cần phải được duy trì và phát huy. Trong những năm gần đây, các lễ hội liên
quan đến Thành hoàng làng đã và đang có xu hướng phát triển và có những diễn biến mới
ở các làng xã trên địa bàn tỉnh. Hoạt động lễ hội đã có những đóng góp tích cực đối với
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trong tỉnh nói riêng và với công cuộc duy trì và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta nói chung. Tuy nhiên, nó cũng có những mặt hạn chế nhất định cần được
nghiên cứu, xem xét để giúp các cấp chính quyền có những điều chỉnh nhất định nhằm
định hướng cho các hoạt động của tín ngưỡng Thành hoàng trên địa bàn tỉnh, góp phần
giáo dục truyền thống làng xã đùm bọc lẫn nhau, uống nước nhớ nguồn từ hàng nghìn
năm nay của dân tộc ta cũng như của nhân dân tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Chính vì vậy, tác
giả chọn đề tài nghiên cứu về ““TTíínn nnggưưỡỡnngg TThhàànnhh hhooàànngg ởở ttỉỉnnhh BBắắcc NNiinnhh hhiiệệnn nnaayy”
làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tôn giáo học.
22.. TTììnnhh hhììnnhh nngghhiiêênn ccứứuu ccủủaa đđềề ttààii
Đã có một số công trình của các cá nhân và tập thể nghiên cứu về Thành hoàng
Việt Nam và một số vùng miền. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu: “Thờ thần ở Việt
Nam” của tác giả Lê Xuân Quang, Nxb. Hải Phòng, năm 1996; “Từ điển lễ tục Việt
Nam”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1996; “Thành hoàng Việt Nam” của nhóm tác giả
Phạm Minh Thảo, Trần Thị An và Bùi Xuân Mỹ, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 1997;
“Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Chu
Quang Trứ (2000); “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của tác giả Vũ Ngọc Khánh, năm
2001, đã nêu rõ được lịch sử một số tín ngưỡng dân gian Việt Nam, lễ thức gia đình (bàn
thờ gia tiên, ngày giỗ, văn khấn, thần tài, tiền chủ...) và một số thần linh được thờ cúng
(Thành hoàng, tứ pháp...); “Văn hóa dân gian Việt Nam – Những phác thảo” của tác giả
Nguyễn Chí Bền, Nxb. Văn hóa - Thông tin, năm 2003; “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam”, 2005, tác giả Mai Thanh Hải;...
Tác giả Nguyễn Duy Hinh, trong “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam”, Nxb
Khoa học xã hội, năm 1996, đã nêu một cách khá hoàn chỉnh khái niệm, lịch sử hình
thành và các hình thức thờ Thành hoàng, điện thờ cũng như các bản kê khai Thần phả,
Sắc phong của các thời phong kiến đang được lưu giữ tại viện Hán Nôm; “Tín ngưỡng
Thành hoàng và thờ vua Hùng ở Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Đức Lữ, Tạp chí Sinh
hoạt lý luận xuân Tân tị, 2001; nghiên cứu các thần tích và phong tục thờ Thành hoàng
làng của Thăng Long - Hà Nội đồng thời tìm hiểu đặc trưng của tín ngưỡng dân gian của
người Hà Nội có “Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị dân”, Nxb Hà Nội, 2004, của các
tác giả Nguyễn Vĩnh Phúc, Nguyễn Duy Hinh; trong "Thần tích Hà Nam", Nxb Khoa học
xã hội, 2004, các tác giả Lại Văn Toàn và Trần Thị Băng Thanh (chủ biên) đã sưu tập và
thống kê được khá đầy đủ các thần tích về các vị thần thành hoàng làng là các anh hùng
trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, là các vị có công che chở cho dân, dạy dân làm
ruộng, trồng dâu, nuôi tằm, dạy chữ; nghiên cứu về nguồn gốc, dạng thức tinh thần, thần
điện và nghi lễ thờ cúng Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật Bản đồng thời so
sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hai tín ngưỡng này có “Thành hoàng ở Việt Nam
và Shinto ở Nhật Bản” của Trịnh Cao Tưởng, Nxb Văn Hóa Thông tin, Viện Văn hóa,
2005; có công trình nghiên cứu riêng về Thành hoàng là các nhân vật lịch sử trong một
họ ở Việt Nam, tiêu biểu là “Thành hoàng họ Đặng ở Việt Nam”, Nxb, Văn hóa dân tộc,
2005 của các tác giả Đặng Văn Lộc (chủ biên), Đặng Đức Thư và Đặng Ngọc Thanh...
Nghiên cứu về địa lý hành chính và văn hóa Bắc Ninh có các công trình tiêu biểu:
“Địa lý hành chính Kinh Bắc”, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Giang, 1997, của các tác giả
Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Khắc Đạm dịch từ nguyên bản tiếng Pháp “Tableau de
Geographie Administrative d”une Anciene Province Vietnamienne: Le Bắc Ninh (ou
Kinh Bắc)”; giới thiệu về văn hóa truyền thống và các di tích lịch sử của vùng đất Bắc
Ninh xưa và nay có “Bắc Ninh làng cũ - quê xưa - Chiếc nôi của văn hóa Việt Nam”,
Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2000, của tác giả Ngô Thế Thịnh, đã được dịch
giả Việt Tân dịch sang tiếng Anh; “Chuyện kể ở đền Đô”, Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003
của các tác giả Nguyễn Đức Thìn, Phạm Thuận Thành đã tập hợp những câu chuyện kể
dân gian có tính chất dã sử về đền Đô, về nhà Lý, về những phong tục tập quán của người
Đình Bảng, quê hương đã hun đúc nên vương triều thịnh trị trong lịch sử. Giới thiệu về
các danh nhân lịch sử xuất thân ở Kinh Bắc như: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Phù Đổng Thiên
Vương, Trương Chi, Cao Lỗ... có “Danh nhân lịch sử Kinh Bắc”, Nxb. Lao động, 2004, của
tác giả Trần Quốc Thịnh.
Năm 1941, tác giả Nguyễn Văn Huyên có công trình nghiên cứu “Về
một bản đồ phân bố các Thành hoàng trong tỉnh Bắc Ninh” (à propos d’une
carte de répartitiondes génies tutélaires dans la province de Bắc Ninh, Hà Nội
1941). Trong công trình này, tác giả đã thống kê các Thành hoàng các Thành
hoàng trong tỉnh Bắc Ninh bao gồm:
- Các thần Thành hoàng thời đại Hùng Vương có 105 vị.
- Các thần Thành hoàng thời Bắc thuộc (thế kỷ thứ II trước Công nguyên
đến thế kỷ thứ X Công nguyên) có 116 vị thần.
- Các thần Thành hoàng thời nhà Đinh, nhà Lý (thế kỷ thứ X đến XIII) có
127 vị thần.
- Các thần Thành hoàng thời kỳ nhà Trần, thời Minh thuộc, nhà Lê từ thế
kỷ XIII đến thế kỷ XVIII gồm có 77 vị thần, trong đó thời nhà Trần có 40, nhà
Lê có 30, thời Minh thuộc có 4. nhà Mạc có 3, nhà Nguyễn không có vị thần
nào [20, tr.9-10].
Nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian và Thành hoàng ở Bắc Ninh đã còn có “Văn
hiến Kinh Bắc T1,2”, năm 2002, Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh. Nghiên cứu về tục thờ
thần tự nhiên liên quan tới đời sống nông nghiệp trồng lúa nước ở Việt Nam, đặc biệt là
vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc, có “Chùa Dâu và Nghệ thuật tứ pháp”, Nxb. Mỹ thuật, 2002,
của tác giả Phan Cẩm Thượng. Trong “Các di tích lịch sử văn hóa Bắc Ninh”, năm 2004,
Bảo tàng Bắc Ninh đã giúp người đọc có những thông tin về đa số các cơ sở thờ tự: đình,
miếu, nghè.., Tác giả Nguyễn Quang Khải, “Vấn đề quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở
Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn tốt nghiệp Cao cấp chính trị, năm 2004...
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống “TTíínn
nnggưưỡỡnngg TThhàànnhh hhooàànngg ởở ttỉỉnnhh BBắắcc NNiinnhh hhiiệệnn nnaayy”.
33.. MMụụcc đđíícchh vvàà nnhhiiệệmm vvụụ ccủủaa đđềề ttààii
3.1. Mục đích
- Đưa ra khái niệm, nguồn gốc về Thành hoàng và sơ lược phân loại các Thành
hoàng ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, giới thiệu về tín ngưỡng Thành hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và giữ
gìn, phát huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng Thành hoàng ở Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam.
- Khảo sát, nghiên cứu, phân loại để làm rõ những vai trò cơ bản của tín ngưỡng
Thành hoàng ở Bắc Ninh.
- Nêu được các giải pháp, kiến nghị nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát huy
những giá trị tích cực của tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
44.. ĐĐốốii ttưượợnngg vvàà pphhạạmm vvii nngghhiiêênn ccứứuu ccủủaa đđềề ttààii
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tín ngưỡng Thành hoàng và các vấn đề liên
quan như: điện thờ, các hình thức thờ Thành hoàng, lễ hội và những ảnh hưởng tích cực
cũng như tiêu cực của nó tới đời sống văn hóa truyền thống của nhân dân trong tỉnh Bắc
Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tín ngưỡng Thành hoàng trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là
Thị xã Bắc Ninh và các huyện: Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành, Yên Phong, Quế Võ...
Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc điểm của tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở địa bàn
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
55.. CCơơ ssởở llýý lluuậậnn vvàà pphhưươơnngg pphháápp nngghhiiêênn ccứứuu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt những nguyên tắc của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo cũng như các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta để nghiên cứu các tài
liệu và sự kiện thực tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Sử dụng phương pháp khảo sát, nghiên cứu các sự kiện, gặp gỡ các nhân chứng ở
các địa bàn nghiên cứu nhằm thu thập tư liệu và giám định.
+ Phân tích tổng hợp và hệ thống hóa các tư liệu, dùng phương pháp so sánh, đối
chiếu với các tài liệu điền dã thực địa, rút ra những kết luận chính xác.
66.. NNhhữữnngg đđóónngg ggóópp mmớớii vvềề kkhhooaa hhọọcc ccủủaa lluuậậnn vvăănn
Vận dụng cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
tín ngưỡng, tôn giáo và các phương pháp khoa học đã nêu trên, tiếp thu có bổ sung sáng
tạo các tài liệu tra cứu, tiếp cận một cách tổng thể tín ngưỡng Thành hoàng ở địa bàn Bắc
Ninh, luân văn đã cung cấp nhiều thông tin chính xác, cụ thể và chi tiết cho các nhà khoa
học, những người làm công tác văn hoá, giảng dạy quan tâm tới lĩnh vực này.
77.. ýý nngghhĩĩaa ccủủaa lluuậậnn vvăănn
Thông qua nội dung của luận văn, người đọc sẽ tìm hiểu được hiện trạng của tín
ngưỡng Thành hoàng và các nghi thức liên quan tới Thành hoàng cũng như nét sinh hoạt
văn hoá truyền thống của cộng đồng dân cư các làng xã của tỉnh Bắc Ninh. Luận văn sẽ
cung cấp các tư liệu giúp các nhà chuyên môn, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính
sách, công tác văn hoá nói chung và tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng có thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn trong công tác chuyên môn, nhằm bảo lưu, phát huy các giá trị văn hoá,
đạo đức, truyền thống của tín ngưỡng Thành hoàng nói chung và tín ngưỡng Thành
hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
88.. KKếếtt ccấấuu ccủủaa lluuậậnn vvăănn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu luận
văn gồm 2 chương, 7 tiết:
Chương 1: Tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
1.1. Khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
1.2. Quan hệ giữa tín ngưỡng Thành hoàng với một số tín ngưỡng dân gian ở Việt
Nam
1.3. Các loại Thành hoàng và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
Chương 2: Tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh
2.1. Đặc điểm tỉnh Bắc Ninh
2.2. Thực trạng tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh
2.3. Đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh
2.4. Xu hướng biến đổi và những vấn đề đặt ra đối với tín ngưỡng Thành hoàng ở
tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay
Chương 1
ttíínn nnggưưỡỡnngg TThhàànnhh hhooàànngg ởở vviiệệtt nnaamm
1.1. Khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Thành hoàng, tín ngưỡng Thành hoàng
Thuật ngữ Thành hoàng là một từ Hán Việt; “Thành hoàng có nghĩa là thành hào,
hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm "thành", đào hào làm
"hoàng" [20, tr.23-24]. Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại và đã được thờ
như là vị thần bảo hộ cho một thành trì, một phủ, châu hay một huyện. Xã hội cổ đại
Trung Quốc được phân chia thành hai cấp: Vương và Hầu; vua nhà Chu là Vương cai
quản chư Hầu, mỗi chư Hầu như là một vương quốc nhỏ có một toà thành và một số ấp
nông thôn vây quanh. Do vậy, để bảo vệ thành có Thành hoàng, bảo vệ ấp có Thổ địa.
Việc thờ Thành hoàng phổ biến khắp đất nước Trung Quốc thời cổ đại; ở đâu xây thành,
đào hào là ở đó có Thành hoàng. Thành hoàng thường được vua ban biển miếu hoặc
phong tước. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã lấy việc thờ phụng Thành hoàng
làm việc giáo hoá dân chúng. Thông qua việc tế tự thần giữ thành giúp trừng phạt kẻ ác
và biểu dương kẻ thiện.
Do vậy, có thể hiểu một cách khái quát: “Thành hoàng là một phạm trù thần linh
bảo hộ thành trì của phong kiến Trung Quốc, được du nhập vào nước ta từ thời Đường rồi
tiếp tục phát triển trong các triều đại độc lập của nước ta” [20, tr.60]. “Thành hoàng là
một phạm trù ngoại lai, nhưng lại mang một nội hàm bản địa Việt không hoàn toàn giống
nguyên bản. Đó là một đặc điểm vay mượn ngôn từ và khái niệm ngoại quốc một cách
sáng tạo của người Việt” [20, tr.22].
Thành hoàng là khái niệm chung để chỉ Thành hoàng làng. Tuy nhiên,
trong các sắc phong thường dùng các từ như Đương Cảnh Thành hoàng, Bản
Cảnh Thành hoàng... “Đương cảnh, Bản Cảnh Thành hoàng, Bản Thổ Thành
hoàng là những khái niệm dùng để chỉ một vị thần vốn có của một địa phương,
một vị thần sở tại chứ không phải vua phái đến. Thường “âm phù” vua đánh
giặc khi vua hành quân đi qua địa phương cho nên vua công nhận là Thành
hoàng...[ 20, tr.60-61]
Nói chung, các cụm từ Đương cảnh Thành hoàng, Bản cảnh Thành hoàng, Bản thổ
Thành hoàng, Bản đôn Thành hoàng, Bản viện Thành hoàng, Thành hoàng... “xét ra đều
không phải là một loại hỉnh hay cấp bậc Thành hoàng mà vẫn là ngôn ngữ dân gian được
các chức sắc khai lên triều đình” [20, tr.70-71].
Tóm lại, Thành hoàng làng là một vị thần làng được quan chức hoá, thường phong
là đại vương.
Thần làng là một hiện tượng tự phát, sau được nhà nước phong kiến
tuyển chọn bao phong để trở thành quan lại thiêng của triều đình trấn giữ làng.
Cho nên nói chung họ đều được phong đại vương và thỉnh thoảng được thăng
cấp bằng cách tặng thêm mỹ tự hay đề bạt từ cấp Hạ lên Trung, hay từ Trung
lên Thượng đẳng thần [20, tr.93].
Tín ngưỡng, hiểu một cách khái quát, là niềm tin của con người vào những điều
thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi thế giới tự nhiên.
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm
và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh,
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội [13, tr.12].
Tín ngưỡng Thành hoàng thực chất là tín ngưỡng phúc thần đóng vai trò
liên kết cộng đồng người trong một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn,
làm nơi quy y tâm linh cho cư dân. Tín ngưỡng Thành hoàng mang màu sắc
Việt trong bản chất dù đã tiếp thu bao nhiêu yếu tố tôn giáo và văn hoá khác
[20, tr.410-411].
1.1.2. Nguồn gốc tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
ở nước ta vào khoảng thế kỷ IX, ở Trung Quốc là thời kỳ nhà Đường, Lý Nguyên
Gia đã cho xây La thành và dựng đền thờ Tô Lịch làm Thành hoàng. “Sau đó vào khoảng
năm 866 Cao Biền cho mở rộng thành, lại phong Tô Lịch làm Đô Phủ Thành hoàng Thần
Quân” [20, tr.31]. Từ đây ra đời thuật ngữ Thành hoàng, Thành hoàng ban đầu ở nước ta
là Thành hoàng Đại La, đây là vị thần bảo vệ cho thành Đại La, tên của ngài là Tô Lịch.
Có một số tư liệu cho rằng Tô Lịch là thuỷ thần sông Tô Lịch, luôn chống đối với Cao
Biền trong việc mở rộng thành Đại La. Trong “Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam” tác
giả Nguyễn Duy Hinh cho rằng, Tô Lịch là một nhân vật lịch sử có thật:
Theo Giao Châu Ký và Báo Cực Truyện thì Tô Lịch làm quan lệnh ở
Long Độ (Long Đỗ), đời Tấn đã được khen là người có hiếu, đặt tên làng là Tô
Lịch. Lý Nguyên Gia cho xây dựng phủ lỵ trên nền nhà cũ của Tô Lịch, ngài
ứng mộng khuyên Nguyên Gia dạy dân: "Tôi được sứ quân uỷ cho làm Thành
hoàng ở đây. Nếu sứ quân biết giáo hoá cư dân trong thành hết lòng tận trung
thì mới đáng là chức mục thú, xứng với trách nhiệm của người làm quan tốt"
[20, tr.31].
Sau này năm 1010 Lý Thái Tổ rời đô ra Thăng Long lại phong Tô Lịch làm Quốc
Đô Thăng Long Thành hoàng Đại Vương. Đến thời Trần, Tô Lịch lại được phong thêm
các mỹ tự: “Bảo Quốc vào năm Trùng Hưng thứ nhất, Hiển linh vào năm Trùng Hưng
thứ tư, Định bang vào năm Hưng Long thứ 21” [50, tr.238-239]. Năm 1442, vua Lê Nhân
Tông lại cho lập đàn thờ Đô đại Thành hoàng, Gió, Mây, Sấm, Mưa và thờ Quỷ vô tự
(tức là quỷ không được nơi nào thờ cúng); thần Thành hoàng để bảo vệ Thăng Long, đàn
Gió Mây Sấm Mưa để cầu mưa. Do vậy tín ngưỡng thờ Thành hoàng lưu truyền vào
nước ta và được triều đình phong kiến phỏng theo; việc thờ Thành hoàng xuất hiện ở
nước ta ban đầu là ở đô thị do nhu cầu cần có một vị thần bảo hộ cho một thành trì.
Thật khó có thể xác định chính xác niên đại của các Thành hoàng. Theo các nguồn
tư liệu khác nhau thì có lẽ Thành hoàng du nhập về nông thôn nước ta từ vào khoảng thế
kỷ 13 đến thể kỷ 15. Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của Thành hoàng nông thôn Việt Nam
là những vị thần đã được nhân dân thờ từ trước, sau đó mới được vua phong tước vương
với danh vị Thành hoàng.
Tại đình Phi Xá, xã Canh Hoạch, huyện Tiên Lữ (nay thuộc tỉnh Hưng
Yên), có tấm bia ghi rõ Trần Thái Tông phong Đoàn Thượng Phúc làm phúc
thần, nhưng bia lại dựng vào năm 1563; còn hai chữ Thành hoàng lần đầu tiên
được ghi trong văn bản là tấm bia xã Thường Sơn (Thuỷ Nguyên Hải Phòng)
thờ ông tù trưởng Lại Bốn, cũng người đời Trần, do tiến sỹ Nguyễn Đình Tuấn
soạn, dựng năm 1487, kể rõ Thành hoàng ở đây do bốn xã thờ chung. Vị Thành
hoàng này hiệu là Lã Nam Để Đế Lang. Đây là nguồn tài liệu quý chứng tỏ
cuối thế kỷ 15 đã có việc thờ Thành hoàng ở nông thôn [50, tr.6].
Việc thờ Thành hoàng trở nên phổ biến khi triều đình biểu dương công trạng của
các bậc trung thần, nghĩa sỹ và những người có công lao với nước bằng việc lập đền cho
dân xã ở gần thờ khi họ hy sinh vì dân, vì nước hay khi họ chết đi. Tục này lan truyền từ
làng nọ sang làng kia, làng nào cũng phải tìm một vị làm chủ tế của làng mình. Các làng
đã thấy sự cần thiết có vị thần che chở cho làng mình; làng nào có người anh hùng hào
kiệt, hay có công khai làng, lập ấp khi mất đi rồi thì thờ ngay người đó, làng nào không
có thì đi cầu lấy một vị về thờ, có nơi thì vì một sự ngẫu nhiên nào đó cho là linh thiêng
xin duệ hiệu để thờ; làng nào cũng có đền, có miếu. Thành hoàng làng đảm bảo cho sự
thống nhất cộng đồng. Trải qua tiến trình lịch sử, Thành hoàng được thiêng hoá, lịch sử
hoá. Xu thế lịch sử hoá Thành hoàng chứng tỏ người dân luôn mong muốn cho làng mình
gắn bó với lịch sử dân tộc.
Do vậy, Thành hoàng là một biểu tượng cổ xưa có gốc từ Trung Hoa để chỉ vị thần
đại diện cho một toà thành lớn có hào bao quanh, vị thần này được thờ nhằm để bảo vệ
cho toà thành đó. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ thời nhà
Đường (vào khoảng thế kỷ IX) rồi phát triển qua các triều đại phong kiến độc lập của
nước ta. Các Thành hoàng được phong các mỹ tự, các tước vị do có công âm phù giúp
vua đánh giặc hay trong việc chống thiên tai. Tuy nhiên, việc thờ vị thần cai quản thành
trì này không sâu đậm và không dài lâu ở các thành đô ở nước ta. Tín ngưỡng thờ Thành
hoàng bắt đầu lan truyền đến các vùng nông thôn nơi tín ngưỡng thờ thần in đậm dấu ấn
trong nét văn hoá của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Chẳng bao lâu, nhân dân
đồng lòng suy tôn làm Thành hoàng làng, những vị thần bảo vệ cho cuộc sống của người
dân trong làng, nhất là những nhân vật lịch sử từng có công tạo lập hay phát triển đời
sống kinh tế – văn hoá - xã hội cho làng, nước. Trước hết, đó là những người anh hùng có
công đức lớn với dân, với nước như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tảng...,
hay những vị thần linh truyền thuyết đã giúp dân chống thiên tai như Thần núi Tản Viên,
hay những người có công khai ấp, lập làng, dạy dân các nghề thủ công... Ngoại lệ, cũng
có làng còn thờ cả các vị Thành hoàng vốn làm những nghề không mấy vinh quang như
ăn xin, ăn trộm, gắp phân... Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam vừa mang một số nét của
tín ngưỡng nguyên thuỷ vừa vượt ra ngoài nội hàm của tôn giáo nguyên thuỷ với các đặc
điểm chính là:
Một là, có những Thành hoàng là biểu hiện của hiện tượng thờ tự nhiên như Núi,
Rắn, Đá, Cây.... Những hiện tượng tự nhiên đó đều được nhân hoá mang một lý lịch trần
gian và lịch sử. “Trong tín ngưỡng Thành hoàng không có thế giới bên kia. Chỉ mới thấy
tác động của sức mạnh tự nhiên đem lại đau khổ, chưa thấy những sức mạnh xã hội tác
quái, mặc dù đã là xã hội giai cấp” [20, tr.407].
Hai là, tín ngưỡng Thành hoàng là sự biểu thị lòng Kính và Sợ của người nông dân
đối với cái Thiêng. Tuy vậy, chưa có sự xuất hiện của một đấng Siêu Nhiên có quyền vạn
năng như Thượng đế, Phật, Alla, Jésus... Việc thờ cúng Thành hoàng chỉ đơn giản nhằm
mục đích cầu an, “có Thờ có Thiêng, có Kiêng có Lành”, chưa hình thành lý luận về cái
Thiêng, chưa có hệ thống lý luận về thế giới quan, nhân sinh quan, và cũng chưa chỉ ra
một mô hình xã hội lý tưởng như Thiên đường, Niết bàn của một số tôn giáo khác.
Ba là, để tiến hành việc thờ cúng Thành hoàng đã có một hệ thống tổ chức tương
đối phức tạp nhưng cũng rất linh hoạt không cứng nhắc bằng các giáo phẩm, giáo chức
như ở các tôn giáo khác. Nghi thức tế lễ Thành hoàng được thực hiện trang trọng theo
hình thức triều nghi phong kiến cùng các lễ hội bao hàm các hoạt động văn hoá nghệ
thuật dân gian như đánh đu, thi vật, chọi gà, hát thi, thi nấu cơm... có những nét riêng tuỳ
theo từng địa phương. Để phụng sự Thành hoàng các làng đều có một số ruộng công giao
cho dân cày cấy lấy lợi làm lễ. Dân làng được chia thành các giáp, thường thì có bốn
giáp, luân phiên nhau cày cấy ruộng thần, nuôi lợn, gà hiến tế; không phải toàn dân trong
giáp canh tác ruộng thần mà chỉ những người sắp lên lão thường được gọi là ông Lềnh,
ông Cai, ông Đám... đăng cai công việc đó. Chế độ lên lão quy định đến tuổi 49 hay 60
tuỳ theo từng nơi.
1.2. Quan hệ giữa tín ngưỡng Thành hoàng với một số tín ngưỡng
dân gian ở Việt Nam
Người dân Việt Nam đa phần vốn gắn bó với việc làm nông nghiệp trồng cấy lúa
nước, hoạt động sản xuất luôn gắn liền với yếu tố thiên nhiên: đất, nước, thời tiết... từ đó
phát sinh tín ngưỡng thờ thần cũng rất đa dạng mà trước hết là các thần thiên nhiên, linh
khí núi sông được nhân hoá như: Mây, Mưa, Sấm, Chớp gắn với bốn pho tượng: Pháp
Vân (Mây), Pháp vũ (Mưa), Pháp lôi (Sấm), Pháp điện (Chớp), tức Tứ pháp, thờ ở chùa
Diên ứng, xã Khương Tự, Huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh.
Sau đến là các thần sông, núi, thần đất cũng được nhân dân thờ phụng.
1.2.1. Quan hệ với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Cũng như các cư dân Đông Nam á cổ xưa khác, người dân Việt Nam thời tiền sử
luôn tin rằng có sự tồn tại của một thế giới hồn linh song song với thế giới hiện thực của
con người. Họ lý giải các giấc mơ, sự đau, ốm bệnh tật... là do có sự tồn tại của một thế
giới khác mà con người không nhìn thấy được, ở đó có sự tồn tại của linh hồn bất diệt.
Theo quan niệm dân gian, ở con người, linh hồn tồn tại một cách độc lập với ý thức và ý
chí của chủ thể mà nó cư trú; nó điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của chủ thể đó,
khi linh hồn rời bỏ thể xác thì những suy nghĩ và hành động của chủ thể mà nó cư trú sẽ
không thực hiện được, đó là lúc mà ta ngủ hoặc chết. Những quyền năng vô hạn của linh
hồn mà người xưa gắn cho nó chủ yếu là do sự chiêm nghiệm của họ qua các giấc mơ
trong giấc mơ đó người đó thấy người chết hiện về. Việc vỗ về, an ủi và tranh thủ các
linh hồn che chở cho những người đang sống được bình yên, tránh mọi rủi ro bất hạnh
trong đời đã hình thành nên tâm lý tôn vinh các linh hồn. Do đó, việc thờ cúng các linh
hồn hay thờ cúng người đã chết là một phản ứng ứng xử tâm lý của người xưa nhằm thoả
mãn những nhu cầu lợi ích của chính họ đã dần dần trở thành một hành vi không thể
thiếu được trong đời sống tâm linh của con người ở rất nhiều nơi trên thế giới.
ở Việt Nam, việc thờ cúng các linh hồn người đã chết thường là các linh hồn có
quan hệ gần gũi với người sống, thường diễn ra trong các gia đình. Trong số các tín
ngưỡng cổ còn tồn tại đến bây giờ, hiếm thấy có hình thái tín ngưỡng nào lại in đậm
trong tâm thức và đời sống của mỗi con người Việt Nam như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
gia tộc.
Thờ cúng tổ tiên theo nghĩa rộng là thờ cúng những người đã khuất trong cùng cộng
đồng. Theo nghĩa hẹp, thờ cúng tổ tiên là thờ cúng những người cùng dòng máu như ông.
bà, cha, mẹ,... Đây là một nét văn hoá đẹp của con người Việt Nam, tưởng nhớ tới những
người có công trong việc tạo lập cuộc sống ngày nay của mọi gia đình, làng xóm.
Do vậy, có thể khái quát tục thờ cúng tổ tiên của con người Việt Nam theo bảng
sau:
Bảng 1.2.1. Hệ thống các cấp Tổ tiên, từ Nhà đến Nước
Cấp
Biểu hiện
Nhà
(Gia đình)
Họ
(Gia tộc)
Làng Nước
ý niệm được
xác định: Tổ
Tổ của nhà
(gia tiên):
-Ông, bà
- Cha, mẹ
Tổ của họ:
Trưởng họ
(Tộc) (ông
Thuỷ tổ)
Tổ của làng:
Thành hoàng
làng (Vua
làng)
Tổ của nước:
Vua tổ
(Vua Hùng)
Cơ sở vật chất
thể hiện ý niệm
Bàn thờ gia
tiên
Nhà thờ họ Đình - Đền -
Miếu
Nghi thức (Sinh
hoạt văn hoá -
Tôn giáo)
Cúng - Giỗ Hội làng Hội đền
Chu kỳ phổ
biến Hàng năm
Tín ngưỡng Thành hoàng từ khi phát triển xuống tới các làng, các xã của nông thôn Việt
Nam, nó đã có những biến đổi không còn giữ nguyên hình thức cũng như đối tượng thờ cúng như
khi nó mới du nhập vào Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của các loại hình tín ngưỡng dân gian của
Việt Nam, nó trở thành một bộ phận cấu thành trong ba cấp độ của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đó
là gia đình - họ tộc, làng xã, quốc gia và nhanh chóng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, sự thờ cúng
Thành hoàng không nhằm vào toàn bộ tổ tiên, một cá nhân có quan hệ huyết thống, mà
nhằm vào một nhân vật riêng biệt. Đó là những người có công với cộng đồng làng, xã,
đất nước, như giúp vua đánh giặc, có công khai khẩn đất đai lập thôn, ấp, dạy dân các
nghề thủ công, giúp dân khắc phục thiên tai....
Đối tượng được thờ cúng ở tín ngưỡng Thành hoàng thường không có quan hệ
huyết thống với những người thực hành thờ cúng. Đối tượng được thờ cúng có thể là một
nhân vật có thật trong lịch sử cũng có thể chỉ là một nhân vật huyền thoại được hư cấu
theo chí tưởng tượng của dân làng, họ không phải là người bình thường như những đối
tượng được thờ cúng trong gia đình, ngay khi họ là một nhân vật có thật xuất thân trong
cộng đồng thì họ cũng được dân làng gán thêm cho những phẩm chất, năng lực, tính cách
theo mong ước của cả cộng đồng. Vì vậy, đối tượng thờ cúng trong tín ngưỡng Thành
hoàng thường là những người siêu phàm, hoàn mỹ, cho dù họ có nguồn gốc xuất thân từ
một người bình thường. Ví dụ như Trần Hưng Đạo mà nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi
với nhiều huyền thoại, thần tích về ông.
Hơn thế nữa, cho dù nhân vật được thờ cúng trong tín ngưỡng Thành hoàng làng là
sản phẩm sáng tạo dựa trên mong ước của cộng đồng, họ không phải là “khuôn mẫu”
chung mà lại mang những tính cách, đặc điểm của cộng đồng đã sinh ra họ hay mang nét
riêng nào đó của cộng đồng thờ cúng họ. Ai cũng biết rằng Thánh Gióng là một nhân vật
huyền thoại, một đứa trẻ lên ba vẫn chưa biết nói, biết cười nhưng khi nghe có giặc ngoại
xâm bỗng chốc gọi mẹ cho mời xứ giả trở thành một người có sức mạnh vô biên cùng
ngựa sắt, giáp sắt, gậy sắt tả xung hữu đột đánh tan quân giặc, giữ yên bờ cõi. Khi giặc đã
tan ngài cưỡi ngựa bay về trời. ở đây, Gióng là một nhân vật huyền thoại nhưng lại mang
một lý lịch cụ thể: Gióng quê ở làng Phù Đổng, là con của một bà mẹ nghèo cũng như
bao bà mẹ thôn quê khác, ông được nuôi dưỡng với cơm, cà và muối... đây đều là những
thức ăn bình thường trong cuộc sống thường nhật nơi thôn quê.
Đối tượng thờ cúng ở cả tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo huyết thống trong gia đình
và tín ngưỡng Thành hoàng đều là người, nhưng trong thờ cúng Thành hoàng, họ không
phải là người bình thường, mà là những người phi thường từ sức mạnh, năng lực... cho
đến hình hài. Cho dù có xuất thân từ một nhân vật có thật trong lịch sử hay được hư cấu
thì đối tượng thờ cúng này luôn là sự kết hợp của cả hai yếu tố thật và hư ảo; mặt thật thể
hiện sự xuất thân từ cộng đồng, mang những đặc điểm của cộng đồng đó, mặt ảo thể hiện
những mong ước, khát vọng của cộng đồng về những điều cao cả, tốt đẹp cần vươn tới.
Sự kết hợp giữa mặt thật và mặt ảo đã làm cho các đối tượng thờ cúng ở tín ngưỡng
Thành hoàng trở nên “linh thiêng” hơn, uy lực hơn và “hiển minh” hơn cả các tổ tiên
được thờ cúng trong các gia đình.
Về nơi thờ tự, việc thờ cúng tổ tiên được tiến hành ở trong các gia đình. Mỗi gia
đình đều có một bàn thờ tổ tiên, được đặt ở vị trí trang trọng nhất trong các gia đình.
Thường thấy, ở các tộc họ lớn còn có cả nhà thờ tộc, hay nhà thờ tổ tiên. Ngày nay, ở
nhiều vùng của đồng bằng Bắc bộ vẫn còn nhiều nhà thờ tộc như vậy và đang có xu
hướng khôi phục nhà thờ họ. Việc tế lễ thường được tiến hành vào các ngày giỗ kị (ngày
mất của một vị tổ tiên nào đó), những ngày lễ tết (năm mới, Tết Nguyên tiêu...) hoặc
những ngày diễn ra một sự kiện bất thường như sinh, cưới xin, mừng thọ...; lễ vật thờ
cúng tổ tiên thường tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của gia chủ, hoặc những sản vật sẵn
có của địa phương nơi gia chủ cư trú, nhưng cho dù thế nào thì thường có hoa quả, chén
rượu, chén nước, và không thể thiếu trầu cau; các đồ lễ dâng cúng bao giờ cũng là những
sản vật thanh khiết, tươi ngon nhất. Việc tế lễ cầu khấn tổ tiên thường do con trưởng
trong gia đình tiến hành, nếu là thờ họ tộc thì tộc trưởng đứng ra đảm nhiệm.
Cũng như thờ cúng tổ tiên việc thờ cúng Thành hoàng cũng được tổ chức vào các
ngày Tết trong năm, ngày rằm, ngày mùng một của tháng, ngày đầu mùa hay chu kỳ
chuyển thời tiết, nhưng đặc biệt vẫn là vào ngày giỗ kị, hay ngày mất của vị Thành hoàng
đó.
Do quyền uy siêu việt của thần và do được tiến hành ở phạm vi rộng trong cộng
đồng làng, xã nên các nghi thức thờ cúng Thành hoàng làng thường rất nghiêm ngặt, chặt
chẽ, và có hệ thống, quy mô hơn nhiều so với nghi thức thờ cúng tổ tiên trong các gia
đình. Hệ thống nghi thức thờ cúng Thành hoàng được thể hiện một cách đầy đủ nhất ở
những ngày giỗ kị vị thần - những ngày giỗ, hay ngày sinh của vị thần, thường được dân
làng gọi là ngày lễ hội của làng.
Tất cả các nghi thức thờ cúng Thành hoàng đều diễn ra ở đình làng; tuỳ theo điều
kiện kinh tế của mỗi làng mà đình có quy mô to hay nhỏ khác nhau. Nhưng nói chung thì
đình làng được xây dựng theo hình chữ T, phần dọc là nội điện, nơi thâm nghiêm thờ
thần, phần ngay là đình ngoài, thường được chia làm 3 gian: gian giữa gọi là trung đình là
nơi thờ tế tự, hai bên tả và hữu gian, ở trong có bàn thờ thổ điạ hoặc thờ thuộc hạ của
thần. ở hai bên có hành lang là chỗ dân làng sửa soạn lễ vật để cúng tế.
Cũng như thờ cúng tổ tiên, dân làng cúng tế lễ vật cho thần Thành hoàng những
phẩm vật đã nuôi sống dân làng như các loại trái cây, các loại thực phẩm đặc trưng của
địa phương, thịt lợn, thịt gà, cá.... xuất phát từ quan niệm thần Thành hoàng cũng có cuộc
sống như con người “Dương sao Âm vậy”. Sự thành kính đối với các vị thần không chỉ
thể hiện qua việc tuyển chọn kỹ lưỡng các phẩm vật, mà nó còn thể hiện ở sự công phu ở
khâu chế biến, sắp xếp lễ vật dâng cúng thần.
Tóm lại, tín ngưỡng thờ Thành hoàng từ khi du nhập vào Việt Nam lan đến các làng
xã, dưới ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian bản địa, đã trở thành một bộ phận cấu thành
trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, một hình thức tín ngưỡng dân gian thể hiện nét văn hoá
uống nước nhớ nguồn của con người Việt Nam.
1.2.2. Quan hệ với tín ngưỡng thờ thổ địa
Như đã nói ở trên, cư dân người Việt cổ trước đây luôn gắn bó với nghề trồng lúa
nước. Đồng bằng Bắc bộ có đặc điểm là vùng đồng bằng xen lẫn đồi núi sót, diện tích đất
đai dùng cho nông nghiệp rất hạn chế, người dân phải đắp đê trị thuỷ, còn ở đồng bằng
Nam bộ, người dân phải dẫn thuỷ nhập điền làm nông nghiệp. ở cả hai vùng đồng bằng
người dân không ra biển hay lên rừng, mà cuộc sống của của họ gắn liền với đất đai, với
việc trồng cấy lúa nước. Do vậy, trong tín ngưỡng đa thần của mình, thì thần Đất là vị
thần quan trọng nhất, quan niệm của người dân là “đất có Thổ công, sông có Hà bá”. Ban
đầu, thần Thổ địa thường được thờ ở các miếu hoặc các nghè, trong đó thường có một
bình vôi; miếu thờ thần thường là ở đầu xóm, đầu thôn. Trong mỗi gia đình đều thờ Thổ
công - vị thần đất cai quản khu đất của gia đình đang sinh sống trên đó, với mong ước
được thần bảo hộ, che chở giúp xua đi những rủi ro trong cuộc sống, bảo vệ cho cả gia
đình, nhờ có Thổ công, các hồn ma quỷ không thể xâm nhập để quấy nhiễu những người
trong nhà, bàn thờ Thổ công thường đặt ngay ở gian bên, cạnh bàn thờ tổ tiên. Việc thờ
cúng Thổ công thường được tiến hành vào các ngày giỗ, tết, sóc vọng, lễ cúng tuỳ theo
gia chủ, có thể cúng chay hoặc cúng mặn, đồ lễ gồm giấy vàng, giấy bạc, trầu cau, nước,
hoa quả. Tuy nhiên, cũng có gia đình cúng mặn, trước cúng sau ăn, cốt tỏ lòng thành, cúng
mặn phải có rượu, xôi, gà hoặc chân giò. Trong những ngày giỗ tết, trong nhà có làm cỗ,
cúng Thổ công cũng dùng cỗ mặn.
Khi có văn hoá Hán du nhập vào Việt Nam, vị thần Thổ công đã trở thành thần Táo
quân, cai quản và bảo hộ cho một gia đình. Đối với cộng đồng làng, xã xuất hiện nhu cầu
cần có một vị thần đất cai quản vùng đất và bảo hộ cho cả cộng đồng. Theo Nho giáo thì
triều đình phong kiến không những có quyền thế tục cai quản thần dân, xã hội mà còn có
thể cai quản cả thần linh, triều đình cần một vị thần cai quản cái thiêng, còn dân làng cần
có một vị thần đất do vậy triều đình đã ra sắc phong cho các thần; sắc phong của triều
đình thường ghi Bản cảnh Thành hoàng, nghĩa là vị thần cai quản khu đất ấy. Về thực
chất, mặc dù việc thờ Thành hoàng có nguồn gốc từ Trung Quốc, ban đầu là thờ vị thần
cai quản, bảo hộ cho một thành bang, khi du nhập về nông thôn Việt Nam, tín ngưỡng
thờ Thành hoàng thực chất là tín ngưỡng thờ Thổ địa, Thành hoàng chỉ là do triều đình
mượn từ văn hoá Hán trong các sắc phong.
1.2.3. Quan hệ với tín ngưỡng thờ Mẫu
Cùng nằm trong tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam, nhưng giữa đạo Mẫu và thờ
Thành hoàng ở các làng, xã ít có quan hệ gắn bó, mặc dù nhiều vị thánh của đạo Mẫu
đồng thời cũng là thần Thành hoàng của khá nhiều làng xã, như ở Huế, Nha Trang và
một số nơi thờ Thiên Y A Na thánh mẫu, được triều đình nhà Nguyễn phong là Hồng
Nhân phổ tế linh ứng thượng đẳng thần; tại xã Xuân Linh, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên thờ
Chử Đồng Tử và Tiên Dung, theo thần tích thì, Chử Đồng Tử được triều đình sắc phong
làm Chí Thánh thông linh thượng đẳng thần, phong cho Tiên Dung là Thiên tiên Uyển
diệm thượng đẳng thần và phong cho Nội Trạch Tây cung tiên nữ là Huyền Diệu thượng
đẳng thần, ngoài ra Chử Đồng Tử và Tiên Dung còn được thờ làm Thành hoàng làng Chữ
Xá, Văn Đức, huyện Gia Lâm, Hà Nội... Phải chăng cùng gốc thờ thần, nhưng tục thờ
Thành hoàng đi theo con đường tiếp thu Nho giáo và chịu sự kiểm soát của triều đình
phong kiến thông qua việc phong sắc cho các Thành hoàng, còn đạo Mẫu lại tiếp thu Đạo
giáo và nằm ngoài vòng kiểm soát của triều đình.
Theo truyền thuyết, Mẫu Thượng Ngàn là con gái thần núi Tản Viên, cai quản 81
cửa rừng cõi Nam Giao, đức mẫu đã hai lần hiển linh giúp quân nhà Trần đánh giặc
Nguyên, có lần đã hoá luồng ánh sáng dẫn đường cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi chạy trong
đêm tối thoát khỏi nanh vuốt của giặc Minh:
Nhà vua chợt tỉnh nhưng lòng vẫn bán tính bán nghi. Không ngờ vài
hôm sau, quả nhiên tên tù trưởng phản ân dẫn quân Minh đi tắt đến đánh úp.
Quân nhà vua tan rã, vợ con đều bị giặc bắt, vua chỉ còn vài chục kị binh phá
vây trốn thoát. Trong đêm tối như mực, vua chạy được nửa dặm, bỗng thấy
trước mặt có mớ đuốc dẫn đường, cứ hướng nào đó mà đi... Đến lúc ấy, vua
mới vời Nguyễn Trãi nói cho nghe điều nữ thần báo mộng. Nguyễn Trãi nói:
“Nữ thần ấy đúng là Thượng Ngàn công chúa, là người con gái yêu quí của
thần Tản Viên, mà thần Tản Viên là một trong số năm mươi người con của Lạc
Long Quân về ngự cảnh núi” [50, tr.89].
Mẫu Thượng Ngàn thương dân kiếm sống trong rừng núi, thường phù hộ cho chân
cứng đá mềm, vì vậy được nhân dân thờ phụng tôn kính gọi là: Đức Mẫu Thượng Ngàn.
Đối với công việc sản xuất nông nghiệp việc trị thuỷ là hết sức quan trọng, nhân dân
không chỉ tôn thờ các thần Phong, Vũ, Lôi, Điện mà còn tôn thờ “mẹ nước”, Mẫu Thoải -
đức mẫu cai quản sông, suối, biển, hồ. ở mỗi xóm, mỗi thôn, bản làng còn thờ vị thần cai
quản vùng đất đai đó – thần Thổ Địa. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng, du nhập từ Trung
Quốc vào nước ta từ thế kỷ thứ IX, đã nhanh chóng phổ biến ở các nông thôn Việt Nam,
cùng với các loại hình tín ngưỡng dân gian khác đã và đang tồn tại lúc bấy giờ, nó đã
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong văn hoá làng và sự bảo tồn văn hoá truyền
thống Việt Nam chống lại sự đồng hoá của phương Bắc.
Cũng như tục thờ Thành hoàng, đạo Mẫu cũng tiếp thu những ảnh hưởng của tục
thờ cúng tổ tiên; điện thờ của đạo Mẫu mang tính gia tộc có Vua Cha, Thánh Mẫu, phải
chăng việc thờ Cô và thờ Cậu trong đạo Mẫu có mối liên quan mật thiết tới việc thờ cúng
những người chết trẻ: Bà Cô, Ông Mãnh trong tục thờ cúng tổ tiên ở các gia tộc và dòng
họ.
Về nơi thờ tự, như đã nói ở trên, các Thành hoàng thường được thờ cúng ở các đình,
miếu, thậm chí một số nơi,Thành hoàng còn được thờ ở trong chùa như chùa làng Phấn
Động, xã Tam Đa, huyện Yên Phong thờ đức thánh Cả và cụ Trịnh Đỗ; đình, chùa làng
ất, xã Hạp Lĩnh, huyện Tiên Du, thờ đức thánh Quý Minh Đại Vương... Các mẫu thường
được thờ ở phủ, và đa phần các chùa ở Việt Nam ngày nay đều có gian thờ mẫu ở hậu
điện. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu tuy có chịu ảnh hưởng của triết lý Đạo giáo nhưng vẫn
mang đậm mầu sắc triết lý dân gian Việt nam: Sự tôn thờ, tôn vinh người mẹ- nguồn gốc
của muôn loài lại được sinh động hóa bằng mô hình cấu trúc cơ bản của xã hội Việt – gia
đình- với sự tồn tại của cha, mẹ, ông bà… như cha ông ta có câu: “Tháng Tám giỗ cha,
tháng Ba giỗ mẹ”. Có thể nói, người Việt đã dựng nên một thế giới tâm linh riêng, một
hình thức tín ngưỡng đặc thù cho thế giới quan, nhân sinh quan của riêng mình.
Cũng như lễ hội nhằm thực hành việc thờ cúng trong tín ngưỡng Thành hoàng, lên
đồng trong tín ngưỡng thờ mẫu ngoài tính tín ngưỡng tôn giáo, còn mang đậm nét văn
hoá dân gian của dân tộc. Tuy nhiên, trong thờ gian gần đây, hoạt động hầu Đồng đang
diễn ra có chiều hướng phức tạp do bị lợi dụng hoạt động mê tín dị đoan cần được các
cấp các ngành liên quan xem xét và điều chỉnh để có thể vừa đáp ứng được nhu cầu sinh
hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân vừa ngăn chặn được các tiêu cực của nó trong đời
sống xã hội.
1.3. Các loại Thành hoàng và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
1.3.1. Các loại Thành hoàng
Thường thì mỗi làng thờ một vị Thành hoàng làng, cũng có làng thờ hai, ba thậm
chí năm, bảy vị thần Thành hoàng; tuy nhiên, trong đó có một vị làm chủ thần. Mỗi vị
Thành hoàng đều có một thần tích và thần phả riêng gắn liền với những đặc điểm, điều
kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của làng đó. Tuy nhiên, có trường hợp nhiều làng cùng
thờ một vị Thành hoàng như thần Tản Viên đựơc rất nhiều làng thuộc tỉnh Hà Tây thờ,
mặc dù vậy nhưng thần tích của vị Thần này ở mỗi địa phương mỗi khác: ở làng Dô, Tản
Viên được thờ vì công ơn của ngài trong việc dạy dân làm ruộng, ca hát; ở Sơn Đông,
ngài lại được thờ bởi công đức dạy dân làm liềm cắt cỏ, gặt lúa, người đã dạy dân đan sọt
từ mây, tre để làm dụng cụ gánh cỏ, gánh lúa ...
Thành hoàng thường được thờ ở đình, miếu hay nghè tuy nhiên đôi khi
có nơi thờ Thành hoàng ở chùa theo mô típ “Tiền thần hậu phật”. Với quan
điểm “Tam giáo đồng nguyên” (ba đạo giáo một nguồn), nên nhiều vị chân tu
đắc đạo vẫn được phong thần như: Đại pháp thiền sư Từ Đạo Hạnh, chùa Thầy
- Sơn Tây, được phong làm Thánh tổ, tục gọi là đức Thánh Từ; Không Lộ
thiền sư, chùa Keo - Thái Bình, được phong làm Thánh tổ, tục gọi là đức
Thánh Không Lộ; Huệ Tộ thiến sư, chùa Cổ Tung - Nam Hà, được phong làm
Dực Bảo Trung Hưng - Linh phù tôn thần, tục gọi là đức Thánh Tu...[43, tr.6-
7].
Các đình, miếu thờ thần đều có thần phả, còn gọi là Ngọc phả - cuốn
sách ghi chép sự tích vị thần được thờ (Thần tích). Thần tích phần lớn do Đông
các Đại học sỹ Nguyễn Bính sưu tập và soạn thảo vào năm Hồng Phúc (1572),
đời vua Lê Anh Tông, lúc đó đang đóng đô tại Yên Trường, Thanh Hoá vì
ngoài Bắc đang nằm dưới sự quản lý của nhà Mạc. Sau này được Quản giám
bách thần, Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại vào đời Lê Vĩnh Hựu
(1735-1739). Một số thần phả xuất hiện vào đời vua Tự Đức (1848-1882). Các
loại thần phả còn lại đến ngày nay, có nhiều lớp thông tin khác nhau chồng
chất, thêm bớt, hiện đại hoá thần tích qua các lần sao chép lại hoặc mới biên
soạn [43, tr.7-8 ].
Xét theo nguồn gốc, thời gian, điện thờ, có thể phân chia thần Thành hoàng ra thành
các nhóm chính như sau:
* Các Thành hoàng là nhiên thần:
Đó là các vị thần có nguồn gốc thiên nhiên, không phải là những nhân thần, cho dù
đã được nhân cách hoá như sơn thần Tản Viên Sơn Thánh, thuỷ thần như Long Vương,
thần cây, thần rắn như Linh Lang đại vương...
Sơn thần lấy Tản Viên Sơn Thánh là xuất phát điểm lan toả với những
danh hiệu khác nhau theo không gian và thời gian; lấy núi Ba Vì làm gốc thì
sơn thần phát triển theo hướng tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng đó là Sơn Tây
sang Phú Thọ xuống Vĩnh Yên rồi Phúc Yên đến Bắc Ninh-Bắc Giang - Hưng
Yên - Lạng Sơn - Tuyên Quang- Cao Bằng; nhánh hữu ngạn phát triển thành
hai hướng, hướng thứ nhất từ Sơn Tây xuống Hà Đông - Hà Nam - Nam Định
- Thái Bình - Ninh Bình, hướng thứ hai từ Sơn Tây sang Thanh Hoá vào Nghệ
An đến các tỉnh miền trung miền Nam tới đồng bằng sông Cửu Long [20,
tr.168-169].
Ngoài ba vị Cao Sơn, Quý Minh, Tản Viên, còn nhiều núi, đồi, đá thiêng được sắc
phong làm Thành hoàng và được thờ cúng như: Bạch Thạch Đại Vương ở xã Thái Bình
huyện Phù Ninh (Phú Thọ), Thổ Lịnh Thạch Linh ở xã Như Quỳnh huyện Văn Lâm,
Hưng Yên...
Thuỷ thần bao gồm Thuỷ tinh, Long Vương và Câu Mang. Tuy nhiên Thuỷ Tinh
không có mặt trong các sắc phong Thành hoàng, thuỷ thần được phong làm Thành hoàng
có Ngọc Thuỷ Tinh công chúa. Long Vương được thờ với nhiều danh hiệu như Đông Hải
Long Vương, Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương ở các tỉnh như Nam Định, Hà
Tây, Hải Dương, Hưng Yên... Thần Câu Mang - thần Rắn - được phong Đương cảnh
Thành hoàng ở xã An Kiện huyện Thanh Trì. Ngoài ra thần Câu Mang còn được thở ở rất
nhiều nơi ở các tỉnh, nhất là ở Nam Định. Thần Câu Mang là vị thuỷ thần của dân chài.
* Các Thành hoàng là những nhân vật văn hoá và lịch sử:
Đây là loại Thành hoàng có số lượng lớn nhất. Nhóm Thành hoàng này có thể chia
thành bốn nhóm chính gồm nhóm:
+ Thành hoàng là những bậc đế vương, danh tướng, danh nhân lịch sử có thật các
đời được sử sách chính thức lưu truyền cho dù thần tích có thêm phần dã sử hoặc huyền
thoại;
+ Thành hoàng là những nhân vật không có tên trong sử sách nhưng là những anh
hùng của địa phương đã được huyền thoại hoá;
+ Thành hoàng là những những nhân vật có công khai hoang lập ấp được dân làng
tôn thờ làm Thành hoàng;
+ Thành hoàng là những nhân vật cứu khổ cứu nạn cho nhân dân một địa phương
nào đó như hành nghề y cứu đời, có phép màu xua đuổi thú dữ...
Thành hoàng là các nhân vật văn hoá lịch sử có thể được chia theo các triều đại theo
lịch sử như: Thành hoàng thời Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Tiền lý, Ngô - Đinh - Tiền
Lê, Lý - Trần, thời Lê và thời Nguyễn.
Bảng 1.1: Thống kê Thành hoàng ở các thời [20, tr.306]
Thời
đại
Tỉnh
Hùn
g
Vươ
ng
Hai
Bà
Trưn
g Ti
ền L
ý
Din
h
Tiền
Lê
Hậu
Lý
Trần
Lê S
ơ
Lê T
rung
Hưn
g N
guyễ
n
Bắc t
huộc
Tổng
số
Bắc
Giang
5 0 0 1 0 2 0 1 0 1 10
Bắc
Ninh
16 4 4 1 0 16 0 5 0 0 1 47
Hải
Dương
12 0 7 5 4 10 9 2 2 0 1 52
Hà
Đông
40 2 11 12 4 7 0 8 4 1 9 98
Hà Nam 6 1 1 1 1 0 3 1 2 0 0 16
Hưng
Yên
12 3 2 4 0 1 0 1 0 1 1 29
Kiến An 1 1 2 2 1 4 4 1 0 0 0 16
Nam
Định
3 1 1 0 0 3 0 1 0 0 0 9
Ninh
Bình
1 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 2
Nghệ An 3 0 0 0 0 1 0 2 2 0 0 8
Phú Thọ 8 3 0 0 0 0 0 0 1 0 0 12
Phúc
Yên
2 2 4 0 0 0 0 0 0 0 0 8
Sơn Tây 3 3 1 0 0 0 2 0 0 0 0 9
Thái
Bình
4 0 0 1 0 1 0 0 0 0 0 6
Thanh 18 0 0 1 0 14 6 20 0 1 0 60
Thời
đại
Tỉnh H
ùng
Vươ
ng
Hai
Bà
Trưn
g Ti
ền L
ý
Din
h
Tiền
Lê
Hậu
Lý
Trần
Lê S
ơ
Lê T
rung
Hưn
g N
guyễ
n
Bắc t
huộc
Tổng
số
Hoá
138 20 33 28 10 59 24 43 11 4 12 382
* Các Thành hoàng liên quan đến các tôn giáo khác:
Đó là các Thành hoàng vốn là các nhân vật thuộc Đạo giáo, Phật giáo...
Các Thành hoàng là thần, tiên như Thần tiên Công chúa được thờ ở xã Vô
Tranh, tỉnh Phú Thọ, Đương cảnh Thành hoàng Lôi Uy được thờ ở Thanh
Hoá. Có rất nhiều Thành hoàng liên quan đến Phật giáo như Hộ tòng thần Phổ
Hộ cư sỹ Thành hoàng đại vương, Thành hoàng Già Lam vốn là Phật đầu thai
được thờ ở một số xã ở Thanh Hoá, Quan Âm giáng sinh làm Đức Vua Bà đại
vương thờ ở Phú Thọ, Xá Lợi đại vương thờ ở Phúc Yên, Phật Thánh mẫu
công chúa thờ ở Sơn Tây.... Làng Chữ Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội thờ Chử
Đồng Tử và Tiên Dung làm thành hoàng. Ngoài ra, Chử Đồng Tử và Tiên
Dung còn được thờ ở nhiều nơi khác như đền làng Đa Hoà, huyện Châu
Giang, Hải Hưng gọi là Dạ Trạch hoá từ [43, tr.390].
Xét theo công trạng mà các thần đã âm phù giúp nhà vua đánh giặc, giúp dân trừ
thiên tai địch hoạ, bệnh dịch, tai ách và giúp dân lập ấp, mở nghề mà triều đình ra sắc
phong cho các thần Thành hoàng thành theo các cấp độ như sau:
- Thượng đẳng thần;
- Trung đẳng thần;
- Hạ đẳng thần.
Thượng đẳng thần bao gồm các vị thần có công lớn với dân, với nước, được nhà
vua sắc phong và lập đền thờ như Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phạm
Ngũ Lão, ... và các thiên thần được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian về các công trạng
của họ giúp dân, giúp nước như Tản Viên Sơn Thần, Thánh Gióng, Liễu Hạnh công chúa,
Chử Đồng Tử... Tất cả các vị thần này đều có công trạng hiển hách và được vua sắc
phong làm Thượng đẳng thần.
Trung đẳng thần là các vị thần hoặc các quan địa phương có công khai điền lập ấp
có công với dân, có khi là các vị thần mà dân làng thờ đã lâu, có tên họ mà không rõ công
trạng, hoặc có quan tước mà không rõ tên họ, hoặc những vị thần có chút linh dị, cho tới
khi vua cầu đảo, có ứng nghiệm thì triều đình phong làm trung đẳng thần [20, tr.38].
Hạ đẳng thần là những vị thần được dân làng thờ cúng tuy không rõ thần tích,
nhưng cũng thuộc bậc chính thần. Triều đình theo dân làng mà sắc phong làm hạ đẳng
thần.
Ngoài ba vị phúc thần trên, nhiều làng còn thờ cúng cả những vị thần kỳ
dị như: thần ăn mày ở làng Thư Lan - Nam Hà; thần ăn trộm ở làng Lông Khê
- Thái Bình; thần gắp phân ở làng Cổ Nhuế - Hà Nội; thần trẻ con, thần Tà
Dâm.... Theo cách giải thích của dân gian thì những vị thần này ngoài những
khả năng khác thường, họ còn được thờ cúng bởi chết vào các giờ thiêng. Lúc
đầu do sợ hãi mà dân làng thờ cúng sau lâu dần họ được thờ cúng nhằm giúp
dân làng xua đi rủi ro, bảo trợ cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng làng
[20, tr.126].
1.3.2. Vai trò của Thành hoàng
Trong tín ngưỡng Thành hoàng, nói chung người Việt đều lấy Kính làm cơ sở cơ
bản trong ứng xử với cái Thiêng vì ơn hay Kính vì sợ với mục đích chung là cầu An, cầu
cho mọi việc đều bình yên vô sự, không bị các thế lực thiêng phá hại, Thành hoàng làng
là vị thần bảo hộ, là người cứu dân làng khỏi các khổ nạn do những thế lực Thiêng khác
gây ra. Tuy ngày nay, trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, con người
đã lý giải được những khoảng trống trong nhận thức, những bất công về mặt xã hội,
những bất trắc, may, rủi trong cuộc sống nhưng tín ngưỡng Thành hoàng vẫn có những
vai trò nhất định không thể phủ nhận đó là:
Một là, Thành hoàng có vai trò liên kết cộng đồng. Tín ngưỡng Thành hoàng, thực
chất là tín ngưỡng phúc thần đóng vai trò liên kết cộng đồng người trong một cộng đồng
lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, làm nơi quy tụ tâm linh cho cư dân. Thành hoàng chứng
kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, hiền lành, giáng
hoạ trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai biến, người ta thường đến lễ bái cầu xin
thần che trở. Có việc oan ức, người ta thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ
hoá lành, giải oan cho người đó. Mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ,
đạo đức vì họ luôn tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành
viên trong cộng đồng. Thần còn là lực lượng tiếp sức cho nhân dân trong các cuộc chống
ngoại xâm, dập tắt thiên tai, bệnh dịch bằng con đường âm phù. Thần được dân làng hàng
năm cúng tế và được triều đình phong kiến sắc phong thêm các mỹ tự sau mỗi lần cầu
đảo linh nghiệm.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chọn lọc và phong sắc cho Thành hoàng làng nhằm
mục đích đoàn kết và động viên toàn bộ sức mạnh của cộng đồng làng, xã và dân tộc
thành một khối đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã hội. Và ngôi đình
xuất hiện lúc ban đầu với chức năng làm trụ sở hành chính - công sở của nhà nước phong
kiến ở làng, xã dần dần trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng và hội họp của chức dịch,
dân làng.
Cùng với việc phong kiến hoá đình làng và thần làng, triều đình phong kiến đã tiến
hành việc quản lý thống nhất đất nước. Các thần làng trở thành Thành hoàng làng. Các
thần làng có công âm phù giúp vua dẹp giặc, giúp dân trừ thiên tai bệnh dịch hay những
công thần của triều đình đều được sắc phong làm Thành hoàng.
Ngôi đình làng không chỉ là nơi thờ cúng các Thành hoàng làng mà đây còn là nơi
tụ họp dân làng khi có việc chung, là chốn vui chơi của cả làng vào các dịp lễ hội. Ngôi
đình xưa kia vừa là “trụ sở hành chính” của làng, vừa là “toà án” xử kiện của xã và những
ngày nhộn nhịp vào đám, sân đình trở thành “sàn diễn”, “sân khấu” cho các sinh hoạt văn
hoá nghệ thuật như hát chèo, hát đúm, hát trống quân, cũng như các hoạt động thể thao như
đấu vật, múa lân, kéo co, đánh cờ, thi thổi cơm.... “Trong nhiều thế kỷ, mãi tới mấy thập niên
đầu thế kỷ 20, chức năng chính của ngôi đình miền Bắc vẫn là “hội trường lớn của làng" [16,
tr.21-22].
Nếu như sự thờ cúng gia tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình; thì
sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng,
xã. Trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các thành viên trong làng hội tụ ở
thần.
Hai là, Thành hoàng vai trò duy trì và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống.
Thành hoàng làng là một trong những thành tố văn hoá mà người nông dân Việt Nam đã
sáng tạo ra qua bao nhiêu thế hệ. Gắn với Thành hoàng là hội làng - một hoạt động văn
hoá truyền thống ăn sâu vào lòng người với tư cách giá trị văn hoá. Những năm gần đây,
các làng xã theo nhau khôi phục sinh hoạt văn hoá - lễ hội.
Vì các thần Thành hoàng là biểu hiện cho những giá trị nền tảng, giá trị gốc của
làng nên mỗi cá nhân, khi giao cảm với tổ tiên xã hội của mình, đã dựa vào những giá trị
ấy để xác định phương hướng hành động cho bản thân, xác định những cách ứng xử thích
hợp cho mình. Do vậy, nếu việc thực hành tín ngưỡng gia tiên mang ý nghĩa của sự thực
hành những khuôn mẫu văn hoá trong gia đình, thì việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng
thần Thành hoàng lại mang ý nghĩa sự thực hành những khuôn mẫu văn hoá của cộng
đồng, tức những chuẩn mực xã hội.
Vào đầu xuân hàng năm, làng Đồng Kỵ, xã Đồng Quang, huyện Từ sơn,
tỉnh Bắc Ninh lại tổ chức lễ hội tưởng nhớ công đức Thượng đẳng Thành
hoàng là danh tướng Thiên Cương thời vua Hùng. Tuy nay đã bỏ tục đốt pháo
nhưng Đồng Kỵ vẫn tổ chức lễ rước pháo trọng thể, tưng bừng, và trong đình
vẫn bảo tồn hình quả pháo khổng lồ bằng mã rực rỡ sắc màu, lễ rước pháo vẫn
tấp nập đông vui thu hút hàng ngàn du khác trong và ngoài nước [16, tr.21-22].
Mỗi lần thắp hương trên bàn thờ gia tiên, đối thoại với vong hồn người đã khuất là
mỗi lần người sống tìm lại được sự kiểm nghiệm chính mình: việc nào mình đã làm được,
việc nào chưa làm được, những hành vi, việc làm nào là phù hợp với mong muốn của tổ
tiên... thông qua đối thoại với tâm linh, từ đó tìm cách để hoàn thiện bản thân, với những
gì sai trái mong được tổ tiên lượng thứ chỉ bảo cho đường đi, phù hộ cho con cháu gặp
được nhiều may mắn, sức khoẻ dồi dào... Có thể nói việc thờ cúng tổ tiên của người Việt
Nam không chỉ là nhu cầu tâm linh, là đạo lý uống nước nhớ nguồn mà nó còn là một nét
văn hoá giúp dân tộc ta trải qua những thăng trầm trong thời kỳ đô hộ của phong kiến
phương Bắc, vững bước đi lên trong công cuộc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Khác với trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên theo huyết thống gia đình, đối tượng
được thờ cúng trong tín ngưỡng Thành hoàng thường được thờ cúng ở các miếu hay đình
của các làng. Cũng như sự thờ cúng tổ tiên trong gia đình, dòng họ, việc thờ cúng Thành
hoàng là nhằm nhớ ơn những người đã sinh ra mình, tôn vinh họ để cầu mong họ với uy
quyền to lớn, sẽ giúp đỡ cộng đồng cũng như mọi thành viên trong cộng đồng đó vượt
qua những trở ngại, khó khăn trong cuộc sống đời thường. Sự bình yên của cả cộng đồng
làng, xã đều trông cậy vào Thành hoàng làng.
Mặc dù ngày nay, Thành hoàng không còn thích hợp với xã hội hiện đại nếu vẫn
giữ nguyên dạng, nhưng lễ hội làng liên quan đến Thành hoàng đang tái diễn ở nhiều nơi
đem lại sự phấn khởi, sinh hoạt văn hoá cho xóm làng. Việc thờ cúng thần Thành hoàng
đặc biệt là các nhân thần thể hiện đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta phát
huy các giá trị đạo đức nhân, lễ, nghĩa, thuỷ chung, tôn ti, trật tự từ bao đời nay.
Ba là, Thành hoàng giúp bù đắp những bắt trắc, rủi ro trong cuộc sống. Tuy ngày
nay khoa học đã phát triển, nhưng con người vẫn gặp phải rất nhiều trắc trở trong cuộc
sống như vô sinh, bệnh tật hiểm nghèo mà ngay cả y học hiện đại hiện nay còn chưa tìm
ra phương pháp chữa trị, các thiên tai bất ngờ như sóng thần, động đất, lụt lội... hàng năm
đã cướp đi biết bao sinh mạng con người. Tất cả những thực tế đó đã và đang làm tái hiện
tín ngưỡng Thành hoàng.
Chương 2
TTíínn nnggưưỡỡnngg TThhàànnhh hhooàànngg ởở ttỉỉnnhh BBắắcc NNiinnhh
2.1. Đặc điểm tỉnh Bắc Ninh
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
Bắc Ninh, dưới các triều đại phong kiến trước đây, được gọi là Kinh Bắc. Lịch sử đã
để lại cho Bắc Ninh những di sản văn hoá quý báu cả về mặt vật thể và phi vật thể với hệ
thống thành quách ở thành phố Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi
tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của đất nước ta, hệ thống các đình, chùa, miếu ở
các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh - Thị Cầu, Dâu Keo...
Từ năm 1822, xứ Kinh Bắc được nhà Nguyễn đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh, sau hai
năm thành Bắc Ninh, thuộc thành phố Bắc Ninh ngày nay, được xây dựng bằng đá ong
với cây cột cờ cao 17m.
“Dưới thời Pháp thuộc, vào năm 1831, trấn Bắc Ninh được đổi tên thành tỉnh Bắc
Ninh” [49, tr.35].
Sau hoà bình lập lại năm 1954, tỉnh Bắc Ninh nói chung, thị xã Bắc Ninh nói riêng
tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế suốt quá trình xây dựng chính quyền nhân dân và chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Năm 1963 tỉnh Bắc Ninh lại được sát nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc.
Mặc dù vậy, thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế - xã hội quan trọng của Hà
Bắc.
Đến năm 1996, tỉnh Hà Bắc được chia lại thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang
theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 (ngày 15-11-1996). Từ đó thị xã
Bắc Ninh (nay là thành phố Bắc Ninh) lại trở lại thành thị xã của tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh ngày nay là tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, phía Bắc giáp với tỉnh Bắc
giang, phía Nam giáp Hưng Yên và một phần Hà Nội, phía Đông giáp Hải Dương và phía
Tây giáp và cách thủ đô Hà Nội 30km; cách sân bay quốc tế Nội Bài 45km; cách cảng
biển Hải Phòng 110km. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; gần các khu, cụm công nghiệp lớn của vùng trọng điểm
Bắc bộ. Bắc Ninh có các trục đường giao thông quan trọng chạy qua như quốc lộ 1A, 1B,
quốc lộ 18 (thành phố Hạ Long - sân bay quốc tế Nội Bài), quốc lộ 38, đường sắt Hà Nội-
Lạng Sơn sang Trung Quốc và các tuyến đường thuỷ như sông Đuống, sông Cầu, sông
Thái Bình rất thuận tiện cho vận chuyển hàng hoá và giao lưu với các trung tâm kinh tế,
văn hoá và thương mại của phía bắc Việt Nam, và có vị trí quan trọng đối với an ninh
quốc phòng.
Bắc Ninh có diện tích tự nhiên là 80393 ha - chiếm 0,2% diện tích tự nhiên của cả
nước và là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất trong 64 tỉnh, thành phố- trong đó đất nuôi
trồng thuỷ sản là 2589 ha, đất lâm nghiệp 623 ha, đất ở 5240 ha và các loại đất khác. Dân
số toàn tỉnh theo thống kê năm 2001 là 960.919 người, với mật độ dân số là 1191,3
người/km2, là địa phương có mật độ dân số cao thứ ba trong số 64 tỉnh, thành phố, chỉ
thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh.
Bắc Ninh có địa hình tương đối bằng phẳng. Tuy dốc từ bắc xuống nam và từ tây
sang đông, nhưng độ dốc không lớn. Vùng đồng bằng chiếm gần hết diện tích tự nhiên
toàn tỉnh, có độ cao phổ biến là từ 3 đến 7 m so với mặt biển. Do được bồi đắp bởi các
con sông lớn như sông Đuống, sông Cầu, sông Thái Bình nên vùng đồng bằng chủ yếu là
đất phù sa màu mỡ. Vùng gò đồi trung du chỉ chiếm 0,5% diện tích tự nhiên và phần lớn
là đồi núi thấp, cao nhất là núi Hàm Long cao 171 m.
Về quản lý hành chính, Bắc Ninh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thành
phố Bắc Ninh và 7 huyện là: Yên Phong gồm 17 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn Chờ; Quế
Võ gồm 23 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn Phố Mới; Tiên Du gồm 15 xã, 1 thị trấn, trụ sở
ở thị trấn Lim; Từ Sơn gồm 10 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn Từ Sơn; Thuận thành gồm
17 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn Hồ; Lương Tài gồm 13 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn
Thứa; Gia Bình gồm 13 xã, 1 thị trấn, trụ sở ở thị trấn Đông Bình.
Trong những năm qua kinh tế - xã hội của Bắc Ninh đã có những bước phát triển
với tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 12,9% (năm 2001 GDP tăng14,1%). Trong đó
nông nghiệp tăng bình quân là 6,4%, công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng 24,1%, thương
mại dịch vụ tăng 12,0%, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 24,5%, kim ngạch nhập
khẩu tăng bình quân 18,6% [25].
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từng bước
nâng cao hiệu quả nền kinh tế. Từ năm 1996 đến năm 2001 tỷ trọng nông nghiệp từ 46%
giảm còn 34,2%, công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng từ 24,1% lên 37,1% [25].
Cùng với các địa phương khác trong cả nước giai đoạn từ nay đến năm 2010 là giai
đoạn quan trọng để nền kinh tế tỉnh Bắc Ninh bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh được xác định:
+ Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2010 đạt
13%, đưa GDP bình quân đầu người đạt mức trung bình của cả nước.
+ Chủ động chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá trên cơ sở công
nghệ mới, tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
+ Phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tỷ lệ: nông nghiệp chiếm khoảng
17,5%, công nghiệp và xây dựng 42%, trong đó công nghiệp chiếm 29,3%, dịch
vụ 40,5% vào năm 2010 [25].
Bắc Ninh - Kinh Bắc xưa kia là vùng đất phía bắc của kinh thành Thăng Long Đông
Đô - Hà Nội ngày nay, là vùng đất trung tâm của châu thổ sông Hồng. Bắc Ninh còn là
nơi gặp gỡ, giao hội của các mạch giao thông thuỷ, bộ tạo cho xứ Bắc sớm trở thành
trung tâm kinh tế - văn hoá với một vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hoá Việt
Nam.
Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho
thấy, đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là bộ phận cốt lõi của quốc gia
Văn Lang Âu Lạc. Từ mấy nghìn năm trước, người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven
sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương... sống chủ
yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghề thủ công. Hàng loạt di vật như trống
đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm khiên, mảnh giáp... bằng đồng với những hoa văn độc đáo
được tìm thấy ở các di tích Lăng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai... mảnh khuôn đúc
trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc
đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm..., Bắc Ninh nổi tiếng với các làng nghề truyền
thống như làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, làng tranh Đông Hồ ở huyện Thuận
Thành, làng dệt Hồi Quan ở huyện Từ Sơn, làng đúc đồng Đại Bái ở huyện Gia Bình,
làng nghề Tre trúc Xuân Lai ở Gia Bình, làm giấy gió Đống Cao, chạm khắc gỗ Phù Khê,
Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, sơn mài Đình Bảng...
Bắc Ninh là vùng đất tiêu biểu của văn hiến Việt Nam, nơi đây là địa bàn chủ yếu
để thực hiện các chính sách xây dựng và bảo vệ đất nước, phát triển văn hoá Việt Nam
của các triều đại còn âm vang lời tuyên ngôn bất hủ trên dòng sông Như Nguyệt (sông
Cầu ngày nay) “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Khắp trên mảnh đất Bắc Ninh đều có
những di tích lịch sử, danh lam cổ tự và các công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo các
thời Lý - Trần - Lê, đây cũng là nơi đã sinh ra hơn 600 tiến sỹ chiếm 1/3 các vị đại khoa
trong cả nước dưới các thời phong kiến.
Bắc Ninh còn là vương quốc của lễ hội truyền thống, quê hương của các sinh hoạt
văn hoá dân gian đặc sắc. Hầu như làng nào cũng có lễ hội trong đó có những lễ hội tiêu
biểu cho cả vùng, cả nước như hội xem hoa Mẫu đơn ở chùa Phật Tích, hội rước pháo
Đồng Kỵ, hội đền Lý Bát Đế, hội đền Bà Chúa Kho, hội chùa Dâu, hội giỗ tổ Huyền
Quang... Nổi tiếng và thu hút nhất đó là hội ca hát giao duyên của các làng Quan họ.
2.1.2. Một số tín ngưỡng dân gian ở Bắc Ninh
Vốn là trung tâm kinh tế-văn hoá xưa kia của vùng Kinh Bắc nói riêng cũng như của
cả nước nói chung, cùng với quá trình giao lưu, hội nhập và trao đổi kinh tế là quá trình
tiếp xúc, hội nhập văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa Việt Nam và các nước trong khu
vực, Bắc Ninh, đặc biệt là Luy Lâu, đã trở thành trung tâm của quá trình hội nhập này với
các hình thức tín ngưỡng dân gian phong phú và đặc sắc:
2.1.2.1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trong quá trình đan xen và tiếp biến của nhiều luồng văn hoá, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên vẫn được duy trì và trở thành sợi chỉ xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc nói
chung, Bắc Ninh nói riêng, Đó là nét đẹp văn hoá đã ăn sâu, bám dễ, liền gốc trong đời
sống tâm linh của người Việt Nam nói chung, của người dân Bắc Ninh nói riêng từ ngàn
đời nay. Tín ngưỡng thờ tổ tiên nói chung tồn tại ở ba cấp độ: gia đình - họ tộc, làng xã
và quốc gia. Tuy có cấp độ, hình thức khác nhau nhưng cả ba trở thành một chỉnh thể, có
quan hệ chặt chẽ, nương tựa, hỗ trợ lẫn nhau. Nó phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với
cộng đồng, gia đình với tổ quốc.
+ Thờ cúng tổ tiên trong gia đình - họ tộc
Cũng như ở khắp nơi trên đất nước ta, trong mỗi gia đình của người dân Bắc Ninh
đều có một bàn thờ tổ tiên, thờ cúng tổ tiên không chỉ biểu hiện ở tình cảm nhớ ơn ông
bà, tổ tiên là những người có công sinh thành, nuôi dưỡng mà ông bà, tổ tiên còn được
quan niệm là những vị thần phù hộ cho con cháu được khoẻ mạnh, gặp nhiều điều may
mắn và tránh được những tai hoạ, rủi ro trong cuộc sống. Chính vì vậy mà ban thờ tổ tiên
luôn được đặt ở gian giữa của ngôi nhà, là khoảng không gian thiêng liêng, và trang trọng
nhất. Việc bài trí các ban thờ tổ tiên ở các gia đình không hoàn toàn giống nhau, điều này
phụ thuộc và quan niệm tâm linh và điều kiện kinh tế của các gia đình.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên ở mỗi gia đình, còn có việc thờ cúng thuỷ tổ của dòng
họ. Việc cúng giỗ được thực hiện ở nhà thờ họ hay còn gọi là từ đường. Với những dòng
họ không có từ đường riêng, thì việc cúng giỗ được tiến hành ngay tại nhà trưởng họ. Tất
cả con cháu thường có mặt vào ngày giỗ tổ. Trong buổi lễ, trưởng họ thay mặt cho con
cháu báo cáo công việc cũng như thành tích đạt được của cả họ, vừa ôn lại sự nghiệp,
công trạng của của các vị thuỷ tổ để giáo dục con cháu tìm hiểu về tổ tiên mình để noi
theo và biết ơn cội nguồn. Con người Bắc Ninh vốn nổi tiếng thông minh và hiếu học.
Nơi đây là đất học với số lượng lớn các danh nhân khoa bảng, đứng đầu các địa phương
trong nước thời phong kiến về số người đỗ tiến sĩ và trạng nguyên. Theo sách “Lịch triều
hiến chương loại chí” của nhà sử học Phan Huy Chú (1782-1840) đã ghi chép tỉ mỉ về
các kỳ thi dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, từ khoa thi đầu tiên (1075) đời Lý
Nhân Tông, đến khoa thi Đinh Mùi (1787) đời Chiêu Thống, thì trong 47 người đỗ trạng
nguyên trong cả nước, Bắc Ninh (theo phạm vi hành chính hiện nay) có 12 người đã đỗ
trạng nguyên. Do đó trên mảnh đất Bắc Ninh có rất nhiều nhà thờ họ, đặc biệt là thờ các
bậc tiến sĩ, trạng nguyên đã đỗ đạt ở các thời phong kiến, được nhà nước xếp hạng di tích
lịch sử - văn hoá như: đền thờ Trạng nguyên Lê Văn Thịnh, ở huyện Gia Bình, hiện vẫn
còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử và nghệ thuật, đặc biệt là rang đá cỡ lớn
có kiểu dáng độc đáo nhất nước [23]; nhà thờ họ Ngô ở thôn Vọng Nguyệt, xã Tam
Giang, huyện Yên Phong, dòng họ có 5 chi, 5 đời đỗ tiến sĩ; nhà thờ họ Nguyễn ở thôn
Đông, xã Tam Giang, huyện Yên Phong; nhà thờ họ Đặng, ở xã Phú Hoà, huyện Lương
Tài; đền thờ lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo ở xã Hoài Bão, huyện Tiên Du;
nhà thờ dòng họ Nguyễn Thạc - có 12 phong chức tước và ghi công 7 đời làm quan của
dòng họ Nguyễn Thạc dưới thời Lê - Trịnh - có độ tuổi khoảng 304 năm ở Đình Bảng,
huyện Tiên Du là một trong 6 ngôi nhà cổ ở Việt Nam được UNESCO trao giải thưởng
công trạng bảo tồn di tích.
Trong cuốn gia phả họ Nguyễn Thạc (do ông Nguyễn Thạc Sủng cháu 10
đời cụ Nguyễn Thạc Lượng lưu giữ) có 12 phong chức tước và ghi công bảy
đời làm quan của dòng họ Nguyễn Thạc thời Lê - Trịnh. Nhắc đến dòng họ
Nguyễn Thạc ở làng Đình Bảng xứ Kinh Bắc là nhắc đến một dòng họ nổi
tiếng với công lao xây dựng nhà thờ họ Nguyễn Thạc trên 300 tuổi và Đình
Bảng - ngôi đình nổi tiếng từ rất xưa [24].
Đền thờ 18 vị tiến sỹ họ Nguyễn làng Kim Đôi, xã Kim Chân, huyện Quế Võ.
+ Thờ cúng tổ tiên của cả nước
Là mảnh đất của kinh đô cổ xưa kia với thành Luy Lâu trong thời kỳ dài từ cuối thể
kỷ thứ II đến thế kỷ IX - X, Bắc Ninh - Kinh Bắc còn là nơi khởi nguồn của dân tộc ta
với đền thờ Kinh Dương Vương; theo truyền thuyết thì thuỷ tổ của dân tộc ta là Kinh
Dương Vương, mộ Kinh Dương Vương hiện nay ở làng An Lữ, huyện Thuận Thành.
Nguyên Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần núi phương Nam đến núi
Ngũ Linh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi lấy con gái bà Vũ Tiên, sau bà sinh hạ
một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho
con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương
Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương làm vua vào khoảng năm 2879
trước Công Nguyên và lấy con gái Thần Long là vua hồ Động Đình sinh được một con
trai đặt tên là Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân, sau lấy
con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng. Trăm trứng nở thành trăm người con.
Một ngày Long Quân nói với Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thuỷ
hoả khác nhau, không ở cùng nhau được”. Sau đó năm mươi người con theo mẹ về núi,
năm mươi người con theo cha xuống biển, chia nhau thống trị các xứ đó, đó là thuỷ tổ
của các nhóm Bách Việt. Người con trưởng trong số các con theo mẹ lên Phong Sơn
được tôn là vua gọi là Hùng Vương.
Không chỉ là cái nôi của dân tộc Việt, là trung tâm của cuộc đấu tranh lâu dài và
khốc liệt của dân tộc ta chống xâm lược và đồng hoá trong suốt thiên niên kỷ đầu công
nguyên. Kinh Bắc - Bắc Ninh còn là quê hương của nhà Lý - triều đại khai mở nền văn
minh Đại Việt, miền đất phên dậu phía Bắc của kinh thành Thăng Long. Đền Đô có tên là
Cổ Pháp điện, là nơi thờ tám vị vua nhà Lý, nên cũng được gọi là đền Lý Bát Đế. Đền
được xây dựng trên khu đất phát tích - nơi Lý Công Uẩn sau khi đăng quang, đã trở lại
quê nhà gặp gỡ dân làng, ông phát tiền, lụa cho các cụ già và những người nghèo khó.
Đền liên tục được tu bổ và mở rộng vào nhiều thời, song lần xây dựng lớn nhất vào triều
Lê Trung Hưng thế kỷ XVII, với kiểu “nội Công, ngoại Quốc”, xung quanh có tường
thành bao bọc. Lễ hội đền Đô thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng
năm, nhằm kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang. Lễ hội thu hút hàng nghìn du khách
khắp nơi về dự thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với các vua Lý.
2.1.2.2. Tín ngưỡng phồn thực
Việc thực hành các tín ngưỡng phồn thực và coi sinh thực khí như là biểu
tượng của sự phồn thực rất phổ biến trong các lễ hội truyền thống trên thế giới.
Tuy nhiên, ở người Việt, tín ngưỡng phồn thực được thực hiện một cách sinh
động hơn. Và có lẽ, do được gắn với các lễ thức cầu nước - lễ thức phổ biến và
khá đặc thù của những cư dân trồng lúa nước - mà tín ngưỡng phồn thực của
họ tồn tại dai dẳng hơn và sống động hơn các tín ngưỡng phồn thực khác trên
thế giới [17, tr.80].
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ nên cũng như các vùng miền
khác mang đậm nét văn hoá của nền văn minh nông nghiệp lúa nước đó là tín ngưỡng
phồn thực. Tín ngưỡng thờ phồn thực ở Bắc Ninh được thể hiện rõ nét qua một số lễ hội
truyền thống sau:
Tín ngưỡng đền Cùng, thuộc xã Hoà Long, huyện Yên Phong, mang tính phồn
thực nên người tứ phương tin rằng: trai chưa vợ, gái chưa chồng, hoặc vợ chồng
muốn sinh con, thì cứ đến đền Cùng làm lễ là sẽ được như ý, ca dao có câu:
Dù ai đi lễ bốn phương
Không bằng linh hiển thắp hương đền Cùng
Đền Cùng thờ hai bà Ngọc Dung và Thuỷ Tiên. Tương truyền hai bà là
công chúa con vua Lý Thành Tông. Bấy giờ ở vùng núi Kim Liên có lũ yêu
quái nổi lên quấy phá. Hai nàng Ngọc Dung, Thuỷ Tiên xin phép vua cha được
đi diệt trừ lũ tinh ma này. Hai bà đã cùng dân làng diệt trừ được lũ yêu quái
Mộc tinh, Ngư tinh, Hồ tinh. Sau, hai bà hoá ở đây và đều hoá rồng. Dân Viêm
Trang lập đền thờ hai bà. Đền Cùng nằm ngay ở đầu làng Diềm, thấp thoáng
ẩn hiện trong bóng cây đa già. Đền Cùng có giếng Ngọc, tương truyền rằng
giếng này có mạch nước chảy từ núi Kim Lĩnh xuống nên không bao giờ cạn.
Giếng có đôi cá chép vàng, cạnh giếng có cái cối đá to, có ban thờ riêng.
Khuôn hình của khố đá cũng như hình khối của các cột đá ngôi cầu nghỉ cạnh
đó là biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực, điều hoà âm dương, trời đất. Tín
ngưỡng phồn thực cầu mong sinh sôi; xưa, các đôi trai gái sắp cưới nhau, gia
đình đưa họ ra thắp nhang, lãm lễ ở cối đá [49, tr.14-15].
Làng Nga Hoàng, huyện Võ Giàng, trấn Kinh Bắc (nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh) thờ hai vị Thành hoàng một nam, một nữ là: Thành Đống Vành và Ninh Sơn Mỵ
Nương. Hàng năm, vào dịp đầu xuân từ ngày mùng 6 đến 15 tháng Giêng là làng mở hội
lệ với tục “chen”. Đây là một lễ hội mang tính phồn thực, chính trong những ngày hội vui
này mà nhiều cặp trai gái nên duyên vợ chồng. Một lễ hội vừa dân dã, vừa văn minh,
thoát khỏi các lệ tục phong kiến.
Làng Nhồi, tức làng Hoà Đình, thuộc xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh (nay là thành
phố Bắc Ninh). Hội chùa làng Nhồi được tổ chức vào ngày mùng 7 tháng giêng hàng
năm. Tính phồn thực của lễ hội được thể hiện qua việc: các cô gái nết na, chưa chồng của
làng Nhồi tụ tập “ngủ bọn” tại một nhà từ tối hôm trước (mùng 6), đến giời Tý nửa đêm,
các cô khiêng kiệu rước “Bà Đống” về làng, trên đường về trai làng Đống Cao chạy ra
cướp kiệu, các cô phải vừa giao tranh với trai làng Đống Cao, vừa bảo vệ cho những
người khiêng kiệu. Hai bên giằng co dùng đòn ném nhau gọi là tục “lao đòn đám”. Đòn
trúng vào ai, người đó tuy đau nhưng lại tin rằng năm đó sẽ được nhiều may mắn.
Thạch Quang Phật được thờ ở chùa Dâu, huyện Thuận Thành, vốn là một
hòn đá thiêng (Thạch Linh) - biểu tượng phồn thực trong tín ngưỡng của cư
dân nông nghiệp Việt cổ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Khi Phật giáo
từ ấn độ truyền sang, nó đã nhanh chóng hoà nhập và dung hợp với tín ngưỡng
bản địa. Từ Thạch Linh trở thành Thạch Quang Phật - tức hòn đá thiêng mang
tính Phật, mang dấu Phật. Phật “Thạch Quang” là khối đá hình ống, đầu trong
có nấc, đường kính đáy là 24 cm, một phía cao 26 cm, phía kia cao 23 cm, đặt
trong khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, hiện đặt trước tượng Pháp Vân trong
thượng điện chùa Dâu [32, tr.121-122].
ở làng Đồng Kỵ, xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn thường diễn ra một tục
rất náo nhiệt trong những dịp lễ hội của làng là tục “ôm cột Thái Bạch”. Mặc
dù ngày nay, cột Thái Bạch được giải thích là chiếc ấn tiên phong của “Thiên
Cương” - người anh hùng, ông tổ của làng Đồng Kỵ, song hành động ôm cột
(ngày nay cột đá được thay bằng cột gỗ) lại mang ý nghĩa phồn thực: dân Đồng
Kỵ quan niệm rằng, nếu ai ôm được cột đá đó thì không chỉ cá nhân người ấy,
mà cả xóm nơi người ấy cư trú sẽ “người an vật thịnh”, thóc đầy bồ, ngô đầy
đồng [17, tr.44].
Với ước muốn xóm làng được “phong đăng hoà cốc”, “nhân an vật thịnh” những
người dân lao động trong các làng xã Bắc Ninh, chẳng biết tự bao giờ đã sáng tạo ra các
trò chơi “bắt trạch trong chum”, “ôm cột”, rước sinh thực khí, “chen”, “múa bông”...
Những trò chơi này mang đậm màu sắc của tín ngưỡng thờ phồn thực của cư dân nông
nghiệp, bên trong cái vỏ tín ngưỡng này, có thể nói, đó chính là sự tổng kết kinh nghiệm
sản xuất của năm trước và chuẩn bị tinh thần cho công việc sản xuất năm sau.
Những công việc cần thiết này khi nó đã đựơc biến thể, cách điệu và được đưa vào
“hội” thì nó đã được văn hoá hoá và làm phong phú thêm về trữ lượng và chủng loại các
thành tố văn hoá của văn hoá làng vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc.
2.1.2.3. Tín ngưỡng thờ Mẫu
Xuất phát từ nét truyền thống văn hoá của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước là thờ
nữ thần - tôn thờ người mẹ, thờ Mẫu bao gồm việc thờ các vị thần được tôn phong như:
Quốc Mẫu, Thánh Mẫu, Vương Mẫu. Các Mẫu thường được thờ ở các đền, phủ riêng biệt
hoặc được phối thờ cùng các vị thần khác trong đình, chùa... Trong những năm gần đây
việc thờ Mẫu có những biểu hiện mới với những hình thức diễn xướng văn hoá dân gian
đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu.
Trong “Tứ bất tử”, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã phân tích rằng theo sự phát triển
muôn màu, muôn vẻ cảu tín ngưỡng dân gian, không có sự điều chỉnh, không có văn bản
quy phạm rõ ràng, tín ngưỡng về đức mẫu ngày càng thêm chồng chất nhiều lớp bổ sung.
Người ta tin rằng đã có Thánh Mẫu đứng đầu thì phải có nhiều thuộc hạ tuỳ tòng làm
quân gia cho Mẫu. Cung thất đền đài của Mẫu cũng là một mái ấm gia đình. Thủ hạ của
Mẫu đều cùng huyết thống. Và do đó dưới quyền Mẫu là những cô, những cậu, những
ông quan, ông hoàng. Như vậy là cả hệ thống thần linh được hình thành để trở nên đội
ngũ thủ túc của Thánh Mẫu. Những cái tên họ đặt ra thật là dân giã. Cô đệ Nhất, cô đệ
Nhị, ông hoàng Cả, ông hoàng Mười... Sau nữa, người ta đưa vào đây cả những anh hùng
dân tộc các thời đại vào châu tuần chung quanh đức Mẫu. Có cả vua, cả quan, thậm chí
có cả một triều đại như hệ thống các vị thần thuộc triều đại nhà Trần cũng có trong điện
thờ Tứ phủ.
Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, người Kinh Bắc - Bắc Ninh thường tôn thờ
các Mẫu - những người mẹ đã sinh thành ra những vị thánh nhân có công cứu dân, cứu
nước như chùa Điều Sơn, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh là nơi thờ mẹ đức Thánh
Gióng; chùa Cổ pháp, xã Đình Bảng và đình, chùa làng Dương Lôi, huyện Từ Sơn là nơi
thờ bà Phạm Thị - đức Lý Thánh Mẫu; đình làng Thanh Tương, xã Thanh Tương, huyện
Thuận Thành là nơi phối thờ Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp và Liễu Hạnh... Ngoài ra, hầu
như chùa nào ở Bắc Ninh đều có một gian thờ Mẫu, đặc biệt là chùa Phúc Nghiêm, huyện
Thuận Thành, nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.
Đền Cổ Mễ thuộc làng Cổ Mễ phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
là nơi thờ nữ thần được gọi là bà Chúa Kho. Tuy không tìm thấy thần tích, thần phả, hay
thơ ca lưu truyền như ở đền Giảng Võ nhưng ở địa phương Cổ Mễ, cũng như bà con gần
xa, đều gọi bà Chúa Kho là Linh Từ Quốc Mẫu. Có đôi câu đối ở trong đền ghi:
Câu đối ở ngoài cổng ghi:
“Chủ khố linh từ lưu đà tính
Anh linh thần miếu liệt sơn cao”.
Câu đối ở trong đền ghi:
“Lê triều chưởng khố chương hồng liệt
Nữ giới di danh trọng phúc thần”.
Theo truyền thuyết, bà có tên thật là Trần Thị Dung, vốn là vợ của Lý Huệ Tông.
Khi nhà vua mất bà lấy Trần Thủ Độ, vẫn được vua Trần phong làm Quốc Mẫu. Bà là
người đã có công vun đắp cho cuộc nhân duyên của con gái bà là Lý Chiêu Hoàng với
Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông). Bà là người cũng đã hoà giải được hiềm khích giữa hai
anh em Trần Cảnh và Trần Liễu để vương triều nhà Trần được ổn định.
Năm 1258, giặc Nguyên sang xâm lược nước ta, chiếm cả kinh thành
Thăng Long, vua quan phải đi lánh nạn, bà ở Hoàng Giang đã bảo vệ được
hoàng thái tử, cung phi, công chúa và vợ con các tướng thoát khỏi tay giặc. Bà
cũng bảo vệ được kho tàng lương thực cho quan quân [10, tr.20,21-23]...
Có thể nói, bà là người phụ nữ đầu tiên trong lịch nước ta lãnh đạo thành công việc
sơ tán và bảo vệ được kho tàng, lương thực cùng sinh mệnh của nhiều người khác.
2.2. Thực trạng tín ngưỡng Thành hoàng tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Các loại Thành hoàng
Bắc Ninh xưa kia bao gồm 4 phủ là: Từ Sơn, Thiên Phúc, Thuận An, Lạng
Giang; 20 huyện là: Tiên Du, Võ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, Thiên Phúc, Hiệp
Hoà, Việt Yên, Lang Tài, Gia Lâm, Văn Giang, Gia Bình, Siêu Loại, Yên Thế, Yên
Dũng, Bảo Lộc, Hữu Lũng, Phượng Nhãn, Lục Nam và Đông Ngàn [49, tr.34-35].
Theo sách “Địa chí Hà Bắ”, trong khoảng năm 1925 đến 1945 các đơn vị hành
chính của Bắc Ninh gôm 3 phủ là: Sơn Tây, Thuận Thành, Từ Sơn và 8 huyện là: Gia
Bình, Gia Lâm, Lang Tài, Quế Dương, Tiên Du, Văn Giang, Võ Giàng, Yên Phong. Theo
thống kê (Bảng 2), Bắc Ninh có 1939 vị thần Thành hoàng được thờ. Trong đó có 1411
vị là nhân thần- chiếm hơn 72%, 443 vị là thiên thần - chiếm gần 23%, 64 vị là thuỷ thần
- chiếm khoảng 3%, còn lại là sơn thần, thổ thần và Bản cảnh Thành hoàng - chiếm 2%
[6]. Sở dĩ các nhân thần được thờ làm Thành hoàng với số lượng lớn đến như vậy là do vị
trí địa lý của Bắc Ninh trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nước ta. Các Thành
hoàng là nhân thần chủ yếu là các vị tướng, danh nhân văn hoá thời Hùng Vương, và thời
Lý- Trần - Lê.
Bảng 2.1. Thống kê Thành hoàng Bắc Ninh [6]
Phủ/Huyện
Thành
hoàng
Gia
Bìn
h
Gia
Lâm
Lan
g T
ài
Quế
Dươ
ng
Sơn
Tây
Thu
ận T
hành
Tiê
n D
u
Từ
Sơn
Văn
Gia
ng
Võ
Già
ng
Yên
Pho
ng
Tổn
g
Nhân thần 91 180 118 121 1 189 181 244 50 147 89 1411
Thiên thần 28 56 65 34 0 82 45 55 30 12 36 443
Thuỷ thần 22 5 13 2 0 9 4 3 0 3 3 64
Sơn thần 5 1 0 0 0 0 3 3 0 0 4 16
Thổ thần 0 0 0 0 0 0 0 2 0 0 0 2
Khác 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 3
Tổng 146 242 196 157 1 280 233 307 80 162 135 1939
Nhân thần
Hầu như làng nào trên quê hương Bắc Ninh cũng thờ một vị nhân thần, chủ yếu là
các vị tướng các thời và những người có công lập ấp khai nghê, dạy dân làm ruộng, bảo
vệ xóm làng. Theo tiến trình thời gian có thể chia Thành hoàng Bắc Ninh theo các giai
đoạn sau:
- Thành hoàng thời Hùng Vương;
- Thành hoàng thời Bắc thuộc, thời hai Bà Trưng, thời tiền Lý;
- Thành hoàng thời Lý - Trần - Lê.
Xét theo nguồn gốc, công trạng của các thần có thể chia nhân thần theo các nhóm
sau:
- Thành hoàng là những nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc, các vị tướng có công
đánh giặc giữ nước;
- Thành hoàng là các nhân vật huyền thoại;
- Thành hoàng là các nhân vật nửa huyền thoại, nửa lịch sử;
- Thành hoàng là nữ;
- Thành hoàng là những người có công lập ấp, khai nghề, hành nghề y cứu đời;
- Thành hoàng có gốc Trung Quốc;
- Thành hoàng có liên quan tới các tôn giáo khác;
Có rất nhiều làng ở Bắc Ninh thờ các Thành hoàng là các vị thần thời Hùng Vương,
chủ yếu là các vị tướng lĩnh của các Vua Hùng trong thời kỳ dựng nước. Riêng ở huyện
Yên Phong đã có 11 làng thờ Thành hoàng là các vị thần thời Hùng Vương, đặc biệt là
các tướng lĩnh đã giúp các vua Hùng dựng nước và đánh giặc giữ nước.
Truyền thuyết về Thánh Gióng - Phù Đổng Thiên Vương và các bộ tướng của người
như Bạo ngược Đại Vương (Lương Công) cùng hai em là Minh Công và Trị Công đã huy
động nhân dân hai làng Thọ Đức và Đại Lâm (Tam Đa, Yên Phong) luyện tập võ nghệ
chống giặc Ân cứu nước kể lại như sau:
Đạo quân của ông hợp với đạo quân của Thánh Gióng đánh giặc, giặc Ân
bị thất bại nặng nề phải rút chạy khỏi nước ta. Từ đó dân hai làng Thọ Đức và
Đại Lâm theo lệnh vua Hùng thờ ba anh em Lương Công làm thần [27, tr.344-
347].
Trong cuộc kháng chiến chống Triệu Đà, những vị tướng được thờ làm Thành
hoàng ở nhiều làng vùng Lục Đầu - Bình Than xưa- ở huyện Gia Bình, Bắc Ninh đó là
Cao Lỗ Vương, một danh tướng của An Dương Vương, người có công thiết kế kiến trúc
thành Cổ Loa, sáng chế ra nỏ thần Liên châu. Theo truyền thuyết và thần tích, Cao Lỗ
sinh ngày10 tháng Ba âm lịch, là người vùng Bình Than.
Trong cuộc đấu tranh chống giặc Triệu Đà để bảo vệ Nhà nước Âu Lạc,
ông đã anh dũng hy sinh ở chân thành Cổ Loa, được hổ tha xác về quê. Dân
làng thấy liền đuổi hổ và an táng ông, di tích này còn đến ngày nay thuộc làng
Tiểu Than, xã Vạn Ninh huyện Gia Bình. Ông đựơc 7 làng thuộc vùng Lục
Đầu Giang thờ và lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng Ba hàng năm. Lễ hội
này bày tỏ lòng nhớ ơn vị danh tướng của quê hương [32, tr.102].
Nghìn năm Bắc thuộc không chỉ có đấu tranh chống xâm lược và chống đồng hoá,
mà còn là quá trình diễn ra sự giao lưu, tiếp xúc, hội nhập kinh tế, bảo tồn và phát triển
văn hoá dân tộc. Tại đây tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán - Đường đã được truyền bá
liên tục vào nước ta, chủ yếu là thông qua hoạt động của bộ máy thống trị và tần lớp quan
lại. Tại phủ Luy Lâu, thái thú Sĩ Nhiếp đã mở trường dạy học để đào tạo quan lại. Chính
vì vậy, chính sử của các nhà nước phong kiến và nhân dân vùng Luy Lâu đã tôn vinh Sĩ
Nhiếp là “Nam Giao Học Tổ”. Có thể nói rằng Bắc Ninh với trung tâm Luy Lâu là nơi
đầu tiên có trường học dạy chữ Hán và truyền bá văn hoá Hán ở nước ta. Để nhớ ơn ông
nhiều làng đã thờ ông làm Thành hoàng làng và được các triều vua ban sắc phong. Đặc
biệt có đền thờ ông ở làng Tam á, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành.
Theo thống kê của huyện Yên Phong, toàn huyện có tới 228 làng thờ Thành hoàng
là các vị thần thời Bắc thuộc, thời Hai Bà Trưng, thời tiền Lý thế kỷ thứ VI. Trong cuộc
khởi nghĩa của Lý Bí và cuộc kháng chiến do Triệu Quang Phục lãnh đạo, nhân dân Bắc
Ninh đã tham gia rất đông đảo, và nhiều vị tướng lĩnh đã đựơc nhân dân hai bên bờ sông
Cầu từ ngã ba “Xà” tớí “Lục Đầu Giang” thờ làm Thành hoàng. Trong số đó có tới hàng
trăm làng thờ Trương Hống, Trương Hát làm Thành hoàng, cùng với những truyền thuyết
về hai anh em họ Trương giúp vua đánh giặc.
Chiến thắng Như Nguyệt năm 1077 của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy tài tình
của Lý Thường Kiệt và các tướng lĩnh của ông, đánh tan 30 vạn quân Tống, đã mở ra một
giai đoạn phát triển cường thịnh của nước nhà. Sau chiến thắng này, các làng trên các
vùng đất dọc theo sông Như Nguyệt (sông Cầu) nơi diễn ra các cuộc chiến chống quân
Tống đã xuất hiện tục thờ thánh Tam Giang: Trương Hống, Trương Hát - vị thuỷ thần có
công âm phù Lý Thường Kiệt trong chiến thắng Như Nguyệt của quân dân ta. Theo thống
kê, có tới 372 làng thờ thánh Tam Giang dọc theo sông Như Nguyệt.
Nhiên thần
Ngoài các nhân vật lịch sử, thuỷ tổ dân tộc, hoặc các bậc tổ nghê được nhân dân thờ
phụng, các vị thiên thần cũng đựơc nhân dân Bắc Ninh sùng bái, ngưỡng vọng, thờ phụng
ở nhiều nơi. Tục thờ tứ phật “Tứ Pháp” - Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện - là
kết quả giao lưu văn hoá giữa nước ta với văn hoá ấn Độ, sự tiếp biến của tín ngưỡng bản
địa nước ta ở thời kỳ này. Phật “Pháp Vân” và Tứ Pháp được các đời vua sau nay ban
phong là “Đại Thánh” và được tôn thờ như là các vị thần Thành hoàng làng. Dân của 9
làng cổ thuộc 3 xã là: Phương Liễu, Phượng Mao và Nam Sơn, huyện Quế Võ thờ “Ngũ
Vị Lôi Công” (năm vị thần sét), thần được phong “Thượng đẳng tối linh”. Nền tảng vật
chất của lễ hội thờ “Ngũ Vị Lôi Công” của 9 làng xã chính là tín ngưỡng thờ các lực
lượng thiên nhiên (mây, mưa, sấm, chớp, gió) để cầu mưa thuận gió hoà của cư dân
người Việt cổ sinh sống ở đây.
Cao Sơn và Quý Minh là hai vị thần biểu tượng cho văn hoá tín ngưỡng của cư dân
sống ở vùng đồi núi và miền sông nước. Qua nhiều nguồn tư liệu, “Sơn thần gồm ba vị
thần phổ biến là Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn thống lĩnh tả bộ Sơn thần và Quý Minh
thống lĩnh hữu bộ Sơn thần. Ba vị thần linh tương ứng với ba đỉnh núi - Ba Vì - sơn khối
Tản Viên thuộc tỉnh Hà Tây ngày nay” [20, tr.110]. Nằm trong mạch phát triển của tục
thờ Tản Viên Sơn Thánh, việc thờ hai vị thần Cao Sơn và Quý Minh cũng rất phổ biến ở
Bắc Ninh. Theo thống kê có tới 56 làng thờ thần Quý Minh, 43 làng thờ thần Cao Sơn và
rất nhiều làng thờ cả hai vị thần Cao Sơn và Quý Minh. Tập trung chủ yếu là ở huyện
Quế Võ, huyện Từ Sơn và huyện Tiên Du - có 22 làng thờ thần Quý Minh và 23 làng thờ
thần Cao Sơn. Có lẽ điều này cũng dễ hiểu vì đây là những huyện có địa hình đồng bằng
sông nước xen lẫn đồi núi thấp, cư dân chủ yếu sống bằng nghề nông trồng lúa nước.
Về thờ thuỷ thần, Bắc Ninh là một tỉnh có hệ thống sông, ngòi khá dày đặc với các
con sông lớn chảy qua tạo thành một vùng đồng bằng phì nhiều, nên việc thờ thuỷ thần ở
đây rất phổ biến. Các thuỷ thần phổ biến được thờ như Nam Hải Đại Vương, đình Diềm,
xã Hoà Long, huyện Yên Phong thờ Vua Bà, Thuỷ tổ quan họ, bà được xem như là một
vị thần nước, bài vị đền Vua Bà có ghi: “Đương cảnh Thành hoàng, Quốc Vương thiên
tử, Nhữ Nương nam nữ, Nam Hải Đại Vương” [49, tr.13], Đông Hải, Thuỷ Bá... Hiện
nay, theo điều tra bước đầu thu được, có tới 21 vị thuỷ thần được thờ ở Thuận Thành,
trong đó làng Liễu Ngạn có 3 vị, thôn Bùi Xá, làng Cửu Yên có 1 vị, thôn Cựu, làng Cựu
Cáp có 1 vị, Mão Điền có 2 vị, Đông Miếu có 3 vị, Thuỵ Mão có 1 vị, Lạc Thổ có 1 vị,
Đại Đồng Thành có 1 vị, Bình Ngô có 1 vị, Yên Ngô có 1 vị, Nghi Khúc có 1 vị và
Thường Vũ có 1 vị. Các đền thờ thuỷ thần này chủ yếu nằm dọc theo các bờ sông, là nơi
luôn phải chịu sự tàn phá ghê gớm của thuỷ tai, những khi lũ lụt nặng nề, cũng có khi hạn
hán mất mùa, đời sống của con người luôn bị đe doạ. Bắt nguồn từ quan niệm cho rằng
vạn vật có linh hồn và theo một tâm lý tự nhiên để trấn áp nỗi sợ hãi, có rất nhiều làng đã
thờ thuỷ thần làm thành hoàng. Nhưng mỗi nơi, mỗi vùng văn hoá lại có những đặc trưng
riêng [23].
Đặc biệt, ở Bắc Ninh rất phổ biến tục thờ Thánh Tam Giang. Đến thời Lê Sơ, để
hội lực giữa vương quyền và thần quyền, nhà Lê đã cho lịch sử hoá hàng loạt các thần tự
nhiên với quê quán, công trạng khá cụ thể... để “thần” được sống mãi trong dân gian.
Thánh Tam Giang, các vị thuỷ thần đã được lịch sử hoá thành các vị tướng tài giỏi của
Triệu Quang Phục: Trương Hống, Trương Hát có công đánh giặc Lương vào thế kỷ VI.
Các ông đã được nhân dân các làng ven sông Cầu thờ làm thần Thành hoàng làng, đặc
biệt là từ sau chiến thắng Như Nguyệt 1077, do hai ông đã có công âm phù giúp Lý
Thường Kiệt đánh tan quân Tống.
2.2.2. Một số nơi thờ tự Thành hoàng điển hình
Theo thống kê phân loại bước đầu của Bảo Tàng Bắc Ninh, hiện nay trong 1.259 di
tích có 425 ngôi đình, 153 ngôi đền, 44 ngôi miếu, và 40 ngôi nghè. Trong các nghè,
miếu, đình, đền thờ Thành hoàng có nhiều ngôi được xếp hạng di tích lịch sử. Bắc Ninh
hiện có rất nhiều ngôi đình, đền cổ rất có giá trị về mặt lịch sử, tôn giáo, nghệ thuật và
văn hoá như: đình Đông Khang, đình Diềm, đình Đình Bảng, đền Xà, đền thờ Sỹ Nhiếp,
đền Đô... Xưa kia đã có câu:
Thứ nhất là đình Đông Khang,
Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm.
Tuy nhiên, các nghè, miếu, đình, đền cổ phần lớn đã bị hư hại trong những năm
chiến tranh, không còn giữ được nguyên trạng như xưa. Trong ba ngôi đình lớn nổi tiếng
của Bắc Ninh là đình Đông Khang, đình Đình Bảng và đình Diềm thì hiện nay chỉ còn
đình Đình Bảng là còn giữ được khá nguyên vẹn:
Đình Đình Bảng (thuộc làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn) được khởi dựng vào năm
Bính Thìn triều Lê niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Đình được dựng trên một khu đất
hình con nhện khổng lồ, ở trung tâm làng. Đây là một công trình kiến trúc giàu tính dân
tộc với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo. Đình trông về hướng Nam, nguyên trước đây có
cả tam quan, tả vu và hữu vu. Nhưng những công trình ấy đã bị hư hại trong thời gian
kháng chiến chống Pháp, nay đình chỉ còn lại toà bái đường, ống muống và hậu cung nối
liền với nhau thành một khối hình chữ công.
Toà bái đường hay còn gọi là đại đình được dựng trên nền cao hai bậc cấp đá xanh
bó xung quanh, dài 20m, rộng 14m, từ bề mặt nền đến bờ nóc cao 8m, trong khối nhà bề
thế vững chãi. Bốn mái đình úp trên toàn nhà chiếm 2/3 chiều cao toàn thể và xoè rộng ra
bốn phía. Bốn mặt của đại đình đều bưng cửa bức bàn bằng gỗ soi bó trơn tru.
Nền đình chỉ có phần lòng giếng ở gian giữa lát gạch chéo là nem, các gian bên đều
có sàn gỗ cao 0,7m vừa có tác dụng chống ẩm, vừa đảm bảo độ thoáng mát.
Toà bái đường có 7 gian chính và hai gian trái với 6 hàng cột, tổng cộng là 60 chiếc
cột đều có chân đế bằng đá xanh. Các vì kèo của toà bái đường cấu trúc theo lối vì chồng
giường “thượng tam hạ tứ” riêng hai kẻ kéo dài suốt từ cột cái sang hai cột góc dẫn vào
nhà chuôi vồ, vồng cong trông mềm mại mà chắc khoẻ lại rất độc đáo.
Đình Diềm thuộc xã Hoà Long, huyên Yên Phong, được xây dựng vào năm 1692
(năm Nhâm Thân), đình xưa có 7 gian, nhưng sau khi thực hiện chủ trương tiêu thổ
kháng chiến, nay chỉ còn lại 5 gian. Toà đại đình 4 mái, đao cong, lòng rộng, tạo cho bên
trong một không gian thoáng rộng. 4 cột cái cao to chu vi tới 2,14m. Bốn đầu dư đỡ hai
câu đầu ở gian giữa có chạm khắc hình rồng và mây. Các chi tiết khác của khung đình chỉ
bào trơn đóng bén, soi gờ chạy thẳng. Nghệ thuật chạm khắc ở đình Diềm chủ yếu tập
trung nơi cửa võng và trên chiếc nhang án thờ. Toàn bộ cửa võng thếp vàng rực rỡ. Đây
là một công trình nghệ thuật độc đáo.
Đền Xà, thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong, là trung tâm tín ngưỡng văn hoá
quan trọng trong số hơn 300 làng thờ đức Thánh Tam Giang, là đầu mối của vùng thờ
Thánh Tam Giang dọc sông Cầu “thượng ngã ba Xà, hạ Lục đầu giang”. Đền Xà bị thực
dân Pháp phá huỷ thời kỳ kháng chiến. Vốn trước đó đền có quy mô cấu trúc khá đồ sộ,
gồm tiền tế, hậu đường, tả vu, hữu vu, kiểu con chồng kẻ truyền, hướng nhìn ra ngã ba
sông. Việc thờ phụng, cùng đồ thờ tự ở đây chủ yếu phản ánh về đức Thánh Tam Giang.
Để bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng của di tích lịch sử văn hoá. Đảng và Nhà
nước đã ban hành và thực hiện chủ trương, chính sách đối với di tích, đặc biệt là Luật Di
sản văn hoá được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua là có sở pháp lý để thực hiện
bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá.
Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác bảo tồn di tích ở
tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã thu được một số kết quả và thành tựu quan trọng.
Tỉnh đã thực hiện việc xếp hạng các di tích qua đó đã bảo vệ được các di tích quan trọng,
xác định giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật của di tích, lập bản đồ đất đai và khoanh vùng
bảo vệ di tích ngăn chặn sự xâm hại di tích.
Những năm gần đây, cùng với nguồn vốn của Nhà nước, các làng, các thôn đã huy
động nhân dân tham gia đóng góp nhằm trùng tu, tôn tạo các đình, nghè, miếu thờ Thành
hoàng làng mình. Một số ngôi đình đã bị tàn phá trong chiến tranh thì nay đã được khôi
phục lại.
2.3. Đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh
2.3.1. Đặc điểm tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh
Là một bộ phận của tín ngưỡng thờ Thành hoàng Việt Nam, tín ngưỡng Thành
hoàng Bắc Ninh cũng mang các đặc điểm cơ bản là lịch sử hoá, phàm tục hoá, dân gian
hoá thần bảo hộ, thờ các hiện tượng tự nhiên như: thần cây, thần đá, mây, mưa, sấm,
chớp..., thể hiện sự sùng kính của nhân dân trước cái thiêng...
Ngoài việc thờ các thần Tản viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh cũng như bao làng
quê thuộc vùng sông nước, đồi núi khác ở Việt Nam, Thành hoàng Bắc Ninh cũng mang
những đặc điểm riêng điển hình đó là:
Một là, có sự đa dạng trong điện thờ Thành hoàng ở Bắc Ninh. Rất ít làng chỉ thờ
một vị thần Thành hoàng, mà các làng thường thờ từ hai, ba, đến năm vị. Trong số các vị
thần được thờ làm thần Thành hoàng có nhân thần, nhiên thần, các vị thần có liên quan
tới các tôn giáo khác, có thần là nữ, có cả tà thần, thần có nguồn gốc Trung Quốc...
Làng Lập ái, huyện Gia Bình thờ 5 vị thần Thành hoàng, bao gồm 2 vị là thiên thần
“Lão Mẫu Tuyên Bà”, “Thương Quốc Tuy Ông” và 3 vị là nhân thần “Thái Bảo”,
“Hoàng Bảo” và “Hắc Đế”; thôn Kim Sơn và thôn Long Khê, làng Cựu Lự, huyện Quế
Võ thờ hai vị nhân thần là “Triệu Quang Phục” và “Triệu Đà”; làng An Trạch, huyện Quế
Võ thờ hai nhân thần là “Thiên Dục”, “Đống Vinh” và thờ cả “Liễu Hạnh” làm Thành
hoàng; thôn Bùng, xã Bình Dương, huyện Gia Bình thờ đức thánh “Côn Nương” là một
nữ tướng có công đánh giặc Hán; làng Đông Xuyên, xã Nội Trà, huyện Yên Phong thờ
“Tam Giang Đại Vương”, “Cao Phẩm Đại Vương”, và “Trần Thị Đại Vương”, theo
truyền thuyết, đức “Trần Thị Đại Vương” là thuỷ tổ họ Trần, ngài đã có công dạy dân
khai khẩn ruộng đất và lập thành xã hiệu Đông Xuyên, dân cảm công đức tôn ông làm
“Trần Thị Đại Vương”...
Hai là, tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh phản ánh vai trò của người dân Bắc Ninh
- Kinh Bắc trong quá trình dựng nước và đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua các thời
đại, phản ánh sự đoàn kết và đùm bọc lẫn nhau trong quá trình lao động sản xuất và bảo
vệ xóm làng. Tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh chủ yếu là tín ngưỡng thờ phúc thần.
Đó là những người có công lập ấp, khai nghề, các vị tướng lĩnh ở các thời Hùng Vương,
Hai Bà Trưng, Lý, Trần, Lê... Phần lớn phúc thần ở Bắc Ninh là những người có công
đánh giặc giữ nước.
Các vị anh hùng dân tộc, tướng sĩ ở các thời có công đánh giặc giữ nước như đức
Thiên Cương, được thờ ở đình Đồng Kỵ, xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn; Trần Hưng
Đạo được thờ ở làng Đông Thái, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong; một số thôn của xã
Cao Đức, huyện Gia Bình thờ đức thánh Cao Lỗ Vương thời Thục Phán An Dương
Vương như làng Văn Than, làng Trại Than, làng Đình Than... Đây đều là các tướng sĩ
anh dũng trong các cuộc kháng chiến của dân tộc ta, có nhiều người đã chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng quyết không đầu hàng giặc; Thôn Đại Vy, xã Đại Đồng, huyện Tiên Du thờ
ba vị thần là Trường Ngọ, Trường Mai và Bạch Đa. Các thần là ba bộ tướng của Đinh
Tiên Hoàng đã anh dũng hy sinh ở đây được nhân dân thờ làm thành hoàng làng
[TLĐD]; “Đình làng Đại Trung, xã Đại Đồng, huyện Tiên Du thờ một vị thần là Đại sĩ
Linh Thông Bảo Hiệu hiển ứng Côn Sơn đại vương, thần nguyên là một vị tướng dưới
thời Trần, có công diệt giặc được vua Trùng Quang đến tế lễ và ban sắc phong ông làm
phúc thần” [50, tr.507-508].
- Những người có công lập ấp, khai nghề, hành nghề y cứu đời. Bắc Ninh là một
vùng quê trù phú với nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng một thời. Làng Đông Suất
(Đông Thọ, Yên Phong) sản xuất cày, bừa; làng này thờ Nguyễn Hữu Nghiêm, ông tổ
nghề nông. Làng Đa Hội (Châu Khê, Từ Sơn) sản xuất búa liềm, mai, thuổng, cuốc, dao,
kéo; làng thờ Quận công Trần Đức Huệ, ông tổ nghề rèn sắt. Làng Đống Cao (Phong
Khê) sản xuất giấy dó. Làng Đồng Kỵ (xã Đồng Quang, Từ Sơn) sản xuất đồ gỗ mỹ
nghệ... Đặc biệt, làng Đình Bảng thờ ba vị thần là: Cao Sơn đại vương (Thần Đất), Thuỷ
Bá đại vương (Thần Nước) và Bạch Lệ đại vương (Thần trồng trọt). Làng Quả Cảm, xã
Hoà Long, huyện Yên Phong thờ Bà Chúa Sành - tổ nghề gốm. Làng Quảng Bố, xã
Quảng Phú, huyện Lương Tài thờ Nguyễn Công Nghệ - tổ nghề đúc đồng. Làng Đại
Phúc, phường Đại Phúc thờ danh y Nguyễn Phúc Xuyên. Làng Đại Bái, huyện Gia Bình
thờ tổ nghề đúc đồng Nguyễn Công Truyền.
Theo thần phả, Nguyễn Công Truyền là người làng Đại Bái, sinh năm
989, mất 29 tháng 9 âm lịch năm 1069, con ông bà Nguyễn Công Tiến. Lúc
nhỏ, theo cha vào Thanh Hoá sinh sống; trưởng thành ra nhập quân ngũ, làm
quan tới chức Đô Uý, được phong Điện tiền tướng quân. Sau khi cha mất, ông
từ quan đưa mẹ về quê cũ làm ăn. Từ đó, ông sáng tạo ra nghề gò đồng, dạy
cho dân, trở thành nghề chính của làng Đại Bái. Sau khi ông mất, được nhà
vua phong "Dực Bảo trung hưng linh phù chi thần"“. Dân làng Đại Bái lập đền
thờ ông làm Tiên sư [32, tr.95-96].
Ba là, tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh đặc biệt phản ánh cuộc kháng chiến chống
quân Tống của quân dân ta nói chung, quân dân Bắc Ninh nói riêng, với chiến thắng Như
Nguyệt vào năm 1077, từ đây xuất hiện tục thờ đức Thánh Tam Giang - Trương Hống,
Trương Hát, vị thuỷ thần ở hơn 300 làng dọc theo bờ con sông Cầu với trung tâm là Đền
Xà, thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong tới các huyện Từ Sơn, Tiên Du, Quế Võ...
Về nguyên thuỷ, Thánh Tam Giang có gốc là thần tự nhiên (Thần Rắn) với
truyền thuyết kể lại rằng: “ở làng Vân Mẫu có người đàn bà cao tuổi mà không
chồng, không con, một hôm đi tắm sông, có con rắn cuốn vào người. Về nhà, tự
dưng bà có thai, đẻ ra một cái bọc có 5 trứng, sau nở thành 5 người con là Trương
Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và một cô con gái. Sau khi Trương Hống,
Trương Hát hoá ở Ngã ba Xà nên gọi là Thánh Tam Giang”.
Tuy nhiên, sau khi được lịch sử hoá, các tình tiết lịch sử trong truyện đều gắn với
các địa phương. Thần thoại Thánh Tam Giang ở làng Viêm Xá, Yên Phong kể lại rằng:
Khi Trương Hống, Trương Hát làm tướng của Triệu Quang Phục có đóng
quân và nghỉ ở chùa làng Viêm Xá. Vị nữ thần trông coi chùa báo mộng cho
hai ngài kéo quân về đầm Dạ Trạch để phục binh diệt giặc. Về sau, hai ngài lại
về Viêm Xá làm ruộng, nay ở Viêm Xá vẫn còn một cánh đồng do hai ông
khai phá, gọi là "Đồng Mặt gương". Người làng Đống Cao thì kể: Trên đường
từ quan về Viêm Xá, hai ngài vứt đao, vứt yên ngựa trên các cánh đồng ở
Đống Cao, những nơi ấy sau gọi là đồng Mũi Đao, đồng Yên Ngựa [27,
tr.323].
Theo thần phả, sắc phong của triều đình phong kiến tại đền Thị Cầu, phường Thị
Cầu, thành phố Bắc Ninh, thì Trương Hống, Trương Hát quê ỏ xã Vân Mẫu, huyện Quế
Võ. “Các ngài là những tướng giỏi của Triệu Quang Phục đánh giặc Lương vào thế kỷ
thứ VI. Khi Lý Phật Tử phản trắc cướp ngôi của Triệu Quang Phục, hai ông đã tuẫn tiết
tại ngã ba Xà trên dòng sông Cầu, giữ tấm lòng trung với vua” [32, tr.65-66].
Bốn là, việc thực hành thờ cúng Thành hoàng có những bước thực hiện chặt chẽ với
các lễ tục, nghi thức mang đậm nét văn hoá dân gian như:
- Lễ rước nước
Là nghi lễ thường được cử hành trước khi mở hội một ngày. Làng cử một số người
ra sông hoặc giếng múc nước vào chiếc choé hoặc bình sứ rồi đặt lên kiệu rước về đình
để lễ thần. Tục rước nước chính là lớp văn hoá tín ngưỡng cổ xa của cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước. Làng Thị Cầu có tục rước nước từ sông Cầu về Nghè Sim thờ Thánh Tam
Giang, Cao Sơn và Quý Minh; “vào sáng mùng 7, sau lễ cáo yết, đoàn rước của làng tiến
về phía sông Cầu để rước nước về nghè Sim ở lưng chừng núi Thiềm Sơn” [32, tr.66].
Làng Ngọc Khám, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành thờ thần Trị Sơn và thần Trị Thuỷ
có tục rước nước và rước hậu thần vào ngày 5 tháng giêng; tham gia rước là những thanh
niên được làng chọn cử, lập thành đoàn rước tiến ra giếng làng; từ ngày mùng một tết,
không một ai trong làng được ra giếng gánh nước, cho đến hêt ngày mùng 7 tết; nước đ-
ược lấy vào chum rồi rước về đình làng.
- Lễ mộc dục
Là lễ tắm rửa tượng thần hoặc thần vị trước khi làng vào đám. Việc này thường
được làng giao cho những người có trách nhiệm, cẩn thận. Tượng được tắm bằng nước
sạch vừa rước về, sau đó lại được tắm lại bằng nước thơm.
- Lễ tế gia quan
Là lễ khoác áo, mũ cho tượng thần, thần vị. Có thể là mũ áo được triều đình phong
theo chức tước, phẩm hàm đương thời hoặc mũ áo được đặt làm ở các hàng mã. Sau khi
mọi việc đã hoàn tất, làng vào tế một tuần trước long kiệu gọi là tế gia quan.
- Lễ rước kiệu
Là lễ di chuyển tượng thần hoặc bài vị thần một cách long trọng từ địa điểm này qua
địa điểm khác trên một chiếc kiệu làm bằng gỗ do nhiều người khiêng. Thông thường
kiệu được rước từ đền, miếu hay chùa ra đình (nhập tịch) cho đến hôm rã đám thì lại rước
về chỗ cũ (rước hoàn cung). Trật tự đám rước thường theo thứ tự: đi đầu đám rước là ng-
ời cầm cờ (gồm cờ tiết, cờ mao, cờ ngũ hành, cờ tứ linh, cờ bát quái), tiếp theo là chiêng
trống, bát bửu, long đình, kiệu, đồ tế khí như gươm, đao, giáo, mác, bô lão, hương chức,
dân đinh.
- Đại tế
Đây là nghi lễ trang trọng nhất trong hệ thống lễ. Dân làng thường chuẩn bị lễ vật để
tế thần gồm: xôi, lơn hoặc gà, thậm chí có nơi còn mổ trâu, bò, hoa quả và hương. Những
ông Cai đám có trách nhiệm cùng với ông Quan viên đứng ra lo toan, tổ chức, điều hành
toàn bộ hoạt động của buổi lễ ngày hội. Những người trong ban tế lễ, vào hôm tế lễ, phải
mặc lễ phục thống nhất. Đại tế có mục đích thỉnh mời và đón rước thần linh về dự hội để
dân làng chúc tụng, tỏ lòng biết ơn đấng thần linh đã từng che chở cho làng mình [17,
tr.130-131].
- Lễ túc trực
Là việc trong nom canh giữ tượng thần hoặc thần vị khi rước ngài ra giữa đình
chung vui với dân làng. Tuỳ theo thời gian mở hội dài hay ngắn mà tượng thần sẽ ngự tại
đình lâu hay không. Trong suốt thời gian đó, các vị chức sắc, bô lão, quan viên ở làng
phải phân công nhau để luôn có mặt ở đình mà phụng sự thần cho chu đáo.
- Lễ hèm
Là nghi lễ nhằm ôn lại một quãng đời của thần lúc sinh thời. Hèm là “việc kín” ở
nội cung do nội bộ dân làng mình biết chứ không để lộ ra ngoài sợ người ta chê cười nên
khách thập phương chẳng mấy ai được chứng kiến lễ hèm. Ngoài ra, có những lễ hèm
nhắc đến việc không hẳn là xấu, là tầm thường nhưng vẫn được giữ kín nhằm đảm bảo
tính chất Thiêng.
“Lễ hèm không phổ biến ở tất cả các hội, nhưng hội nào đã có hèm, thì không thể bỏ
hèm vì lễ này ôn lại thủa hàn vi của thần, là mộ biểu hiện của lòng tôn kính đối với thần
linh” [17, tr.131-132].
Lễ hội làng Đại Bái xưa kéo dài từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4; với nhiều nghi
thức như tế, lễ, rước sách và mở nhiều trò vui.
Độc đáo nhất là tế gà trắng (thần Bạch Kê). Khi hành lễ và rã đám, người
ta mua hai chiếc thuyền giấy và thả xuống sông Bái Giang - một chi lưu của
sông Dâu xưa, chảy qua làng Đại Bái, rồi đổ ra sông Lục Đầu. Ngày 17 tháng
4, dân làng làm lễ tế trời, thần Bạch Kê, sau đó giết thịt. Thân gà đem chia cho
mọi người, còn riêng đầu gà phải đem chôn. Người Đại Bái quan niệm và tin
tưởng rằng tế thần Bạch Kê thì dân làng sẽ được yên ổn, làm ăn phát đạt [32,
tr.94-95].
2.3.2. Vai trò của tín ngưỡng Thành hoàng trong đời sống tinh thần của nhân
dân Bắc Ninh
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng, trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữa nước
của dân tộc ta nói chung cũng như lịch sử hình thành của Bắc Ninh - Kinh Bắc nói riêng,
đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tâm linh, tinh thần của nhân.
Thành hoàng là sợi dây liên kết, là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết giữa gia đình, làng
xóm: “Trong họ ngoài làng, tắt lửa tối đèn có nhau”, “Sống ở làng, sang ở nước”,
“Thương người như thể thương thân”, “Tứ hải giao tình, bốn biển một nhà” (dân ca Quan
họ)... trong lao động sản xuất và đánh giặc giữ nước, giữ đất của cha ông ta. Đâu đâu trên
đất Bắc Ninh cũng có các làng thờ các vị tướng lĩnh đã có công trong việc dẹp giặc, hay
có công âm phù đánh giặc giữ nước, có công bảo vệ nhân dân tránh mọi tai ương trong
lao động sản xuất, trong đời sống đảm bảo cho mọi người dân có một cuộc sống an vui,
thanh bình. Tục thờ Thành hoàng đã góp phần bảo tồn truyền thống uống nước nhờ
nguồn của dân tộc ta nói chung cũng như của người dân Bắc Ninh nói riêng. Tín ngưỡng
Thành hoàng Bắc Ninh cũng góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá truyền
thống thông qua các lễ hội của các làng. Với những nét đặc sắc của phần lễ trong việc tế
lễ Thành hoàng làng và các hoạt động văn hoá thể thao trong phần hội, Bắc Ninh đã và
đang là một trong những trung tâm văn hoá đặc sắc thu hút hàng vạn khách thập phương
tới tham quan và tham dự các lễ hội hàng năm. Sau lễ hội, nhân dân toàn tỉnh lại phấn
khởi và thêm phần tin tưởng hay say lao động sản xuất vì trong sâu thẳm tâm linh của
mình người dân tin rằng họ đã có Thành hoàng bảo vệ tránh mọi tai ương, rủi ro trong
cuộc sống, họ tin rằng mọi may mắn sẽ tới và mọi hoạt động của mình đều có sự phù trợ
của thần.
Ngoài ra, với các lễ hội truyền thống trong thờ Thành hoàng làng, tín ngưỡng Thành
hoàng Bắc Ninh góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể, có những đóng góp
không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo môi trường tốt cho cái chân, thiện, mỹ phát triển, đề
cao kỷ cương gia đình và xã hội trong mỗi tâm hồn con người Việt Nam, làm cho họ biết
nhớ về cội nguồn, gắn bó và yêu thương quê hương, cộng đồng, dân tộc, muốn sống một
cuộc sống có ý nghĩa hơn, vì sự tồn tại và phát triển của quê hương, đất nước. Đặc biệt,
trong thời đại ngày nay, trước xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, khi mà những tác động
tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã và đang từng ngày làm mai một những giá trị
truyền thống tốt đẹp, phần nào làm xói mòn đạo đức xã hội, gây ra những bất ổn, xáo trộn
trong tinh thần của người dân. Do đó, Tín ngưỡng Thành hoàng góp phần không nhỏ
trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của văn hoá bản địa trong giai đoạn
hiện nay.
Tín ngưỡng Thành hoàng, với các thành tố cấu thành trong nó là thần Thành hoàng,
thần tích, thần điện, tục lệ, trò diễn, cùng với các yếu tố của phạm vi lễ hội như thời gian,
không gian, nội dung, ý nghĩa và văn hoá làng, văn hoá vùng miền, đã và đang thoả mãn
nhu cầu hội hè, đình đám của người dân, đặc biệt là những người nông dân, thoả mãn tâm
thức nông nghiệp, lễ nghi nông nghiệp với những lễ thức như rước nước, mộc dục... Về
thực chất, đây là những lễ cầu nước để đảm bảo một vụ mùa bội thu; các trò như “ôm cột
Thái Bạch”, “lao đòn đám”, “múa bông”... thể hiện sự sinh sôi của người nông dân trồng
lúa nước cư trú ở vùng Kinh Bắc.
Sau phần lễ là đến phần hội - một hoạt động ăn sâu vào tiềm thức của hàng vạn con
người và trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần không thể thiếu được. Ngoài
nhu sinh hoạt văn hoá, tâm linh qua các lễ hội trong tín ngưỡng Thành hoàng, tín ngưỡng
Thành hoàng còn thể hiện nhu cầu nâng cao khả năng tư duy, sức khoẻ của người dân
Bắc Ninh - Kinh Bắc qua các hội thi như: thi đọc mục lục ở làng Phù Khê, Từ Sơn; thi
đấu cờ người ở Đình Bảng, Từ Sơn và nhiều làng khác, thi hát Quan họ, thi nấu cơm, thi
bơi thuyền, đấu vật...
Lễ hội, một hình thức thể hiện văn hoá cộng đồng, qua quá trình lịch sử, phát triển
và biến đổi không ngừng vừa thể hiện tính liên tục và kế thừa vừa mang tính thời đại.
Nên trong một giai đoạn lịch sử nhất định, lễ hội mang trong mình nó nhiều lớp văn hoá,
lớp mới phủ lên lớp cũ, lớp ngoại sinh phủ lên lớp nội sinh, đan xen lẫn nhau, thẩm thấu
vào nhau. Lễ hội vừa mang tính cộng đồng dân dã, ở đấy người tham dự được tận hưởng
những thú vui đồng nội, những trò chơi nông thôn, những hương vị đồng quê mộc mạc,
chân thực... vừa mang tính tôn giáo; ở đấy có sự tranh chấp, hoà hợp giữa tôn giáo địa
phương dân dã và các tôn giáo ngoại sinh như Đạo giáo, Phật giáo và Khổng giáo... Bước
vào lễ hội, người tham dự như đi vào một không gian và thời gian nửa thực, nửa hư, nửa
tục, nửa thiêng. Họ cảm nhận thú vui của những trò chơi như thả chim, chọi gà, cướp
cầu..., tham dự các cuộc thi như đấu vật, kéo co, nấu cơm, bắt chạch trong chum... không
chỉ với ý nghĩa giải trí thông tục, mà còn thấy mình tham dự vào một tiến trình tôn giáo
của lễ hội. Nhiều trò chơi, giải trí, nhiều cuộc thi chỉ có ý nghĩa tượng trưng nhằm mục
đích tôn giáo. Cũng có những trò chơi mà ý nghĩa tôn giáo của nó bị phai mờ theo thời
gian.. Nhưng ta có thể thấy rằng, toàn bộ các hoạt động của lễ hội là một thể thống nhất.
Bắc Ninh - Kinh Bắc là miền quê của chùa chiền, lăng miếu, đền đài, là mảnh đất
của lễ hội, của truyền thống văn hoá dân gian với các lễ hội chính như (xem phụ lục 1):
- Hội làng Đồng Kỵ
Làng Đồng Kỵ thuộc xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn là một làng nghề buôn trù phú
và nổi tiếng ở Bắc Ninh. Từ xưa làng Đồng Kỵ đã nổi tiếng bởi hội pháo thật đặc sắc và
độc đáo, thu hút hàng nghìn du khác từ khắp nơi đổ về, đặc biệt là du khách nước ngoài
tới xem và nghiên cứu. Hội được tổ chức hàng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng âm
lịch.
Truyền thuyết và thần tích của người Đồng Kỵ kể rằng: vào thời Hùng Vương, có
một ông Cương Công, con trai ông Kinh Bắc quận vương, có công dẹp giặc xích quỷ,
được phong là Thiên Cương. Trên đường dẹp giặc, Thiên Cương đã về Đồng Kỵ tuyển
quân, chọn tướng. Vào ngày mùng 4 tháng giêng, ông ra lệnh xuất quân đánh giặc. Thiên
Cương chia quân làm 4 đạo và giao cho 4 tướng chỉ huy. Trong buổi ra quân, mọi người
tổ chức đốt pháo, hò reo, tạo nên một không khí náo nhiệt, hào hùng. Khi dẹp xong giặc
“Xích quỷ”, Thiên Cương trở về Đồng Kỵ cùng nhân dân mở hội ăn mừng. Để tưởng nhớ
công lao của Thiên Cương, dân làng Đồng Kỵ tôn thờ ông làm Thành hoàng, và hàng
năm mở hội thi đốt pháo, tái hiện ngày Thiên Cương ra lệnh xuất quân đánh giặc.
ở hội pháo Đồng Kỵ, thi pháo là hình thức độc đáo nhất, quan trọng nhất của ngày
hội. Ngoài ra còn có một số hoạt động khác như đấu vật, cờ tướng, chọi gà, leo dây, thi
dệt vải, hát tuồng...
Năm 1995, khi Nhà nước có Chỉ thị 406/TTg về việc cấm đốt pháo trong toàn quốc,
nhân dân Đồng Kỵ đã chấp hành nghiêm chỉnh, vì vậy, ngày 12/09 năm 1995 Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 555/TTg tặng bằng khen cho nhân dân và cán bộ thôn
Đồng Kỵ về thành tích thực hiện tôt chỉ thị 406/TTg.
Vào ngày mùng 4 tháng giêng hàng năm, hội làng Đồng Kỵ vẫn được mở và ngày
càng đông vui nhộn nhịp. Khách tới du hội tuy không được xem rước và đốt pháo, nhưng
khi vào đình vẫn được xem những quả pháo thờ tưởng như nghe vang đâu đây tiếng pháo
lệnh của Thánh Thiên Cương thủa nào ra trận. Nhiều hoạt động truyền thống vẫn được
duy trì cùng với các hoạt động văn hoá, thể thao tiên tiến như bóng chuyền, cầu lông...
- Hội đền Vua Bà
Hội đền Vua Bà hay còn gọi là hội làng Diềm (Viêm Xá), xã Hoà Long, huyện Yên
Phong, được mở vào ngày mùng 6 tháng 2 âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội truyền thống
ở một làng quan họ gốc, nơi có đền thờ Vua Bà - thuỷ tổ quan họ. Làng Diềm nằm dưới
chân núi Kim Sơn, nơi hợp lưu của Sông Cầu và sông Ngũ huyện Khê.
Diềm là một làng cổ, có lịch sử lâu đời, đồng thời la làng quan họ gốc, nơi duy nhất
có đền thờ đức Vua Bà - Thuỷ tổ quan họ, trong số 49 làng quan họ của quê hương Bắc
Ninh.
Tương truyền rằng Vua Bà là con gái Hùng Vương. Khi bà xấp xỉ tới
tuổi cập kê, có rất nhiều người đến cầu hôn. Vua bèn tổ chức hội cướp cầu để
chọn phò mã. Trong ngày hội cướp cầu do nhà vua tổ chức để chọn phò mã,
bà không ưng ý vua cha nên đã xin vua cha ra khỏi kinh thành đi du xuân.
Trong khi du ngoạn, bỗng đâu cơn mưa to, gió lớn ập đến, cuốn cả đoàn
người lên trời. Rồi lại giáng Bà cùng các thị nữ xuống ấp Viêm Trang. Bấy
giờ Viêm Trang là một vùng đất hoang dã, cây nước, lau sậy um tùm, rậm
rạp. Bà ở lại đây, giúp dân dựng lập làng xóm, tổ chức cuộc sống có tập tục,
thuần phong, dạy dân cấy lúa trồng hoa mầu, trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, tạo
nên cuộc sống ấm no, xóm làng trù phú. Rồi bà lại sáng tác ra những bài ca,
dạy dân cách hát, tổ chức các cuộc vui chơi, ca hát theo lề lối riêng [32,
tr.347-348].
Đó là sinh hoạt hát quan họ. Sau khi Bà mất, dân làng lập đền thờ là thần Thành
hoàng, tôn vinh Bà là Đức Vương Mẫu, Vua Bà - Thuỷ tổ Quan họ, Nội dung bài vị đền
Vua Bà ghi:
“Đương cảnh Thành hoàng, Quốc Vương thiên tử,
Nhữ Nương nam nữ, Nam Hải Đại Vương”.
Chính vì Bà được tôn là “Nam Hải Đại Vương”, nên lễ hội đền Vua Bà thường
được gọi là “Lễ hội cầu mưa”.
Hội đền Vua Bà được tổ chức vào các ngày mùng 6, 7 tháng hai âm lịch. Truyền
rằng, ngày khai hội 6 tháng hai là ngày Đức Vua Bà được trời giáng xuống ấp Viêm
Trang, tức làng Diềm (Viêm Xá) ngày nay.
Trước kia, vào ngày 8 tháng Tư âm lịch - truyền rằng đó là ngày Đức Bà hoá thần,
người làng Diềm tổ chức buổi giỗ bà ở nghè sau chuyển vào đền. Nhưng đây không được
xem là lễ hội, vì chỉ có lễ vật, hương hoa, không có các trò vui, cũng không có ca Quan
họ. Cho nên, chỉ có lễ hội đền Vua Bà vào tháng Hai.
Ngày chính hội là mùng 6 tháng 2, nhưng ngay từ chiều hôm mùng 5, người ta đã tổ
chức lễ mở cửa đền và lễ dâng hương, lễ cầu mưa rửa đền. Người làng Diềm tin rằng lễ
cầu mưa rửa đền này rất hiệu nghiệm. Sáng mùng 6, dân làng làm lễ tế thần. Trong lễ có
hát Quan họ thờ (hát thờ), ca ngợi công đức Vua Bà, cầu mong đức Vua Bà cho mưa
thuận, gió hoà để mùa màng bội thu. Cũng có khi, các liền anh, liền chị ca cầu mong cho
tình bạn đôi nơi thuỷ chung mãi mãi:
Hôm nay tứ hải giao tình
Đương Quan họ ơi!
Tuy rằng bốn bể nhưng chung một nhà.
Hôm nay họp mặt giao hoà
Nguyện xin Nguyệt lão giăng già se duyên.
Đương Quan họ ơi!
Trai hùng sánh gái thuyền quyên
Phỉ nguyên sánh phượng đẹp duyên Châu Trần.
(La rằng - Hôm nay tứ hải giao tình)
Sau lễ tế thần là tới rước ngai thờ, bài vị Vua Bà cùng đồ thờ quanh làng. Đặc biệt,
những người khiêng ngai nhất thiết phải là các cô gái chưa chồng. Ngồi trên ngai là một
cô gái xinh đẹp đóng vai Vua Bà. Tới đền Cùng, đám rước dừng lại. Một số cụ thượng
thọ, xuống giếng Ngọc lấy nước, rồi rước nước về đền làm lễ tắm Vua Bà, cũng là để cầu
mong Vua Bà làm mưa.
Sau lễ rước thần là các trò vui như đấu vật, cướp cầu, đánh đu..., song chủ yếu là các
hình thức hát Quan họ. Quan họ hát ngoài trời ở cửa đền Vua Bà, cửa đền Cùng (ngôi
đền đầu làng Diềm thờ nhị vị công chúa vua Lý Thánh Tông là Ngọc Dung và Thuỷ
Tiên) và cả dưới thuyền ở ao trước cửa đình làng. Những hình thức này gọi là hát hội, tức
hát cầu vui, cầu may, không cầu qua đủ các chặng lề lối như ở hát canh (hát ở các nhà
trong xóm).
- Hội làng Đông Xá
Làng Đông Xá nay thuộc xã Đông Phong, huyện Yên Phong. Xã này có làng Đông
Yên (Đông Khang) và ngôi đình Đông Khang - một trong ba ngôi đình nổi tiếng của xứ
Kinh Bắc. Hội Đông Xá được tổ chức vào ngày 4 tháng 8 hàng năm.
Sinh hoạt tín ngưỡng và lễ hội ở Đông Xá xưa là một hoạt động tập trung và tiêu
biểu truyền thống văn hoá của làng quê nông nghiệp vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc. Theo
thần tích, thần sắc từ triểu Lê của làng cho biết làng Đông Xá thờ một vị đại vương và
một vị công chúa thời Lý. Nội dung bản thần tích kể rằng:
Triều Lý Thái Tổ, ở trang Đường Lâm, có hai vợ chồng ông bà Ngô Đức
và Tạ Thị Lan, nhân từ phúc hậu, nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con trai,
bèn xuất gia một đạo. Ông bà đi tới trang Đông Xá và tu ở chùa Linh Quang.
Bỗng một hôm bà Tạ Thị Lan nằm mộng thấy thần linh báo điềm lành, rồi sau
đó thụ thai, đến ngày 4 tháng 8 năm Giáp Ngọ, sinh hạ được một quý tử, bèn
đặt tên là Thống.
Thống lớn lên, khôi ngô tuấn tú, sức khoẻ hơn người, đến năm hai mươi
tuổi, cha mẹ đều qua đời.
Bỗng một hôm, ông Thống ra sông tắm, gặp thuyền rồng của vua Lý
Thái Tổ đi qua, không hiểu vì sao bị mắc cạn, không thể nào đi được. Vua
ban lệnh khắp nơi, chiêu người tài giỏi đẩy thuyền vua, nhưng không ai đẩy
được. Vua bèn ra sắc chỉ, ai đẩy được, sẽ gả công chúa Phương Dung cho.
Ông Thống bèn ra đẩy, thuyền rồng của vua nhẹ trôi khỏi bãi cát, vua Lý
thuận gả công chúa Phương Dung cho ông Thống. Khi Lý Thái Tổ băng hà,
Thống Công và Phương Dung đã có công lớn giúp triều đình dẹp bọ phản
loạn định cướp ngôi vua, giúp Phật Mã lên ngôi. Đến ngày 3 tháng 3, Thống
Công và Phương Dug cùng hoá. Triều Lý Thánh Tông, nghe thấy danh tích
của vợ chồng Thống Công, vua bèn sai biên soạn sự tích và sắc phong tặng:
“Đô Thống tế thế Đại Vương và Phương Dung gia hạnh chinh phụ Công
chúa” [32, tr.355-356].
Các triều đại sau đều có sắc phong cho dân làng Đông Xá phụng thờ.
2.4. Xu hướng biến đổi và những vấn đề đang đặt ra đối với tín ngưỡng
Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay
2.4.1. Xu hướng biến đổi và những vấn đề đặt ra
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) với sự
đổi mới toàn diện trong đó có vấn đề tôn giáo đã và đang được thực tế chứng minh là một
quyết định đúng, hợp quy luật, hợp lòng dân. Trên định hướng của đổi mới, ngày
16/10/1990 Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) ra Nghị quyết số 24-
NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới với 3 nhận định rất cơ bản:
Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001) khẳng định lại: “Tín
ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”.
Bắc Ninh, vùng đất đặc sắc về văn hoá, với đa dạng các loại hình tín ngưỡng dân
gian. Trong những năm đổi mới đời sống của nhân dân nói chung, người dân Bắc Ninh
nói riêng được cải thiện, những nét đẹp của truyền thống được phát huy. Tuy nhiên, do
tác động của mặt trái của kinh tế thị trường, xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá về mọi
mặt của đời sống xã hội trong đó có văn hoá, tín ngưỡng và các yếu tố khác, tín ngưỡng
Thành hoàng Bắc Ninh có những xu hướng biến đổi và một số vấn đề nổi lên hiện nay là:
Một là, trong những năm gần đây, tín ngưỡng Thành hoàng Bắc Ninh nói riêng, trên
cả nước nói chung đang có xu hướng phát triển trở lại. Trong thời kỳ chiến tranh, rất
nhiều đình, đền, nghè, miếu thờ Thành hoàng đã bị phá huỷ, hiện nay đang được tu bổ,
xây dựng lại. Các lễ hội truyền thống liên quan tới tín ngưỡng Thờ thành hoàng cũng
đang được phục hồi trở lại. Thứ nhất, là do một bộ phận nhân dân có nhu cầu sinh hoạt
văn hoá tín ngưỡng tâm linh. Thứ hai là Đảng ta luôn coi trọng sự nghiệp văn hoá. Tại
Hội nghị Trung ương 5 (khoáVIII), Nghị quyết có thể được coi như Cương lĩnh về văn
hoá của thời kỳ đổi mới, đó là định hướng về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội lần thứ XVII của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
đã tổng kết phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” nhằm tiếp tục
duy trì và nâng cao chất lượng phong trào, phấn đấu trở thành làng, khu phố văn hoá, cơ
quan đơn vị văn hoá.
Hai là, tuy các lễ hội truyền thống liên quan tới tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Bắc
Ninh được khôi phục lại, nhưng rất nhiều lễ tục, trò chơi truyền thống đã bị mai một như:
đánh đu, vật truyền thống, nấu cơm..., một phần là do những lễ tục, trò chơi này không
còn phù hợp với điều kiện xã hội ngày nay, phần khác là do sự xâm nhập của các luồng
văn hoá nước ngoài, đặc biệt là sự xâm nhập của một số tôn giáo mới, trong xu thể hội
nhập, toàn cầu hoá đang diễn ra rắt mạnh mẽ trên mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, trong các lễ hội ngày nay, có nhiều trò chơi, đặc biệt là các môn thể thao đã được
tổ chức như cầu lông, bóng bàn, vật hiện đại... góp phần nâng cao thể lực và làm phong
phú thêm cho đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần của người dân.
Ba là, còn quá câu nệ, bảo thủ trong việc tuân thủ các quy định trong lễ tục thờ cúng
Thành hoàng, bị kích thích bởi nền kinh tế thị trường, ở nhiều nơi, nhiều lúc, đồng tiền đã
trở thành bái vật trong nghi thức thờ cúng. Mâm cao, cỗ đầy, lễ cúng đắt tiền, nghi lễ phô
trương lấn át niềm tin trong sáng gây tốn kém lãng phí tiền của.
Bốn là, do không được sự tổ chức, hướng dẫn đầy đủ từ các cấp chính quyền, các
trò chơi truyền thống trong các lễ hội như: đánh đu, vật cổ truyền, thi nấu cơm, thi đọc
mục lục... cùng với các hoạt động văn nghệ như hát chèo, hát tuồng, ca trù... đang ngày bị
mai một dần. Việc này đồng nghĩa với việc các giá trị văn hoá truyền thống đang bị mất
mát, không được bảo toàn và chuyển giao cho các thế hệ nối tiếp. Thay vào đó, nhiều
hiện tượng tiêu cực của cơ chế thị trường đã và đang xuất hiện như bài bạc, tổ tôm, xóc
đĩa, xổ số, lô tô... Hơn nữa, ở nhiều lễ hội thờ cúng Thành hoàng còn nhiều hủ tục, mê tín
được khơi dậy. Một số đối tượng đã lợi dụng sự mê tín của một số người để lừa đảo kiếm
tiền như xem bói, cúng tế giải hạn, cầu xin vận may, trừ tà... đặc biệt là vào các dịp lễ hội
đầu năm. Ngoài ra, cùng với các trò chơi mang đậm nét văn hoá dân gian, một số kẻ xấu
còn lợi dụng dịp lễ hội để hoạt động cờ bạc, lừa bịp kiếm tiền gây mất trật tự an ninh.
Hơn nữa, do các dịp lễ hội thường kéo dài gây ảnh hưởng tới hoạt động lao động sản xuất
và học tập của người dân và học sinh.
Năm là, hiện nay nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh thi nhau trùng tu, xây dựng lại
đình, nghè, miếu thờ Thành hoàng làng mình nguy nga đồ sộ gây tốn kém lãng phí tiền
bạc của Nhà nước và nhân dân, hơn nữa nếu không quản lý tốt sẽ có thể phá vỡ kiến trúc
vốn có của ngôi đình, miếu, nghè gây thiệt hại cho các di tích. Một số đình, miếu, nghè
được Nhà nước và tỉnh xếp hạng di tích lịch sử văn hoá đang bị xâm hại nghiêm trọng do
một số hộ dân xây dựng các công trình dân dụng lấn vào phần đất của đình, miếu, nghè..
Sáu là, các lễ hội thờ Thành hoàng được tổ chức hàng năm, đặc biệt là các lễ hội
như hội Lim, hội Đền Đô, hội Đồng Kỵ, hội Đền Xà.... đã thu hút hàng nghìn lượt khách
thập phương về tham dự, tuy giúp phát triển du lịch, tăng nguồn thu cho địa phương
nhưng cũng kéo theo các vấn đề về an ninh, xã hội, và đặc biệt là vấn đề môi trường tại
khu vực tổ chức lễ hội.
2.4.2. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát
huy những giá trị tích cực của tín ngưỡng Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh hiện
nay
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17 đã xác định: tăng
cường quản lý Nhà nước các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh, đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy
định của pháp luật. Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ X đã
định hướng: đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân
tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng theo
hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo pháp luật. Vì vậy, trong thời gian tới, công tác tôn giáo của Đảng bộ tập trung làm
tốt những nội dung cơ bản như sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo trong Nghị
quyết lần thứ 7 (phần 2) Ban chấp hành Trung ương 7 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội Đại
biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, tuyên truyền phổ biến và thực hiện
Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, Nghị định số 22/2005/ NĐ - CP tạo ra sự đồng thuận, phát
huy khối đại đoàn kết toàn dân.
Hai là, nâng cao trách nhiệm làm tốt công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, tập
trung lãnh đạo phát triển kinh tế châm lo đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của đồng bào
có đạo; tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn
giáo của công dân. Chỉ đạo các cấp, các ngành tạo điều kiện, hướng dẫn để các nhu cầu
sinh hoạt tôn giáo chính đáng, hợp pháp của đồng bào có đạo được thực hiện bình
thường, đúng pháp luật. Tuyên truyền, hướng dẫn phổ biến Pháp lệnh, Nghị định đối với
các hoạt động tôn giáo. Kiên trì đấu tranh loại trừ các thủ tục mê tín, dị đoan, lợi dụng
tôn giáo đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Đặt công tác tôn giáo trong nhiệm vụ phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, làm tốt công tác vận động chức sắc tôn giáo theo
phương châm “gần - hiểu - tạo điều kiện và hướng dẫn chức sắc hành đạo cùng dân tộc”.
Ba là, xây dựng củng cố, kiện toàn tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo; thấm
nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Cán bộ tốt, mọi việc sẽ tốt”, trong thời gian tới Bắc Ninh cần
lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo vừa có năng lực, có hiểu biết về
tôn giáo, hiểu biết pháp luật, có nhiệt tình trách nhiệm, nhạy cảm về chính trị, tinh tế
trong xử lý công việc. Đồng thời cũng cần quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn
giáo. Trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước cần có cách bố
trí hợp lý để phát huy sức mạnh của tổ chức, đáp ứng yêu cầu của công tác tôn giáo trong
tình hình mới.
Qua một số những vấn đề về tín ngưỡng thờ Thành hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh đã nêu trên, trong thời gian sắp tới cần phải làm tốt những việc sau:
Một là, Sở Văn hoá Thông tin kết hợp với Ban Tôn giáo và các sở, ban, ngành khác
cần phải tiếp tục tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước,
về tôn giáo, đặc biệt là tiếp tục nâng cao nhận thức về những nội dung của Pháp lệnh tín
ngưỡng tôn giáo và Nghị định số 22-2005/NĐ-CP hướng dẫn một số điều Pháp lệnh tín
ngưỡng tôn giáo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ làm công tác tôn giáo và đông đảo
nhân dân.
Hai là, Sở Văn hoá Thông tin cần kết hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Bảo
tàng tỉnh nhanh chóng thẩm định trình UBND tỉnh chấp nhận cho một số địa phương
được tu sửa, xây dựng lại đình thờ Thành hoàng làng, cấp giấy chứng nhân quyền sử
dụng đất để triển khai xây dựng như thôn Duệ Nam, xã Nội Duệ, huyện Tiên Du; thôn
Nhân Hữu, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình... Đồng thời với việc tu sửa, xây dựng, Sở
cần quản lý tốt tránh tình trạng phá vỡ nét kiến trúc vốn có của các đình, nghè, miếu thờ
Thành hoàng bảo vệ tốt các di tích. Đất đai các di tích cần được bảo vệ, các công trình
kiến trúc, các nguồn tài liệu cổ vật được bảo quản, lưu giữ, phục vụ cho công tác nghiên
cứu và giáo dục truyền thống, thực hiện tốt Luật Di sản văn hoá đã được Quốc hội khoá
X, kỳ họp thứ 9 thông qua. Các sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội diễn ra
trong di tích được tổ chức tốt theo Quy chế lễ hội của Bộ Văn hoá - Thông tin, Ban quản
lý di tích và nhân dân địa phương, sự hướng dẫn của ngành văn hoá - thông tin đã tổ chức
tốt các lễ hội truyền thống diễn ra trong khuôn viên di tích, đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín
ngưỡng và sinh hoạt văn hoá của đông đảo nhân dân và quý khách thập phương, góp
phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Ba là, Sở Tài nguyên và Môi trường cần kết hợp với các sở, ban, ngành khác trong
việc hướng dẫn các địa phương tổ chức lễ hội đảm bảo vệ sinh, môi trường trong sạch,
bảo vệ tốt cảnh quan xung quanh nơi tổ chức lễ hội.
Bốn là, Sở Văn hoá Thông tin cần kết hợp với Bảo tàng tỉnh sớm thống kê, phân
loại Thành hoàng trên địa bàn tỉnh, đồng thời so sánh các sắc phong, thần tích các đền,
đình, nghè, miếu còn lưu giữ được với các bản thần sắc tại Viện Hán Nôm, Viện Thông
tin Khoa học Xã hội giúp cho việc bảo tồn các di tích lịch sử, các nguồn tài liệu lịch sử,
văn hoá và tạo điều kiện cho việc quản lý, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, nâng cao đời sống
văn hoá, tinh thần, tín ngưỡng của nhân dân trong tỉnh, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, Sở Văn hoá Thông tin cần đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết 05 của
Chính phủ về xã hội hoá các hoạt động văn hoá. Phát động phong trào toàn dân tham gia
bảo tồn, tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, bảo tồn phát huy sinh hoạt lễ hội, sinh
hoạt văn hoá Quan họ, ca trù, múa rối nước. Triển khai có hiệu quả chương trình đầu tư
cho hoạt động văn hoá thông tin cơ sở năm 2006, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch xây dựng
các thiết chế văn hoá thông tin. Xây dựng và trình duyệt Uỷ ban nhân dân tỉnh kế hoạch tu
bổ di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006-2010 để kịp thời hướng dẫn chỉ
đạo thực hiện [49, tr.7].
KKếếtt lluuậậnn
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng Kinh Bắc xưa kia. Hơn bất cứ đâu, nơi đây đậm
đặc di tích lịch sử và sống động truyền thống văn hoá Việt Nam. Nơi đây không chỉ là cái
nôi của dân tộc Việt, mà còn là trung tâm của cuộc đấu tranh lâu dài và khốc liệt của dân
tộc ta chống xâm lược và chống đồng hoá trong suốt thiên niên kỷ đầu Công nguyên. Bên
kia sông Đuống, trên đất Thuận Thành, uy nghiêm lăng mộ Kinh Dương Vương, đền thờ
Lạc Long Quân - Âu cơ tại làng á Lữ - di tích thờ “Nam bang thuỷ tổ” (ông tổ nước
Nam). Thành cổ Luy Lâu ở xã Thanh Khương với các di tích dinh thự, phố chợ, đền đài,
chùa tháp nguy nga còn lại của trung tâm chính trị, kinh tế thương mại, trung tâm Phật
giáo và Nho giáo của nước ta trong thiên nhiên kỷ đầu Công nguyên. Làng Đình Bảng,
lăng Lý Bát Đế, đền Cổ Pháp - nơi yên nghỉ và tôn thờ các vua nhà Lý, những bậc minh
quân đã khai mở một triều đại vàng son, xây dựng và phát triển văn minh Đại Việt. Chiến
Tuyến Như Nguyết - vùng đất địa bàn chiến lược để thi triển các chính sách bảo vệ và
xây dựng đất nước của các triều đại với những chiến công hiển hách trong sử sách....
Từ các kết quả khảo sát, phân tích và tổng hợp các nguồn tư liệu về tín ngưỡng thờ
Thành hoàng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở đặt tín ngưỡng thờ Thành hoàng trên
địa bàn Bắc Ninh trong bình diện chung của tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Việt Nam, có
thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, tín ngưỡng thờ Thành hoàng trên địa bàn Bắc Ninh là tín ngưỡng thờ phúc
thần phản ánh sự đóng góp của nhân dân Bắc Ninh - Kinh Bắc trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước, đặc biệt là trong việc phát triển văn hoá dân tộc trong suốt chiều dài
lịch sử. Các thành hoàng được dân làng thờ đều là các vị tướng sỹ các thời đã anh dũng
đánh giặc, diệt cướp giữ nước, mang lại bình yên cho dân làng như: Cao Lỗ Vương, thời
Hùng Vương, được thờ làm thần Thành hoàng ở nhiều làng của huyện Gia Bình; Thuộc
Công, một vị tướng đã có công cùng Thánh Gióng dẹp giặc Ân, được thờ ở làng Thượng,
xã Cảnh Hưng; Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đựơc thờ ở làng Vân Khám, xã
Việt Đoàn, huyện Tiên Du; Pháp Hải Đại Vương, một vị tướng dưới thời Trưng Vương,
được thờ ở làng Cẩm Giang, xã Đồng Nguyên, huyện Từ Sơn; Chiến tuyến Như Nguyệt
với đền Xà, đền Yên Phụ, huyện Yên Phong còn âm vang lời tuyên ngôn trên dòng sông
Cầu lịch sử “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” (Sông núi nước Nam vua Nam ở..); làng
Đại Trung, xã Đại Đồng, huyện Tiên Du thờ một vị thần là Đại sĩ Linh Thông Bảo Hiệu
hiển ứng Côn Sơn đại vương, thần nguyên là một vị tướng dưới thời Trần, có công diệp
giặc được vua Trùng Quang đến tế lễ và ban sắc phong ông làm phúc thần...
Hai là, Bắc Ninh là một vùng đất màu mỡ trù phú, người dân nơi đây, ngoài việc
trồng cấy lúa nước còn phát triển rất nhiều ngành nghề thủ công như làm giấy dó ở Đống
Cao, Yên Phong; chạm khắc gỗ ở Phù Khê, Kim Thiều, Đồng Kỵ, huyện Từ Sơn; rèn sắt
ở Đa Hội; sơn mài ở Đình Bảng; đúc đồng ở Đại Bái, Quảng Bố; làm gồm ở Phù Lãng;
dệt lụa ở Cẩm Giang, Tam Sơn, Nội Duệ... Do vậy, ngoài việc thờ các vị tướng sĩ ở các
thời đã có công đánh giặc giữ nước, rất nhiều làng ở Bắc Ninh thờ các vị thần Thành
hoàng là những người có công lập ấp, khai nghề, hành nghề y cứu đời như: làng Đông
Suất (Đông Thọ, Yên Phong) thờ Nguyễn Hữu Nghiêm, ông tổ nghề nông; làng Đa Hội
(Châu Khê, Từ Sơn) thờ Quận công Trần Đức Huệ, ông tổ nghề rèn sắt; làng Quả Cảm,
xã Hoà Long, huyện Yên Phong thờ Bà Chúa Sành - tổ nghề gốm; làng Quảng Bố, xã
Quảng Phú, huyện Lương Tài thờ Nguyễn Công Nghệ - tổ nghề đúc đồng; làng Đại Phúc,
phường Đại Phúc thờ danh y Nguyễn Phúc Xuyên; làng Đại Bái, huyện Gia Bình thờ tổ
nghề đúc đồng Nguyễn Công Truyền...
Ba là, Bắc Ninh do có địa hình đồng bằng xen đồi núi sót và một hệ thống sông, hồ
dày đặc nên, cũng như bao làng quê khác trên đất nước Việt Nam sống ở khu vực có đồi
núi, sông, hồ, việc thờ sơn thần và thuỷ thần ở nơi đây rất phổ biến. Sơn thần được thờ
chủ yếu là Tản Viên Sơn Thánh, Cao Sơn và Quý Minh. Thuỷ thần được thờ là Thuỷ Bá,
Đông Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương...
Đặc biệt, phổ biến là tục thờ Thánh Tam Giang. Thánh Tam Giang - Trương Hống,
Trương Hát, vị thần Thành Hoàng nửa huyền thoại, nửa lịch sử với thần tích ở mỗi làng
mỗi khác, được thờ ở hơn 300 làng dọc theo con sông Cầu. Đây là một đặc điểm nổi bật
trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở tỉnh Bắc Ninh. Rất nhiều nguồn tư liệu cho rằng tục
thờ Thánh Tam Giang gắn liền với chiến thắng Như Nguyệt năm 1077 của quân dân Đại
Việt trên phòng tuyến sông Cầu, dưới sự chỉ huy tài tình của Lý Thường Kiệt đã đánh tan
30 vạn quân Tống, mở ra một giai đoạn phát triển cường thịnh của nước nhà.
Bốn là, tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Bắc Ninh có sự tiếp biến giữa tín ngưỡng thờ
Thành hoàng với các tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng thờ nước và tín ngưỡng phồn
thực của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nơi đây. Sự tiếp biến này, qua các lễ tục, lễ
hội thờ Thành hoàng, thể hiện mong ước có nước đảm bảo cho các vụ mùa bội thu như:
lễ rước nước ở làng Thị Cầu, làng Ngọc Khám (Gia Đông, Thuận Thành)... và khát vọng
sinh sôi nẩy nở của cư dân nơi đây được thể hiện qua những trò chơi trong ngày hội như
“bắt trạch trong chum”, “ôm cột”, “chen”, “múa bông”, “lao đòn đám”...
Đặc biệt, Tục thờ tứ phật “Tứ Pháp” - Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện - là
kết quả giao lưu văn hoá giữa nước ta với văn hoá ấn Độ, thể hiện sự tiếp biến của tín
ngưỡng bản địa nước ta ở thời kỳ này. Phật “Pháp Vân” và Tứ Pháp được các đời vua sau
nay ban phong là “Đại Thánh” và được tôn thờ như là các vị thần Thành hoàng làng.
Tóm lại, Tín ngưỡng thờ Thành hoàng ở Bắc Ninh thể hiện nhu cầu sinh hoạt
văn hoá, tâm linh của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước nơi đây, thể hiện truyền
thống uống nước nhớ nguồn của nhân dân Bắc Ninh - Kinh Bắc và thể hiện sự đóng
góp của người dân Bắc Ninh - Kinh Bắc, cái nôi của văn hoá “bác học”, quê hương
của những ông “Trạng - Cống - Nghè - Đồ” vào quá trình dựng nước và đánh giặc
giữ nước của dân tộc ta.
DDaannhh mmụụcc TTààii lliiệệuu tthhaamm kkhhảảoo
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), Nghị quyết 40/NQTW về công tác tôn giáo
trong tình hình mới.
2. Ban Dân vận Trung ương (ngày 22/10/1990), Đề cương giới thiệu tinh thần nội
dung cơ bản của Bộ chính trị về tăng cương công tác tôn giáo trong tình hình
mới.
3. Ban tôn giáo Chính phủ (2005), Các văn bản pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn
giáo, Nxb Tôn giáo.
4. Ban Tôn giáo tỉnh Bắc Ninh (2006), Tôn giáo Bắc Ninh, Bản tin số 2.
5. Bảo tảng Bắc Ninh (2004), Các di tích lịch sử văn hoá Bắc Ninh.
6. Bảo tảng Bắc Ninh, Thư mục Thần tích, Thần sắc tỉnh Bắc Ninh.
7. Nguyễn Chí Bền (2003), Văn hoá dân gian Việt Nam, những phác thảo, Nxb Văn hoá -
Thông tin.
8. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1990), Nghị quyết 24/BCT về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
9. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (1998), Chỉ thị 37/CT.TW về công tác
tôn giáo trong tình hình mới.
10. Hoàng Hồng Cấm (1992), Đền bà Chúa Kho, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
11. Chủ tịch nước (ngày 29/06/2004), Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo.
12. Nguyễn Đăng Duy (1998), Văn hoá tâm linh (tái bản có sửa chữa), Nxb Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Dũng (2005), Hỏi và đáp về Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo và các văn bản
hướng dẫn thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ Văn hoá và phát triển ở
Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Nghiên cứu tôn giáo, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Văn Đạm, Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hoá -
Thông tin.
16. Lê Thanh Đức (2001), Đình làng miền Bắc, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
17. Lê Thanh Hải (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
18. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, Nxb. Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Hùng Hậu (1993), "Góp phần tìm hiểu quan điểm của Mác: Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân", Tạp chí triết học, (3).
20. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng Thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
21. Hội đồng Bộ trưởng (1991), Nghị định 69/HĐBT ngày 21/03/1991 quy định về các hoạt
động tôn giáo.
22. Hội đồng Bộ trưởng (ngày 30/05/1991), Tài liệu giải thích Nghị định quy định về
các hoạt động tôn giáo của Ban tôn giáo Chính phủ.
23. http://www.bacninh.gov.vn/Story/VanHoaDuLich/NetVanHoaKinhBac/2006/8/5811.html
24. http://www.bacninh.gov.vn/Story/VanHoaDuLich/NetVanHoaKinhBac/2006/6/3485.html
25. http://www.bacninh.gov.vn/Main.html
26. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Khắc Đạm (dịch từ tiếng Pháp) (1997), Địa lý hành
chính Kinh Bắc, Sở Văn hoá Thông tin Bắc Giang.
27. Huyện uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân huyện Yên Phong (2002), Địa chí
Yên Phong, Nxb Thanh niên.
28. Đỗ Quang Hưng (2002), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
29. Vũ Khiêu (1994), Thuốc phiện của nhân dân, tự do và tín ngưỡng, những vấn đề tôn
giáo hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Đỗ Nguyên Lan (2001), Lễ hội đền Bà Triệu và nghi thức thờ cúng, Luận văn thạc
sỹ khoa học Tôn giáo, Hà Nội.
31. Đặng Văn Lộc, Đặng Đức Thư, Đặng Ngọc Thanh (2005), Thành hoàng làng họ Đặng ở
Việt Nam, Tập, Nxb Văn hoá dân tộc.
32. Trần Đình Luyện (chủ biên) (2003), Lễ hội Bắc Ninh, Sở Văn hoá Thông tin Bắc
Ninh.
33. Nguyễn Đức Lữ (1992), Về tự do tín ngưỡng và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng ở
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
34. Nguyễn Đức Lữ (1994), Tổng luận tình hình tôn giáo, Trung tâm Thông tin Khoa
học và Công nghệ Quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Đức Lữ (2000), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Trung tâm
Khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo – Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
36. Nguyễn Đức Lữ (2001), "Tín ngưỡng Thành hoàng và thờ vua Hùng ở Việt Nam",
Tạp chí sinh hoạt lý luận.
37. Nguyễn Đức Lữ (2003), Đề cương giới thiệu tác phẩm chủ yếu của Lênin bàn về
tôn giáo, Hà Nội.
38. W.Mark.McLeod, The Vietnamese Response to French Intervention 1862 -1874,
London Greenwood Publishing Group, Inc., New York.
39. Lê Hữu Nghĩa - Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công
tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội
40. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2001), Mác, Ăngghen, Lênin, Bàn về tôn giáo và
Chủ nghĩa vô thần, Hà Nội.
41. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tuyển tập), Hà
Nội.
42. Nguyễn Vĩnh Phúc, Nguyễn Duy Hinh (2004), Thần tích Hà Nội và tín ngưỡng thị
dân, Nxb Hà Nội.
43. Lê Xuân Quang (1996), Thờ thần ở Việt Nam, Tập 2, Nxb Hải Phòng.
44. Lê Xuân Quang (2003), Thần tích Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
45. Vũ Thanh Sơn (2004), Những vị thần được thờ ở Hà Nội, Nxb Hà Nội.
46. Sở Văn hoá - Thông tin Hà Bắc (1988), Hội xứ Bắc, Kỷ yếu.
47. Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh (2002), Văn hiến Kinh bắc, Tập I.
48. Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh (2002), Văn hiến Kinh bắc, Tập II
49. Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh (2006), Thông tin văn hoá Bắc Ninh, Xuân Bính
Tuất.
50. Phạm Minh Thảo – Trần Thị An – Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành hoàng Việt Nam, Nxb Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội.
51. Ngô Hữu Thảo (1998), Quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao
lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay, Đề tài cấp Bộ, Viện khoa học về Tôn giáo và Tín ngưỡng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Trần Quốc Thịnh (2004), Danh nhân lịch sử Kinh Bắc, Nxb Lao động.
53. Ngô Thế Thịnh, Việt Tân (2000) (dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh), Bắc Ninh làng cũ
- quê xưa - chiếc nôi của nền văn hoá Việt Nam, Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây.
54. Nguyễn Đức Thìn, Phạm Thuận Thành (sưu tầm và biên soạn) (2003), Chuyện kể ở
đền Đô, Nxb Văn hoá dân tộc.
55. Phan Cẩm Thượng (2002), Chùa Dâu và nghệ thuật tứ pháp, Nxb Mỹ thuật.
56. Cung Kim Tiến (2001), Từ điển Triết học, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
57. Lại Văn Toàn, Trần Thị Băng Thanh (chủ biên), Nguyễn Như Diệm (2004), Thần
tích thần sắc Hà Nam, Nxb Khoa học xã hội.
58. Thủ tướng Chính phủ (ngày 10/12/1990), Thông tư số 539/TT về chủ trương đối với các tôn
giáo.
59. Thủ tướng Chính phủ (1999), Nghị định số 26/NĐCP về các hoạt động tôn giáo.
60. Trung tâm khoa học về Tín ngưỡng và Tôn giáo – Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (1997), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam, Hà
Nội.
61. Trịnh Cao Tưởng (2005), Thành hoàng ở Việt Nam và Shinto ở Nhật Bản, Nxb Văn hoá
Thông tin, Viện Văn hoá.
62. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
63. William J. Duiker, The Rise of Nationalism in Vietnam 1900 – 1945, Cornell
University Press.
Phụ lục 1
Một số hình ảnh về các đình, đền, nghè, miếu thờ
Thành hoàng ở bắc Ninh
Đình
làng
Đại
Vy, xã
Đại
đồng, huyện Tiên Du. Đình thờ
Tràng Ngọ; Tràng Mai; Bạch
Đa.
Gian tiền tế đình Đại Vy
Hậu
cung
Đình
làng
Đại
Vy. Đình thờ thần Thành hoàng
là Tràng Ngọ; Tràng Mai; Bạch
Đa là các bộ tướng của Đinh
Tiên Hoàng.
Đền Đô thờ 8 vị
vua nhà Lý, ở thôn
Đình Bảng, xã Đình
Bảng, huyện Từ
Sơn, Bắc Ninh
Ngôi nhà thờ của dũng họ
Nguyễn Thạc.
Ngụi nhà thờ dũng họ Nguyễn Thạc ở Đỡnh Bảng
là một trong sỏu ngụi nhà cổ của Việt Nam vừa được
UNESCO trao giải thưởng cụng trạng trong bảo tồn di
tích. Ngôi nhà hơn 300 tuổi gắn với nhiều huyền thoại
này vừa được trựng tu với sự giúp đỡ của Nhật Bản.
Gian
tiền tế
Đền
Đô.
Đền
thờ 8 vị vua nhà Lý.
Đình làng Phù Lưu,
huyện Từ Sơn, Bắc
Ninh. Đền thờ
Thánh Tam Giang.
Gian
tiền tế
đình
làng
Phù
Lưu
Đình làng Đồng
Kỵ, xã Đồng
Quang, huyện Từ
Sơn, Bắc Ninh.
Đình thờ Thiên
Cương.
Cổng
đình
Đồng
Kỵ.
Đình
thờ Thiên Cương - một vị tướng
thời Hùng Vương, có công diệp
giặc “xích quỷ”.
Phụ lục 2
ttrruuyyềềnn tthhuuyyếếtt vvàà tthhầầnn ttíícchh
1. Thần tích về Thánh Tam Giang
Theo “Địa chí Yên Phong” thì truyền thuyết về thánh Tam Giang kể lại như sau:
Ngày xưa, ở làng Vân Mẫu có một người đàn bà nghèo đã luống tuổi mà vẫn không
chồng, không con. Một hôm đi tắm sông, chợt có con rắn cuốn vào người. Về nhà, bà
rùng mình cảm động rồi tự dưng có thai. Đúng 9 tháng 10 ngày, bà đẻ ra một cái bọc 5
trứng, rồi nở thành 5 người con, đặt tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng,
Trương Lẫy và một cô con gái.
Ngày lại tháng qua, thấm thoắt đàn con đã lớn khôn. Giữa lúc đó bà mẹ qua đời. Vì
nhà nghèo, anh em họ Trương chỉ đủ tiền mua một cỗ quan tài không có chốc, rồi đang
đêm mấy anh em khiêng mẹ ra đồng, qua tới cổng làng thì bỗng đâu mưa to gió lớn bất
chợt kéo đến. Chiếc quan tài bị rơi xuống đất. Trời tối mịt mùng không sao tìm nổi, anh
em đành phải ra về, đợi tinh mơ hôm sau sẽ lại ra chôn mẹ.
Sớm hôm sau, khi anh em Hống, Hát ra tới chỗ quan tài rơi thì không thấy đâu nữa,
mà chỉ trông thấy một đống mối to tướng, trên đống mối hở ra hai cái gót chân của mẹ.
Đêm hôm ấy Trương Hống, Trương Hát ra ấp mồ mẹ. Về khuya chợt có hai con quỷ từ
dưới mồ chui lên đùa nhau. Chúng đùa hồi lâu, để ý thấy hai anh em tuy sợ hãi hồn xiêu
phách lạc nhưng vẫn ấp mồ mẹ không thôi. Chúng cho là người có hiếu, lại nhìn thấy
tướng diện hai người có chí khí kiên cường, mới tặng cho hai chiếc áo tàng hình, gọi là
“Xích y quỳ bộ” và “Bạch y quỳ bộ”.
Bấy giờ, quân Lương xâm lấn nước ta, Trương Hống, Trương Hát theo Triệu Quang
Phục đánh giặc. Nhờ có tài võ nghệ và áo tàng hình, nhị nhân tướng tả xung hữu đột đánh
thắng nhiều trận, khiến kẻ địch phải run sợ vỡ mật. Hiềm về nỗi giặc đông như kiến cỏ,
nên đánh mãi mà vẫn không tiêu diệt được hết chúng.
Một đêm, Trương Hống, Trương Hát nằm ngủ trong một ngôi chùa ở làng Diềm
(nay là làng Viêm Xá, xã Hoà Long, Yên Phong), bỗng thấy có một người con gái đi vào
tự xưng là người trụ trì ngôi chùa ấy, người con gái nói rằng:
Nếu hai vị muốn diệt trừ giặc Lương chỉ có một cách kéo quân về đầm Dạ Trạch
mà dùng kế mai phục.
Dứt lời thì biến mất. Hống, Hát giật mình tỉnh dậy hoá ra là một giấc chiêm bao.
Nghĩ rằng âu cũng là lòng trời nên mới cho thần báo mộng, hai tướng lập tức kéo quân về
Dạ Trạch, quả nhiên giặc Lương bị đánh tan tành phải rút chạy về nước.
Thiên hạ thái bình, Quang Phục xưng vua, gọi là Triệu Việt Vương. Chẳng bao lâu
thì Lý Phật Tử tiếm ngôi, Phật Tử cho mang rất nhiều lễ vật đến để mời Trương Hống,
Trương Hát ở lại làm quan với hắn. Song vì giận kẻ phản bội, hai ông nhất mực không
chịu, nhớ tới giấc mộng giúp mình năm xưa, Trương Hống, Trương Hát từ quan về làng
Diềm sinh sống.
Trên đường về Diềm, qua địa phận làng Đống Cao (nay là làng Dương ổ, xã Phong
Khê, Yên Phong) hai ông vứt đao, vứt yên ngựa xuống đồng. Những nơi ấy vì thế từ đó
có tên là “Đồng Mũi Đao”, “Đồng Yên Ngựa”. ở Diềm hai ông khai phá một vùng rừng
cây nước san phẳng như gương, cánh đồng này bởi thế có tên là “Đồng Mặt Gương”.
Vui thú điền viên ở Diềm chưa được mấy chốc thì Lý Phật Tử lại cho người đến
mời hai ông ra làm quan, Hống, Hát nhất quyết khước từ. Phật tử tức giận mà rằng:
Đã không ra làm quan với ta thì cũng không được sống ở đất này.
Bức bách quá hai ông phải lên sống ở vùng Đu Đuốm (nay thuộc Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên)
Bấy giờ triều đình rối ren, lòng dân oán hận, giặc ngoài ngấp nghé bờ cõi. Lý Phật
Tử lại tức tốc cho người lên tận Đu Đuổm gọi hai ông về làm quan để mong chiêu an dân
tâm. Hắn nói: “Nếu không làm quan thì hai ông chỉ còn một con đường là tự xử”. Dẫu
vậy Trương Hống, Trương Hát vẫn nhất quyết không chịu về với kẻ phản bội. Biết chẳng
còn cách nào khác, hai ông bèn cho đóng một chiếc thuyền độc mộc, đục sẵn lỗ ở đáy,
nhét giẻ vào rồi xuôi theo dòng sông Cầu để về hoá ở quê hương bản quán. Tới đoạn
sông Như Nguyệt (thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong) nơi ngã ba hợp lưu giữa sông
Cầu và sông Cà Lồ, Trương Hống, Trương Hát cho rút giẻ ra, nước sông tràn vào, thuyền
chìm hai ông lần lượt hoá thần. Tương truyền khi mất họ đều biến thành rắn. Bởi thế địa
phương nơi mỗi ngài hoá từ đó có tên là Xà: Xà trên (Phương La Đoài), Xà dưới
(Phương La Đông) (nay thuộc xã Tam Giang, huyện Yên Phong).
Sau khi hai ngài về thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế phong làm Long Quân phó sứ cai
quản và tuần hành dọc theo vùng sông Cầu. Lại thêm Trương Hống, Trương Hát hoá ở
ngã ba sông nên từ đây dân gian gọi nhị thần là Đức Thánh Tam Giang. Khắp vùng từ Đu
Đuổm tới Lục Đầu, nhất là từ Ngã Ba Xà trở xuống, hơn hai trăm làng thờ Thánh Tam
Giang làm thần Thành hoàng. Dân gian từ xưa có câu “Thượng chí Đu Đuổm, hạ chí Lục
Đầu” hoặc “Thượng Ngã Ba Xà, hạ Lục Đầu Giang” chính là vì thế.
Lại rằng vì thờ làm thần, nên dân gian gọi chệch Hác là Hát. Các lễ quan phong kiến
sau này cứ thế mà ghi vào thần tích.
Tương truyền Trương Hống, Trương Hát rất căm thù giặc ngoại bang, nên khi đã
hoá thần, hai ông nhiều lần hiển thánh đánh giặc. Thời Lê Đại Hành kháng Tống, Đức
ngài đã phù giúp. Rồi đến Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt thì việc
hiển thánh diệu thường của Đức ngài càng sâu đậm trong ký ức dân gian.
Chuyện kể rằng, bấy giờ giặc Tống đã tiến đến bờ bắc sông Như Nguyệt, thuyền
chiến của chúng ngược theo sông Cà Lồ để kéo về kinh thành Thăng Long. Thái uý Lý
Thường Kiệt đóng đại bản doanh ở Thất Diệu Sơn (Núi Yên Phụ, xã Yên Phụ, Yên
Phong), dựa vào rừng núi rậm rạp và đồng lầy để đánh giặc. Ông cho lập dinh trại đóng
quân trên các cánh đồng, những nơi ấy sau đó mang tên là “Đồng Dinh” và “Đồng Cổng
Trại”. Dân mọi vùng xứ Bắc tấp nập gánh gạo về nuôi quân, nơi tập trung gạo ấy sau có
tên là “xóm Cầu Gạo”. Quân Tống đã có lần vượt sông tiến quân qua đây, bị quân Lý
phục kích đánh tơi bời trên một đồng lầy, xác chết năm la liệt. Cánh đồng ấy sau có tên là
“Đồng Mả Tàu”.
Một đêm, Thái uý ngủ trong đình Yên Phụ, bỗng có hai ông già đi vào nói rằng: Ta
chính là Thánh Tam Giang, Thành hoàng làng này, xin yết kiến để nói với Thái uý rằng
“Muốn thắng giặc phải đóng đại bản doanh ở Như Nguyệt. ở đó ngược lên thượng nguồn
có quân cờ đỏ, xuôi xuống hạ lưu có quân cờ xanh, sẽ giúp ông đánh tan quân Tống”.
Lý Thường Kiệt còn định hỏi thêm thì hai ông biến mất. Thái uý trằn trọc thâu đêm
suy nghĩ, quả thấy lời báo mộng là hợp địa lợi lắm. Sáng hôm sau, ông lập tức kéo đại
quân về đóng ở làng Như Nguyệt. Do sự tích này mà đình làng Yên Phụ từ đó có câu đối:
“Thoái lỗ trợ kỳ công, Lý tương binh hồi thu dạ mộng
Trừ yêu đương chính khí, Diệu Sơn toàn hiện tráng thời quang”.
Lại nói chuyện, khi đại quân nhà Lý vừa xuống khỏi chân núi Thất Diệu, thì bất
chợt thấy có hai con rắn hiện ra rồi bò đi trước dẫn đường. Bấy giờ nơi đây là một rừng
cây nước um tùm, rậm rạp không biết đâu mà lần. Nhưng hai con rắn cứ những chỗ nào
cao mà bò để đưa quân Lý. Tới làng Như Nguyệt thì rắn dừng lại. Lý Thường Kiệt lập
tức cho hạ bản doanh tại đây. Rồi đó hai con rắn trườn xuống sông biến mất. Người ta
nói đó chính là hiện thân của đức Thánh Tam Giang. Lại truyền rằng bởi vậy mà Như
Nguyệt từ đấy mới có tên là “Xà Ngọt”.
Có lần quân Tống vượt sông sang bờ nam bị quân Lý phục kích tiêu diệt trên một
cánh đồng giáp sông. Người ta nói vì thế mà đồng này có tên là “đồng Bờ Xác”.
Cho tới một đêm kia, Thái uý Lý Thường Kiệt chập chờn ngủ trong ngôi đền làng
Như Nguyệt, ông thao thức để nghĩ diệu kế. Chợt có một luồng gió ùa vào, rồi có hai
người ẩn hiện trong bóng đêm nói rằng: “Ta là Long quân phó sứ Thánh Tam Giang đã
có dịp gặp ông ở Thất Diệu Sơn. Nay thời vận đã đến, tướng sỹ trăm người như một hừng
hực khí thế tự cường, do đó một người sẽ có sức địch trăm người, sao ông không nhân cơ
hội này mà phản công diệt sạch ngoại bang. Ta sẽ có cách trợ giúp”.
Nói xong thì biến mất, biết chỉ là giấc chiêm bao, song lời thần quả là chí lý. Ngay
sáng hôm sau, đại quân Lý bất thần vượt sông diệt giặc.
Bấy giờ trời đã sang xuân, nước sông rất cạn, đại quân dũng mãnh qua sông. Giữa
lúc ấy từ trên bầu trời sang sảng giọng đọc một bài thơ tứ tuyệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Nghĩa là:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Kỳ lạ thay! Nghe tiếng thơ ấy quân ta thì sục sôi khí thế xông lên còn bọn giặc thì
hoảng hồn. Một trận đánh quả là như cơn gió mạnh xua sạch đám mây mù. Bọn giặc bị
chết rất nhiều, “thây nằm khắp đồng, máu chảy thành sông”. Tàn quân sống sót rút chạy
về nước. Truyền rằng, cánh đồng nơi xảy ra trận đánh “phong vân” ấy vì thế có tên là
“Đồng Xác” (thuộc xã Mai Đình, Hiệp Hoà, Bắc Giang). Rồi ở đây, người ta lập ra một
ngôi chùa để cúng các vong linh của giặc gọi là “Chùa Xác” (thuộc làng Phấn Động, Tam
Đa, Yên Phong). Lại truyền rằng, bài “Thần thi” đó chính là do Thượng đẳng thần - Đức
Thánh Tam Giang Trương Hống, Trương Hát làm ra và cất tiếng đọc rất hùng hồn để
động viên hào khí chiến đấu.
Người dân vùng Tam Đa còn kể rằng, theo lời mách bảo của Thánh Tam Giang, Lý
Thường Kiệt phái một đạo quân tới vùng Tam Đa để vượt sông đánh úp giặc. Nơi đóng
quân ở đây có một trại ngựa hàng nghìn con, thải ra rất nhiều phân, vì thế sau có tên là
Đống Phân, tự Phẩn Động, rồi sau đọc chệch là làng Phấn Động (nay thuộc xã Vạn An,
Yên Phong).
2. Thần tích - thần sắc làng Đông Xuyên, tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, tỉnh
Bắc Ninh
3. Thần tích - thần sắc làng Đại Vi, xã Đại Đồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc
4. Thư mục Thần tích, Thần sắc tỉnh Bắc Ninh