(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Sơn Kim Cương Đại pháp) · ra một đạo quang...
Transcript of (Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Sơn Kim Cương Đại pháp) · ra một đạo quang...
1
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
Mục lục
1. Nhân duyên phóng hào quang (Lời mở đầu)
2. Nước cam lộ trên Đại Phật đỉnh
3. Thô súc biến thành thanh tịnh
4. Mắt thứ ba của trực giác
5. “Phân biệt trí” chân thực
6. Linh năng của biến hóa phân thân
7. Phát động kim cương pháp
8. Liên Hoa đồng tử kim cương tương ứng
9. Tự chủ sống chết và hóa thân ánh sáng cầu vồng
10. Mật tích kim cương tương ứng
11. Phạn âm chính là âm nội tại
12. Bát phương hủy báng bất động tôn
13. Lư đại tà ma đã nói thế
14. Mật giáo Tứ Thiên Vương Kim Cương pháp
15. Bất muội nhân quả
16. Kiên Lao Kim Cương Kết Giới pháp
17. Trong cảnh giới không thể tưởng tượng
18. Đắc được Ngũ bí mật của tâm là Pháp vương
19. Thắng Lạc Kim Cương Đại pháp
20. Bí mật Đại Thủ Ấn
21. Sư Vương Tất thắng
22. Lạt Ma phải chăng là Cao tăng?
23. Thập Địa Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương Chú
2
24. Linh Tiên Giới Luật
25. Chuyện cũ Đại Uy Đức Kim Cương Pháp hội
26. Đại Uy Đức Kim Cương Giáo Lịnh Luân Pháp
27. Tam luận “Song Thân pháp”
28. Biện Tài Thiên Nữ Kim Cương Pháp
29. “Quán tưởng” mật yếu
30. “Thủ ấn” mật yếu
31. “Chân ngôn” mật yếu
32. Ý nghĩa thực sự của “Dao quán”
33. Đại học Washington mời giảng dạy
34. Ý kiến của Liên Văn
35. Ý kiến của Liên Trúc
36. Đệ tử Kim Cương Cát Cử Ba đến quy y
37. Nhân duyên viết sách
3
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
01. Lời dẫn * Nhân duyên phóng hào quang (Lời mở đầu)
Phật Thích Ca Mâu Ni sống ở thế gian thuyết pháp, vì mỗi loại
pháp khác nhau, phải tùy theo nhân duyên của mỗi loại pháp để
hiển hiện đại thần thông của Phật, để thành nhân duyên khởi giáo
của mỗi loại pháp. Đây chính là đại nhân duyên Phật đà theo hiển
tướng xuất hiện để thuyết pháp.
Khi Phật giảng Ban Nhược kinh với hình tướng tán Kim Hoa, biểu
thị ý “Ban Nhược kinh” quý giá giống như là “Kim Hoa” vậy. Khi
giảng đến “Niết Bàn kinh” thì lại dùng thanh quang chiếu rọi trên
mặt đất, tất cả đại chúng đều được thanh quang soi chiếu. Khi
giảng Diệu Pháp Liên Hoa kinh, Phật lại phóng hào quang, chiếu
động đến đất trời, thiên vũ mạn đà la hoa chính là tướng của Diệu
Pháp Liên Hoa kinh. Khi Phật giảng Đại Phương Quảng Hoa
Nghiêm kinh, cả một Hoa Tạng thế giới lục địa đều chấn động,
thiên vũ bảo hoa thi nhau rơi xuống. Phật giảng đến Lăng Nghiêm
kinh, đỉnh tóc hiện Bách bảo vô úy quang. Ánh sáng thần thông
của Phật đà hiển hiện, tất cả đều là vì mối nhân duyên thuyết pháp
nên mới hiển hiện, cũng giống như phóng ra tất cả quang minh
hoặc là tất cả khánh vân cũng đều là vì nhân duyên thuyết pháp.
Tuy nhiên, theo như tôi được biết, tất cả những hào quang phát ra
đều có ẩn chứa hàm ý riêng, Phật đà phát hào quang có 10 loại
quang minh, về vấn đề này có rất ít người nghiên cứu, hôm nay tôi
sẽ nói rõ ra tất cả.
Hào quang đỉnh tóc – đây chính là Bách Bảo Vô Úy Quang Minh
trên đỉnh đầu của tất cả Như Lai Đại Phật, tượng trưng cho tất cả
quang minh bí mật.
Hào quang nơi chân mày – Kim quang nơi chân mày hay hào
quang nơi chân mày biểu thị cho đạo Trung chính, không nghiêng
4
không dựa nơi nào, Phật thừa duy nhất, là đạo pháp trong nhất thừa,
không phải là thừa nào khác cả.
Hào quang trong miệng – Phật Thích Ca Mâu Ni phát hào quang từ
trong miệng, đây chính là Phật đà thuyết pháp, sinh ra pháp tử, là
chân Phật tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật pháp cũng phát ra từ
miệng.
Hào quang của răng – Trong lần thuyết pháp lần thứ nhất của Phật
đà đã phát ra hào quang của răng, ý nói để thiên hạ chúng sinh nếm
thử biết mùi vị Phật pháp như thế nào, với ý làm kiên cố Phật pháp,
ở đời gần đời xa cũng đều có thể thừa hưởng được lợi ích.
Hào quang ngón tay – Mười đầu ngón tay đều phát hào quang,
biểu thị ý viên thông không trở ngại, tùy theo mỗi một đạo quang
minh đều có kết quả, thập chỉ liên tâm, đồng thời cũng biểu thị các
tông Phật pháp đều thông đạt với nhau, viên dung vô ngại. Hào
quang ngón tay và hào quang bàn tay có ý nghĩa tương thông với
nhau.
Hào quang đầu gối – biểu thị hồi tự tha, hồi sự hướng lý, hồi nhân
hướng quả. Có hàm ý hồi hướng.
Hào quang túc luân – chân phóng ra hào quang ẩn chứa hai ý nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất, chân là nơi thấp kém nhất, ý nói tất cả pháp đều
phải học từ thấp đến cao. Ý nghĩa thứ hai, biểu thị ý khởi thủy ban
đầu của chúng sinh, tất cả đều bình đẳng.
Hào quang túc chỉ: Đầu ngón chân phát ra quang minh ẩn chứa hai
ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất, pháp căn bản của tu hành. Ý nghĩa thứ
hai, biểu thị an tịnh theo pháp, có thể định trong Phật pháp.
Hào quang túc phu (mu bàn chân) – biểu thị ý căn cứ theo tất cả
Phật pháp để tu hành.
Hào quang ở lỗ chân lông toàn thân – tất cả các lỗ chân lông trên
thân của Phật Thích Ca Mâu Ni đều phát sáng, đây chính là “không
ở sinh tử”, “không ở niết bàn”, “không ở hai biên”, đã hoàn toàn
viên mãn, đây chính là ý dựa theo “tâm định” để thuyết pháp chứ
không phải thuyết pháp dựa theo tâm sinh diệt.
5
Trên đây là ý nghĩa tượng trưng của 10 loại quang minh phát ra khi
Phật Thích Ca Mâu Ni diễn thuyết tất cả các pháp khi còn ở trần
thế. Hôm nay, tôi đã kể ra từng loại và cũng đã nói rõ từng loại,
nhằm giúp cho những người tu hành trong thiên hạ được thấm
nhuần ích pháp, được quang minh soi rọi.
Người viết hiện nay đang bí mật tu tập ở Seattle, Hoa Kỳ, học
được các loại Tam Muội thiền định, đã từng nhập vào tạng thân
tam ma địa của Tỳ Lô Già Na Phật, cũng đã nhập vào Vô Lượng
Phương Tiện tam ma địa, đồng thời cũng đã nhập vào Bồ tát thiện
tư duy tam ma địa, tiến vào Bồ tát trí quang tam ma địa. Cũng đã
nhập vào Bồ tát đại trí huệ tam ma địa, sống ở Sát na tế tam ma địa,
hóa thành Hoa nghiêm tam ma địa. Hiện giờ đã đắc được tâm
thanh như nước, không bám chút bụi trần, điều này là hoàn toàn
xác thực. Đắc chứng ngày nay của tôi đã kiên cố như bàn thạch,
không có bất kỳ một lực lượng nào có thể phá được. Nếu như có
người nào phỉ báng nói: “Chứng đắc của Lư Thắng Ngạn thượng
sư chỉ là giả mà thôi, chuyện phát hào quang chỉ là ảo giác của
thượng sư, tất cả những sách ông ấy viết chỉ là nói xằng bậy,
không có chứa đựng nghĩa lý chân thực”. Khi tôi nghe được những
lời như thế, trong lòng vẫn an định thư thái, đây chính là do cảnh
giới quan sát định trung của tôi là chân thực, cho dù là xuất định ra
từ định trung thì cũng vẫn không mất đi chữ “định”.
Giữa lông mày của tôi đã phát ra ánh sáng một đạo kim quang (do
tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn ở NewYork đã chụp lại), ánh sáng của đạo
kim quang này đích thực là phát ra từ nơi chân mày, minh chứng
cho tôi đã đắc được pháp Nhất thừa vô thượng, tất cả những pháp
của thừa khác chỉ là pháp phương tiện mà thôi, pháp mà tôi đắc
được chính là Nhất thừa trung đạo Phật pháp, hoàn toàn đầy đủ.
Tôi phát ra một đạo hào quang nơi chân mày, chính là vì chúng
sinh trong thiên hạ, đại nhân duyên Linh tiên tông sinh ra, đây
chính là đại nhân pháp duyên đến vì chúng sinh thiên hạ. Pháp mà
tôi giảng chính là Nhất thừa Phật pháp, chính là viên thông vô ngại,
vô cùng thâm sâu và quảng đại, cũng giống như Phật vậy, biến hóa
thành ánh sáng của mặt trời, trăng sao để soi rọi chúng sinh trong
6
thiên hạ, lại biến thành sông suối ao hồ, mưa móc để tưới nhuần
chúng sinh trong thiên hạ, cũng hóa thành núi non, đồng bằng để
nuôi sống chúng sinh, hay hóa thành thánh hiền, pháp sư để giáo
hóa chúng sinh.
Cũng có người đến chỗ tôi hỏi:
“Ma Ha Song Liên Trì hiện giờ có Liên Hoa đồng tử bạch sắc
không?”
“Có”.
“Vậy tiên sinh phải chăng cũng là Liên Hoa đồng tử bạch sắc?”
“Đúng vậy.”
“Ma Ha Song Liên trì có Liên Hoa đồng tử bạch sắc, bây giờ ngài
cũng là Liên Hoa đồng tử bạch sắc, há có thể có hai Liên Hoa đồng
tử bạch sắc chứ?”. Tôi trả lời: “Nếu như bây giờ ông đến Ma Ha
Song Liên trì gặp một vị Liên Hoa đồng tử bạch sắc đang chuyển
pháp luân thuyết pháp, ông hỏi ngài, trong thế giới ta bà có một vị
Thượng sư Lư Thắng Ngạn Liên Hoa đồng tử bạch sắc cũng đang
thuyết pháp, xin hỏi Thượng sư Lư Thắng Ngạn là ai vậy? Vị Liên
Hoa đồng tử bạch sắc ấy sẽ chỉ vào bản thân và nói tôi chính là
Thượng sư Lư Thắng Ngạn đây.”
Chuyện như thế nào vậy? Chúng sinh phải chăng rất ngạc nhiên?
Đạo lý này thật ra rất đơn giản, “Liên Hoa đồng tử bạch sắc” ở Ma
Ha Song Liên trì chính là một vị Pháp thân Bồ Tát chỉ cần phóng
ra một đạo quang hoa xuống nhân gian thì trong nhân gian sẽ có
một vị Thượng sư Lư Thắng Ngạn Liên Hoa đồng tử bạch sắc, đây
chính là ứng hóa thân của “Liên Hoa đồng tử bạch sắc”, đã ứng
hóa để phổ độ chúng sinh, muốn Thượng sư Lư Thắng Ngạn khởi
tu từ tất cả pháp, từ tiệm ngộ đến đốn ngộ, lúc mới bắt đầu, bản
thân Lư Thắng Ngạn cũng mơ mơ hồ hồ như tất cả chúng sinh vậy.
Từ lúc được khai sáng, trải qua 14 năm tu tập thì mới có thể hoàn
toàn hiểu rõ được và đạt được viên thông không trở ngại, thì ra cả
quá trình tu hành này đều phải do chính bản thân bắt đầu từ lúc sơ
7
khởi cho đến lúc đắc chứng được kết quả, rồi dùng ứng hóa thân để
giảng thuyết Đại thừa nhất thừa vô thượng diệu pháp.
Để tôi nói cho tất cả chúng sinh một bí mật to lớn sau:
Tỳ Lô Giá Na Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni
Phật chính là Tỳ Lô Giá Na Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni muốn tu
hành đắc đạo để lại cho thế nhân một hình tượng và mô phạm, do
đó là một đại nhân duyên, đã ứng hóa thân để xuất hiện ở thế gian,
thuyết pháp phổ độ chúng sinh. Thân của Phật chia thành ba thân,
mười thân, vì vậy Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Tỳ Lô Giá Na
Phật, chuyện này không có gì kỳ lạ cả, chẳng qua chỉ là phân thân
ra ba thân hay mười thân để báo ứng mà thôi. (Lô Xá Na (Locana)
Phật cũng chính là Thích Ca Mâu Ni Phật)
Liên Hoa đồng tử hiện nay cũng như thế, trên thượng giới có pháp
thân của Liên Hoa đồng tử, dưới địa giới có Thượng sư Lư Thắng
Ngạn Liên Hoa đồng tử bạch sắc, chia ra làm ba thân, mười thân
nhưng khi hợp lại thì chỉ có một.
Nếu như mọi người không tin thì xin hãy mở Phạm Võng Kinh ra:
Ngã kim Lô Xá Na, phương tọa Liên hoa đài, chu nhi thiên diệp
thượng, phúc hiện thiên Thích Ca, nhất hoa bách ức quốc, nhất
quốc nhất Thích Ca. Lô Xá Na Phật, chính tọa trên đài sen thuyết
pháp, mà Lô Xá Na Phật lại hóa thân muôn ngàn vị Thích Ca Mâu
Ni Phật thuyết pháp trong quốc thổ trên ngàn lá hoa sen, có đến
hàng trăm ức quốc thổ lại hóa thân thành hàng trăm ức Phật Thích
Ca Mâu Ni, ở mỗi một quốc thổ có một vị Phật Thích Ca Mâu Ni.
Tôi phát hào quang nơi chân mày, tự nhiên chính là một đại nhân
duyên, đây chính là “lịch trình sáng tác” cứu độ, tất cả những kiến
chứng và tu pháp của tôi đều viết trong sách cả, đây chính là nhân
duyên đặc biệt thù thắng trên đời, đọc được sách có thể khởi phát
tâm hướng Phật học Phật và cũng chính là những chúng sinh hữu
duyên đặc biệt hi hữu vậy.
“Linh Tiên Kim Cương đại pháp” chính là một bộ đại pháp tinh tế
nhất trong những tinh tế, thâm diệu nhất trong những thâm diệu, có
thể nói là vừa thâm sâu vừa quảng đại, người tu pháp có thể cùng
8
với bản thể trong miếu vũ dung hợp lại thành một, thể nghiệm
được thiên nhân hợp nhất và niềm vui vĩnh hằng, phạn chú và
tưởng niệm hợp nhất lại, quán thông toàn bộ nhân quả kiếp trước,
tam ma địa cũng có thể tiến vào, đắc được ngộ, hoàn toàn “minh
tâm kiến tính, sinh tử tự chủ”.
Đây chính là nhân duyên phát “hào quang nơi chân mày” của tôi
(tháng 1 năm 1984).
Sheng-YenLu
17102NE40thCt.
Redmond,WA98052,
U.S.A.
9
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
02. Nước cam lộ trên Đại Phật đỉnh - Ấn chứng đầu tiên
Có một bộ kinh tên là “Đại Phật đỉnh, Như Lai mật nhân, Tu
chứng liễu nghĩa, Chư Bồ tát vạn hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”, tên
gọi ngắn gọn của bộ kinh này chính là “Kinh Lăng Nghiêm”. Khi
tôi nghiên cứu bộ kinh điển này phát hiện ra có “Như Lai mật
nhân”, có quan hệ to lớn với mật tông, ngoài ra bộ kinh này phải
chiếu theo mười cửa của Hiền thủ tông để nghiên cứu thì mới có
thể viên dung vô ngại.
Thật ra “Đại Phật đỉnh” chính là “vô kiến đỉnh thượng phóng như
lai tuyên thuyết thần chú”, “vô kiến đỉnh” này chính là “Đại Phật
đỉnh”, thì ra vốn dĩ “Đại Phật đỉnh” là không thể nhìn thấy được,
cảnh giới này chính là vô thượng, chỉ có thể tham hiểu mà thôi chứ
không thể nào dùng lời truyền đạt được. Nhà Phật giải thích “Cam
Lộ thủy” chính là một loại tỷ dụ, tỷ dụ như giáo pháp chân lý mà
Như Lai đã nói, bởi vì giáo pháp này cũng giống như là người sống
trong ngày nóng nực được uống ly nước mát lạnh vậy, tất cả nóng
phiền đều được tiêu trừ, trong lòng thư thái, do đó nên gọi mùi vị
của pháp này là “Cam lộ thủy”.
Theo cách nói trên, đại Phật đỉnh chỉ là trống không. Cam lộ thủy
cũng chỉ là tên giả.
Thế nhưng, tôi quả thực là đã đắc được từ trong “Kim cương tam
muội đại định”. Bản thân tôi tu hành tùy theo trong cơ thể vận
dụng, dùng ban nhược chính trí để quan chiếu, thấy rõ ràng được
không tính, phản mê vọng quy về chân cảnh, dần dần lĩnh ngộ
được nhất chân như pháp cảnh, lúc này sẽ hiện ra cả một biển ánh
sáng vô bờ bến, tôi biết rằng đây chính là cảnh giới của đại giác
ngộ, thân tâm đều không còn thấy nữa, người và ta cũng không còn
khác biệt nữa, có thể nói là tính tương giao triệt, linh minh bất
muội, bình đẳng bổn tế, viên mãn mười phương, đây chính là đại
10
tự tại chân chính. “Đại Phật đỉnh” lúc này vô nhân sinh ra, tồn tại
như thật, xuất hiện trong thanh tịnh giác địa.
Cho nên “đại Phật đỉnh” có phải trống không chăng? Tôi cho rằng
không phải như vậy, bởi vì tôi đã liễu kết tâm, chỉ cần “tâm thanh
thủy hiện nguyệt, ý tịnh thiên vô vân”, đại Phật đỉnh lăng nghiêm
này sẽ có thể cúi đầu một cái là đạt được.
Hơn nữa, cam lộ thủy có phải là giả không? Tôi càng không cho
rằng như thế, tôi nhận được hào quang ban phước của “đại Phật
đỉnh” từ trong “Kim cương Tam muội đại định”, loại thần quang
này chiếu vào trong minh thể của tôi (quang minh còn gọi là minh
thể), giao hòa hợp nhất lại với nhau, cảm nhận của tôi lúc này
giống như được rót cam lộ thủy mát lạnh từ đỉnh đầu vào, tôi cảm
thấy vô cùng thư thái, như say như mê vậy, dòng cam lộ thủy trên
rót vào đỉnh đầu, người bình thường vốn dĩ không thể nào biết
được, chỉ có người trong “Kim cương tam muội đại định” mới có
thể nếm được mùi vị pháp linh thánh như thế, người hưởng được
mùi vị pháp của cam lộ thủy mới là Phật tử chân chính bước vào
“kim cương đại định”.
Tôi cho rằng, “đại Phật đỉnh có cam lộ thủy”, đây chính là một ấn
chứng rất tốt về tu luyện “Linh Tiên Kim Cương đại pháp”.
Mỗi một người tu pháp, đạt đến cảnh giới đại giác ngộ thì “đại
Phật đỉnh” và “cam lộ thủy” này sẽ xuất hiện, nếm được cam lộ
thủy quán đảnh hay uống được cam lộ thủy, tôi chúc mứng cho họ,
đây chính là kinh nghiệm của “Linh Tiên Kim Cương đại pháp”,
niềm vui liễu kết tâm, nỗi hoan hỉ vô cùng vô tận như say như mê
chính là minh chứng cho cảnh giới này.
Có nhà khoa học nghiên cứu “cam lộ thủy” của cảnh giới này đến
từ đâu, cho rằng hormone từ trong mỗi tuyến thể tiết dịch ra, cũng
chính là dịch tiết ra từ tuyến thể chính, tuyến tùng. Tuy nhiên, cho
dù thế nào thì bên trong “Kim cương tam muội đại định” quả thực
là có sự tồn tại của “Cam lộ thủy”.
Ấn chứng đầu tiên của “Linh Tiên Kim cương đại pháp” thật sự là
vô cùng thâm diệu, cho nên tôi mới nói là tinh tế trong những tinh
11
tế, là ảo diệu trong những ảo diệu, là diệu ấn chứng trong diệu
pháp. Tôi cho rằng, đại Phật đỉnh này vốn dĩ là bản tâm vi diệu,
cam lộ thủy cũng là bản tâm vi diệu, chỉ cần tâm linh tương ấn
cùng nhau thì sẽ càng vi diệu hơn. Mặt trời, trăng sao, núi sông đại
địa, vạn quốc vạn dân cũng đều sinh ra từ tất cả bản tâm vi diệu,
đạt đến cảnh giới như thế thì quả thực là không thể nói, không thể
nói được rồi.
Tôi cho rằng bản thân mỗi người đều có một đại Phật đỉnh, hơn
nữa đại Phật đỉnh này luôn có cam lộ thủy, điều này hoàn toàn
chân thực, không phải chỉ mỗi Thích Ca Mâu Ni Phật có, hay chỉ
chư Phật Bồ Tát có mà phàm tất cả chúng sinh đều có cả, chúng ta
chỉ cần học được diệu pháp này, dùng chính trí để thể nghiệm, để
tu tập thì sẽ đắc được ấn chứng “Đại Phật đỉnh và cam lộ thủy”, đạt
đến cảnh giới này, sẽ không còn “tứ đại”, cũng không còn “ngũ
uẩn”, cũng không sợ “mê muội”, tất cả phiền não lo lắng sẽ không
còn nữa, phải nên biết rằng phiền não và lo lắng chính là đại địch
của người nhập “Kim cương tam muội đại định”.
Đệ tử tu luyện “Linh Tiên kim cương đại pháp” nhất định phải dựa
vào đại trí tuệ của chính trí để đắc được tất cả các diệu pháp từ
trong không giả, trong tam quan, cảm nhận ra chân tính của bản
thân, hiểu được diệu pháp tạng vô biên, tất cả giống như quang
minh khai động, hoàn toàn vượt qua tất cả các chướng ngại, thập
phương trên dưới tam thế bách thế đều hiểu rõ cả, thân thể của
chúng ta cũng như hư không vậy, diệu hành biết được bồ đề tâm ấn,
trí tuệ giống như là Phật vậy, đến cảnh giới như thế sẽ tự có “đại
Phật đỉnh”, tự có được “cam lộ thủy”.
Có người hỏi tôi, có phải nhất thiết phải mở miệng ra thì mới có
thể nếm được cam lộ thủy?
Tôi nói với họ rằng, “Kim cương tam muội đại định” là ảo diệu
nhất, là trang nghiêm nhất, những lỗ chân lông trên cơ thể người
đều mở ra, trong mỗi lỗ chân lông đều có một hạt châu, mỗi một
hạt châu đều phát ra một đạo quang minh, còn rực rỡ hơn so với
mặt trời ban ngày, giữa lỗ chân lông này và lỗ chân lông khác đều
12
biến thành mọi lỗ tương thông, quang quang tương chiếu, mỗi
quang minh đều soi chiếu rực rỡ cùng nhau; cũng giống như là một
tấm lưới vậy. Còn khi cam lộ thủy đến thì có thể vào theo huyệt
đỉnh đầu, cũng có thể theo vào từ bất kỳ lỗ chân lông nào, không
phải lo sợ là không uống được. Cam lộ thủy có mùi nhang thơm có
thể làm cho người tọa thiền như say như mê, người có thể đắc
được “đại Phật đỉnh” và uống được “cam lộ thủy” thì xem như là
có phúc rồi, bởi vì bản thân người đó đã có được chân chính gia bị
của quang hoa Phật đà.
Tôi viết lời kệ rằng:
Vi trần tương hải tu kim cương
Tuệ quang chính định thể tự trương
Đại Phật đỉnh tức bồ đề quả
Cam lộ ấn chứng thực tương đương.
13
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
03. Thô súc bỗng hóa thanh tịnh - Ấn chứng thứ hai
Vào tháng 9 năm 1983, có rất nhiều tiến sĩ người M4 đến quy y
tiếp nhận quán đảnh, có tiến sĩ Lohn NewBill, tiến sĩ Many
Newbill, tiến sĩ Hortamin v.v… Tháng 9 đó lại có một người
Trung Quốc, là tiến sĩ Huỳnh Trạch Hi đã đón máy bay từ
NewYork đến Seattle để quy y và tiếp nhận quán đảnh.
Tiến sĩ Huỳnh Trạch Hi là người Trung Quốc, hiện đang làm việc
cho một cơ quan chính phủ của Hoa Kỳ, là một trong những người
giữ chức vụ cao nhất, ông ấy là chủ quan cao cấp của toàn Bộ Y tế
Hoa Kỳ, dưới quyền ông ấy có 300 tiến sĩ người Mỹ. Tiến sĩ
Huỳnh Trạch Hi dẫn theo thư ký, do lãnh sự Vu Định Ngọc của
Hội nghị điều giải Seattle đi cùng, đã đích thân đến quy y học pháp.
Các tiến sĩ người Mỹ và tiến sĩ người Trung Quốc đều có chung
một câu hỏi: “Sau khi học tọa thiền thông sáng được Kim cương
đại pháp, nhu cầu ăn uống đã có khuynh hướng thay đổi, người
bình thường rất thích ăn thịt bò, bây giờ lại rất ghét mùi máu tanh,
người thích ăn cá lại dần dần không còn ham ăn cá nữa, bình
thường rất thích ăn thịt nay đã thay đổi, ngược lại đối với rau cải
lại cảm thấy có hứng thú, đã dần dần từ bỏ thói quen ăn thịt.”
Những tiến sĩ này đều hỏi tôi rằng điều này là vì sao?
Tôi nói: “Đây chính là ấn chứng, bởi vì thịt cá tương đối thô súc,
trong các loại thịt đều chứa rất nhiều độc vật hữu cơ, về lâu dài các
độc tố trong thịt này sẽ đi vào cơ thể và tiềm ẩn lại trong tế bào, cơ
quan, tuyến thể, huyết dịch huyết quản…, con người nếu hấp thụ
độc tố trong các loại thịt sẽ làm cho tuyến thể tạo ra hormone với
tính cương mãnh, làm dục vọng gia tăng, rất khó tu luyện. Nhưng
sau khi học tọa thiền thông sáng Kim cương đại pháp sẽ có tác
dụng điều chỉnh thần kinh tự trị và hormone, tự nhiên sẽ vì công
năng của hệ thống thần kinh mà phát sinh tác dụng bài trừ với thịt
cá, đồng thời ngược lại sẽ thích ăn rau cải thanh đạm.”
14
Người tu pháp như chúng ta, ấn chứng thứ hai chính là việc tự giác
từ bỏ ăn thịt, thay đổi nhu cầu ăn uống, từ thô súc chuyển sang
thanh tịnh, Linh tiên kim cương đại pháp là một pháp rất vĩ đại, đại
pháp này khi tu tập vào sẽ giúp điều chỉnh được thân thể và tâm trí
của bản thân, giả sử như chúng ta không tiếp tục ăn những vật thực
tanh máu kia nữa sẽ làm cho những hormone thô súc ô trọc kia
không còn tiếp tục kích thích dục vọng nữa, như thế sẽ khống chế
được dục vọng và tâm trạng của bản thân; nếu tu đạo như thế thì sẽ
không còn sợ “những quấy nhiễu về tâm trạng” nữa. Tuy nhiên để
làm “thô súc hóa thanh tịnh” thì không phải ai cũng có thể làm
được, cách thức tu pháp chính xác sẽ giúp chúng ta dần dần từ bỏ
việc ăn thịt rất tự nhiên, chứ không phải cố ý ép bản thân nhất định
phải ăn chay tịnh.
Người tu tập Kim cương đại pháp cần phải đoạn tuyệt các tạp
duyên, như cầu ăn uống cũng chính là một trong những tạp duyên,
nếu như ăn những thứ thanh tịnh thì khẩu dục tất sẽ thuần khiết,
ngăn chặn việc tâm trạng phiền nhiễu, tương đối dễ nhập vào Kim
cương tam muội đại định. Từ trong thanh tịnh sẽ chiếu định cho
bản thân, có thể nhận biết được cảm tính của đầu lưỡi con người,
chứ không phải do đầu lưỡi sinh ra, đầu lưỡi này cũng chính là
tuyến thể của thần kinh tự trị, người tu pháp như chúng ta sẽ ngộ
nhập được chân như pháp tính của Như Lai, vốn dĩ không thể bị
đầu lưỡi bó buộc, chịu sự câu thúc của mùi vị ăn uống, nhìn lại
việc ăn uống vốn là trần ô, muốn pháp vị thanh tịnh nhất định phải
ăn uống thanh tịnh, người tu tập “Linh tiên kim cương đại pháp”
thì rất dễ dàng đắc được ấn chứng thứ hai “thô súc hóa thanh tịnh”.
Tôi tu pháp tại Linh Tiên Các, có một vị thiên tự xưng là “Liên
Hoa Nữ” từ thinh không giáng xuống, tặng cho tôi một hộp thức ăn,
sau khi mở ra xem thì thấy có một mảnh tinh thể trong suốt, bốn
góc vuông vức, “Liên Hoa Nữ” nói với tôi rằng, đây chính là Long
diên cao, mùi vị của nó thơm ngon vô cùng, bỏ vào miệng là tan.
Tôi ăn vào thì bị mùi thơm của nó làm mê đi, ngày nào cũng mong
ngóng Liên Hoa Nữ mau mau đến tặng Long diên cao. Long diên
15
cao này chính là đồ ăn của Đại Phạm Thiên Vương ở trên Thượng
giới.
Không lâu sau đó, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh đến, thấy tôi mê
luyến Long Diên cao thì nổi giận nói rằng: “ Liên sinh, ta cứ ngỡ
rằng ngươi đã đoạn tuyệt thực dục thì ra cảm giác mùi vị của ngươi
vẫn chưa hoàn toàn trống không, tu pháp đã nhiều năm nay vẫn
còn cảm giác ở lưỡi, thì ra cũng chỉ là như thế mà thôi! Còn không
mau khổ công tu tập để cắt bỏ thực dục vị giác lưỡi đi”. Lúc này
tôi mới tỉnh ngộ, ngay cả đến hương vị mĩ thực trân quý ở trên
Thượng giới cũng không thể bị mê hoặc, vì thế trong lòng cảm
thấy rất hổ thẹn, trong thâm tâm luôn tự đôn đốc khích lệ rằng
không được tham ăn cúng dường.
Liên Hoa Nữ lại giáng hạ đặt xuống hộp thức ăn.
Ngày hôm sau giáng hạ thu hộp thức ăn về, nhưng lại giật mình
ngạc nhiên vì tôi vẫn chưa ăn nó.
“Vì sao lại không ăn thế?”
“Vì để đoạn tuyệt cảm giác lưỡi”, tôi đáp lời.
“Vì sao lại khổ thế? Thức ăn ngon thế này chỉ có trên Thượng giới
mới có, ở nhân gian không có đâu.”
“Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh muốn tôi phá bỏ ngã chấp, chứng đắc
vị không.”
Liên Hoa Nữ dậm chân mắng “đồ ngốc”, rồi đằng không bỏ đi.
Sau đó Liên Hoa Nữ lại đưa Long Diên cao đến mấy lần nữa
nhưng tôi đều không dám động đến. Đạo lực trong tu định của tôi
đã nâng cao thêm một mức, đã phá được vị giác, chứng đắc được
vị không. Liên hoa Nữ thấy tôi không ăn Long diên cao nữa nên
cũng không đem thực vật cúng dường nữa.
Với những người quá tham nặng về thực dục thô súc thì tự nhiên
sắc dục của họ cũng rất nặng, bởi vì không có vật thanh tịnh thì tự
nhiên sẽ sinh ra tâm không tịnh, những người này sau khi chết đi,
nhục thể hôi thối hơn hẳn người thường, xương trắng thành một
16
đống, trở thành tro bụi, tất cả đều trở về với hư không, cho nên
thực sắc cũng đều không cả thì mới là tạng tâm Như lai chân chính.
Người tu luyện “Linh Tiên Kim Cương đại pháp” sẽ tự nhiên dần
dần bài xích thói quen ăn thịt, ngược lại sẽ ưa thích ăn “chay tịnh”,
điều này gọi là vị tận tính kiến, pháp lý ảo diệu, đây mới gọi là
viên mãn. Người tu pháp nếu như gặp được hiện tượng trên thì đây
chính là “ấn chứng thứ hai”.
Tôi viết trong sách có một câu như sau:
Không ăn sẽ không chết
Ăn rồi mới thật là chết.
17
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
04. Mắt thứ ba của trực giác - Ấn chứng thứ ba
Có người hỏi tôi: “Lư thượng sư, ông tu gì thế?”
“Tu tâm”, tôi đáp.
“Tu tâm có cách nào chăng?”
“Pháp của tôi là Thiên tâm nhất pháp, tổng nhiếp chư hành. Là gốc
của tâm sự vạn pháp, tất cả chư pháp duy tâm sinh ra, nhưng lại có
thể minh tâm, vạn hạnh đều đủ cả.
“Thiên tâm nhất pháp, làm thế nào mới có thể đắc chứng được?”
“Đốn ngộ về Kim cương tam muội chính định”, tôi trả lời.
“Thế nào gọi đốn ngộ?”
“Đốn là trừ bỏ các vọng niệm, ngộ tức là đắc được chánh giác”, tôi
đáp.
Để tôi nói với mọi người biết, học pháp tu đạo, cũng tức là “quán
thiên tâm”, “chế tâm nhất xứ thiền định”, “tịnh tâm”, “quán nội
tâm giác”, “minh tâm chánh giác”, có rất nhiều tên gọi, nhưng tất
cả đều không rời khỏi “bản thể của tâm”. Từ bỏ tất cả vọng tướng
chính là để bản tâm thanh tịnh trong sáng, mà người tu hành thì
cần phải tìm kiếm chân lý huyền diệu này.
Đối với “Linh Tiên Kim Cương đại pháp” này của tôi, sự kỳ diệu
của pháp này không thể nào dùng bút mực để tả được, chỉ có thể
nói rằng tu pháp này sẽ thấu suốt được Nhất thừa thực tướng pháp
môn, siêu nhiên ra bên ngoài trời đất, là mãi mãi không thay đổi,
vận hành vô cùng tận. Nếu như có người nào tu đắc được Linh
Tiên Kim Cương đại pháp tức sẽ biết được bản tâm, thấy được bản
tính, có tên gọi là “Thiên Nhân Sư Phật”, so với Phật cũng không
có gì khác biệt.
18
Tu hành cũng giống như cây lớn lên vậy, trong khoảng thời gian
ngắn thì không thể nhìn thấy được trưởng thành, tuy nhiên thực sự
là chúng mỗi ngày đều lớn lên cả, điều này mỗi ngày đều phải rèn
luyện, nếu như ngày ngày đều tu hành thì nhất định sẽ mỗi ngày
đều trưởng thành, đây chính là ý “một ngày không tu, một ngày là
quỷ”, “ngày ngày đều tu, nhất định thành Phật” mà tôi đã viết
trong “Tọa thiền thông minh pháp”. Liên Hoa sinh đại sĩ cũng nói
như thế: “Kính sư, trọng pháp, thực tu giả đắc chi”. Do vậy chúng
ta phải thành tâm thành ý kiên trì mới có được sự tinh tiến không
ngừng.
Người tu pháp sẽ hiển thị ra “tự tính quang minh” của bản thân, sẽ
phát lộ ra ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng này sẽ phá đi tất cả những
chướng ngại của vô minh, chỉ cần chúng ta sử dụng “mắt thứ ba
của trực giác” để nhìn thì sẽ nhìn thấy bất kỳ cảnh giới nào, tất cả
các ma chướng, thiện duyên giữa người với người, ác duyên giữa
người với người, có thể nhìn thấy rõ ràng, tất cả mọi vật mọi sự, tất
cả những chỗ huyền diệu không thể dùng lời diễn tả được cũng có
thể hiểu rõ, không có chuyện gì ngoài dự liệu cả.
Người tu luyện có thể đắc chứng được “mắt thứ ba của trực giác”,
mắt thứ ba này chính là tuệ nhãn, cũng tức là ấn chứng thứ hai của
Linh Tiên Kim Cương đại pháp, ở trạng thái này, người tu hành sẽ
cảm nhận được sự vui vẻ và bi thương của tất cả sinh vật, cảm
nhận được sự do dự cũng như nỗi sợ hãi của người khác, cảm nhận
được tất cả ý niệm trong lòng người khác, cũng giống như là đích
thân mình trải qua vậy, loại giác tri này chính là “mắt thứ ba”,
cũng chính là “Tha tâm thông” của Lục đại thần thông.
Tôi cho rằng “Tha tâm thông” chính là “tâm điện đọc hiểu người
khác”.
Người tu pháp do bởi thường xuyên ở trong Kim cương tam muội
đại định, cho dù là lúc xuất định nói chuyện thì cũng có một tri
giác rất đặc biệt có thể nhìn thấy quang khí ở xung quanh người
khác, tỷ dụ như có một số người có tâm quanh minh chính nghĩa,
cho nên quang của họ sẽ giải thoát phóng ra ngoài. Khi người tu
19
hành có thể luyện thành chứng được mắt thứ ba, cũng có thể nói
rằng đây chính là ấn chứng thứ ba của Linh Tiên Kim Cương đại
pháp.
Ngày nay có rất nhiều đệ tử hy vọng tôi có thể truyền cho họ “nhãn
pháp thứ ba”, cũng cảm thấy “mắt thứ ba” rất khó hiểu. Để tôi nói
cho mọi người biết, tu hành đến khi nhập vào Tỳ Lô tánh hải thì
quang minh của chư Phật Bồ tát sẽ cùng với quang minh pháp tính
của bạn hòa lại thành một, chỉ cần đạt đến cảnh giới này thì sẽ đắc
được “đại quang minh tạng”, đắc được “Như lai tạng tính”. Nên
biết rằng đắc được “Như lai tạng tính” thì bạn chính là cùng một
thể với thiên hạ chúng sinh, cảnh giới “phi thể phi dụng” tức là
“ngữ ngôn đạo đoán, tâm hành xứ diệt”, đây cũng chính là nơi ẩn
chứa “đại thiên cơ”, vốn không có chữ nghĩa nào có thể hình dung
được.
Người khác nghĩ gì cũng đều biết được cả. Đạt đến cảnh giới này
thì há còn phiền đến bói toán nữa. Người đến chỉ cần ngồi đối diện
với tôi, tôi có thể nói ra tất cả những gì trong lòng họ nghĩ. Ở cảnh
giới này hoàn toàn không có chút gì trở ngại cả. Tôi thường sử
dụng một ví dụ để giải thích con mắt thứ ba này: Ví dụ như chúng
ta bước vào một căn phòng không có ánh sáng, tất cả chỉ là một
màn tối đen thì chúng ta không thể nào biết được cách bố trí của
căn phòng, đột nhiên bạn ấn vào một công tắc điện, dòng điện chạy
qua, đèn bật sáng lên, tất cả đều nhìn thấy rõ ràng. Một người lần
đầu tiên đến trước mặt bạn, bạn hoàn toàn không hiểu gì về họ, tuy
nhiên khi dòng điện trong tâm của bạn đã thông suốt rồi thì bạn có
thể đọc thông suốt tâm của họ, đây chính là mắt thứ ba.
Tu luyện Linh Tiên Kim Cương đại pháp đều có thể đắc chứng
được “loại ấn chứng thứ ba” này, có thể qua việc tu luyện hàng
ngày, tiến bộ hàng ngày để đắc chứng được, “giác tri tình cảm” trở
nên không có chướng ngại gì cả, có thể nhìn thấy được rất xa, sức
mạnh cảm giác siêu kỳ của nó các nhà khoa học không thể nào
theo kịp, dòng điện tâm tinh tế ấy mặc dù phóng ra tứ hải nhưng lại
cực kỳ chuẩn xác. Về phương diện này, các nhà khoa học có lẽ sẽ
cho là không thể, gây ngộ nhận về mắt thứ ba của trực giác, tuy
20
nhiên đây hoàn toàn lại là môn tinh tế nhất của Kim cương mật
pháp.
Ngày nay tôi ở Seattle Hoa Kỳ có rất nhiều học trò người Mỹ đến
quy y, những học trò này đều là các tiến sĩ thuộc thành phần trí
thức cao cấp, họ đến quy y theo một người Á Đông, quỳ gối trước
một hành giả mật pháp còn trẻ thi hành đại lễ, nguyên nhân khiến
họ tôn kính tôi như thế chính là nhờ vào sự thật của “mắt thứ ba”.
Xét về trình độ học vấn họ là tiến sĩ, còn trình độ của tôi chỉ là tốt
nghiệp đại học mà thôi.
Về chủng tộc thì họ là người là da trắng, còn tôi là người Châu Á
da vàng. Tâm lý kì thị chủng tộc, người da trắng luôn có cảm giác
ưu việt, điều này không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, những tiến sĩ da trắng này đều quỳ xuống làm đại lễ với
tôi, bởi vì tôi là hành giả đã đắc chứng tu pháp, tất cả họ đều là học
trò của tôi, còn tôi là thượng sư truyền pháp.
21
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
05. “Phân biệt trí” chân thật – Ấn chứng thứ 4
Thế nào là “phân biệt trí” chân thật? Cái gọi là “phân biệt trí chân
thật” này chính là chánh giác.
Sau khi tôi đã đắc chứng, “phân biệt trí chân thật” này đã giúp tôi
có được rất nhiều tri thức và trí tuệ, những tri thức này đều là đại
tri thức, những trí tuệ này cũng đều là đại trí tuệ. Tôi đã hoàn toàn
khai mở tầng sâu bên trong nhất.
Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh dẫn tôi đến trước một bức danh họa
thế giới, bức tranh vẽ một ngôi nhà, một con đường, có rất nhiều
cây cối, có hai người đang đi trên đường. Tam Sơn Cửu Hầu tiên
sinh muốn tôi nhập “Thiền định”, cho nên tôi liền nhập “Thiền
định” ngay phía trước bức danh họa.
Khi tôi vừa nhập định thì nhìn thấy trước mặt mây khói mù mịt, tôi
nhập sâu vào một tầng nữa, mây khói liền dần dần tan mất, xuất
hiện trước mắt tôi là cây cối xanh tươi, quang cảnh ngày càng rõ
ràng hơn, hiện ra một căn nhà gạch đỏ hoa lệ, một con đường dẫn
đến nơi vô cùng xa tít, tôi nhập sâu hơn một tầng nữa, tôi nhìn thấy
bên lề đường có hai người đang cúi đầu nói chuyện với nhau, đang
cất bước đi, trông sống động như thật vậy.
Những sự vật nhìn thấy lại diễn biến tiếp, nhìn thấy bên vệ đường
có một cột mốc, trên cột mốc có viết “Queenave”, lúc này đây phía
chân trời bỗng xuất hiện một đám mây màu, từ đó nổi lên một
quầng ráng chiều, quầng ráng chiều này bỗng nhiên xuất hiện làm
cho tôi nghĩ rằng lúc này hẳn đang là buổi hoàng hôn, tôi chú ý
nhìn một người trong hai người kia trên tay có mang đồng hồ, tôi
nhìn thấy kim đồng hồ đang chỉ 6 giờ 42 phút. Cảnh tượng này tôi
nhìn thấy rất rõ ràng.
“Liên Sinh, sao ngươi không vào sâu hơn nữa?”, bên tai vang lên
tiếng của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh. Thế là tôi hóa cả thân mình
22
thành một đạo ánh sáng trắng, chớp mắt đã phủ chụp vào trong bức
tranh, đột nhiên tôi nhận thấy bản thân mình đang đi trên con
đường trong bức tranh, phía trước mặt có hai người đang đi đến,
một người là đàn ông, đầu đội mũ lễ, mình vận lễ phục đuôi chim
yến, tay chống quải trượng, một người nữa là thục nữ mặc váy dài
màu xanh nhạt, có thêu viền hoa, khoác một áo cánh ngoài màu lá
sen tím nhạt. Họ này đang cúi đầu nói chuyện với nhau, bỗng
nhiên ngẩng đầu lên nhìn thấy tôi, liền khẽ lộ vẻ mỉm cười, nói “Hi”
một tiếng, tôi cũng khẽ gật đầu. Tôi cảm thấy, bản thân mình xuất
hiện trong tranh hoàn toàn chân thực, điều này khiến tôi cảm thấy
vô cùng kinh ngạc.
Sau khi xuất định.
“Vừa rồi tôi đã đi vào trong tranh sao?”, tôi hỏi với vẻ kinh ngạc.
“Đúng vậy”, Tam Sơn Cửu Hầu cười nhẹ trả lời.
“Chuyện này sao có thể được chứ? Đó là một bức tranh mà, nhà
cửa là giả, cây cối cũng chỉ là giả, đường đi cũng là giả, đây chỉ là
một bức tranh do họa sĩ dùng sơn màu vẽ ra.” Tôi lớn tiếng thốt lên.
“Ngươi nói không sai, Liên Sinh, nhưng nhà họa gia này lúc trước
khi vẽ tranh, ông ấy đã dùng tâm lực tương đối lớn, tâm lực của
ông ấy ký gửi vào trong bức tranh, cái ngươi nhập vào không phải
là bức tranh mà chính là nhập vào trong tâm lực của nhà họa sĩ đó,
vì vậy ngươi có thể tiến nhập vào để nói chuyện với người trong
tranh của họa sĩ đó”. Tam Sinh Cửu Hầu tiên sinh trả lời.
“Waa! Đây quả là một phát hiện lớn.” Tôi quá đỗi kinh ngạc.
“Nói một cách nghiêm túc, căn nguyên tuyệt đối chính là vượt qua
thời gian, vượt qua không gian, vĩnh hằng và vô hạn. Khi đã tu
luyện đắc chứng được, chúng ta có thể nhận thấy được thế giới vật
chất, nếu như không có tâm lực ở bên trong thì tất cả chỉ là giả, địa
cầu chỉ là giả, nhân loại cũng chỉ là nhân loại giả tạo, núi là giả,
biển cũng chỉ là giả, phi cơ là giả, thuyền bè cũng là giả, danh lợi
địa vị tất cả đều là giả tạo. Mỗi một người đều đang nằm mộng,
đều cho rằng thế giới vật chất này chính là sự chân thật sinh tồn
23
duy nhất, thật ra đây chỉ là ảo giác hoang tưởng, đây chẳng qua chỉ
là một giấc mộng dài cả trăm năm của một người mà thôi.
“Vậy địa cầu thì sao?” Tôi hỏi.
“Một bức tranh dẫn dắt nhân loại rời bỏ vọng tướng của ý thức chí
thượng mà thôi.”
“Vậy còn tôi thì sao?”
“Ngươi là một vị giác giả, từ bề mặt vật chất thô độn kia khai phát
ra tâm lực tinh tế, thay thế nhân loại khai sáng ra một lớp người tái
độ chuyển thế đã giác tỉnh tinh thần”.
Được sự khai thị của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, cuối cùng tôi đã
nhận thức được “sự hoang tưởng của thế giới thế tục”, tôi biết rằng
mọi người đang mộng tưởng, cũng giống như nằm mộng mỗi đêm
vậy, có một số người khi nằm mộng có những ảo giác rất kỳ lạ, có
người làm hỉ sự trong đêm, có người nằm mộng thấy bị giết, có
người lại nằm mộng thấy tương hội cùng người tình, có người lại
thấy cửa nhà tan nát, có người hoan hỉ, lại có kẻ bi thương. Người
mộng thấy điều hoan hỉ thì cười ra thành tiếng, kẻ thấy điều bi
thương lại đau lòng đến nhỏ lệ. Thế giới vật chất cuối cùng tôi đã
có thể dùng mắt để nhìn thấu suốt, thế giới vật chất đối với người
tu đạo không còn là một điều mê hoặc nữa, không còn bị những
dục lạc níu giữ, bị những dục vọng gò bò, đây chính là đại tri thức
trong đại trí tuệ.
Đến giai đoạn ấn chứng thứ tư của Linh Tiên Kim Cương Đại Pháp
thì chúng ta đã hoàn toàn gỡ bỏ đi tấm màn che bề mặt thế giới, đã
có được “phân biệt trí chân thực”, chánh giác đã hiện, ảo giác đã
tiêu trừ, bắt đầu có được pháp lực, đã hoàn toàn hòa nhập vào
trong thuần ý thức vô đặc tính, đã nếm thưởng được mùi vị của đạo
chí thượng, mùi vị này chính là một nguồn an vui vĩnh hằng, đây
chính là “cảnh tướng Tây phương cực lạc thế giới tịnh thổ” mà
Phật đã nói.
Bên trong ấn chứng này đã vượt qua thời gian, địa điểm, không
gian. Người tu luyện lúc này có thể tiến nhập vào trong đường hầm
24
thời gian của hàng ngàn năm hàng vạn năm trước, có được đại trí
huệ ý thức vô hạn định, có được pháp lực rất lớn và vô cùng tận,
loại quan niệm này củng tức là “vô hạn”.
Đây là sinh mệnh mới, “vũ trụ đại ngã” hợp nhất cùng bản thân.
Đạt đến cảnh giới này thì những phàm phu tục tử trên đời này đều
không thể tin rằng đó là thật, cũng không cách chi suy đoán được.
Đây chính là nguyên nhân “không thể nói” của Phật.
25
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
06. Linh năng phân thân biến hóa– Ấn chứng thứ 5
Trong pháp môn mật tông có một pháp bí mật gọi là “Thiên
chuyển luân pháp”, cũng có “Thiên chuyển luân chú”, đây cũng
chính là một trong những diệu pháp tinh tế. Đây tức là một mật
tông hành giả niệm chú, nhưng niệm một lần thì sử dụng “Thiên
chuyển luân pháp” hoặc “Thiên chuyển luân chú”, một lần niệm
chú này sẽ hóa thành một ngàn lần, đây chính là mật pháp đại
phương tiện biến hóa vô cùng.
Cũng giống như Hiển giáo niệm Phật vậy, có người niệm: “Nam
ma tam thập lục vạn ức, nhất thập nhất vạn cửu thiên ngũ bách
đồng danh đồng hiệu A di đà Phật”. Câu Phật hiệu này tương
đương với niệm Phật hiệu “A di đà Phật” tam thập lục vạn ức, nhất
thập nhất cửu thiên ngũ bách lần. Loại pháp phương tiện bí mật
này vốn là sự biến hóa của diệu pháp tinh diệu, người có thể biết
được pháp này thì ấn chứng rất nhanh.
Tôi giản thuật “Thiên chuyển luân pháp” như sau:
Khi hành pháp trước hết quán tưởng “pháp luân”, tụng: “Chư thiên
thần tướng hộ pháp luân, ngã kim cầu chuyển thiên biến luân, tâm
như pháp lai hiện mật ý, nhất nhất như chân quang phân minh”.
Thế là, pháp luân xoay chuyển, trong không trung lần lượt xuất
hiện rất nhiều hành giả, tổng cộng có đến cả ngàn người, tất cả đều
là phân thân biến hóa của bản thân, được biến hóa ra từ trong thiên
chuyển pháp luân, giăng đầy cả không trung, thế là hành giả quán
tưởng trong không trung, toàn bộ chắp tay niệm chân ngôn, câu
chân ngôn chú này tương đương với hàng ngàn người cùng tụng
niệm, niệm xong thì lạy Phật, rồi sau đó tụng câu thứ hai, niệm
xong tiếp tục lạy Phật, niệm mười câu, lạy Phật mười lần, chú này
xem như tương đương với một vạn lần rồi.
26
Bản thân tôi hiểu được “Thiên chuyển luân chú”, cũng biết cả pháp
này, là thiên cơ đại thừa của tất cả môn đại bí mật, thông thường
các pháp sư hay là Thượng sư đều không bao giờ tùy tiện tiết lộ ra,
trừ trường hợp thật sự cần thiết mới dạy thực hiện mà thôi, bởi vì
nếu để lộ ra đại bí mật pháp này, người thế gian sẽ tham cầu
phương tiện mà từ bỏ đi chư pháp, chỉ muốn đi đường tắt, từ đây
sẽ sinh ra lầm đường lạc lối.
Tuy nhiên, nếu tu tập Linh Tiên Kim Cương Đại Pháp này của tôi
sẽ tự nhiên biết được ấn chứng thứ năm, ấn chứng thứ năm này
chính là “Phân thân biến hóa”, phân thân biến hóa này chính là sự
suy diễn của Thiên chuyển luân pháp, một biến mười, mười biến
trăm, trăm biến ngàn, ngàn biến vạn, phân thân biến hóa há có gì
khó khăn chứ!
Một hành giả nâng cao thần tính của bản thân, từ một đóa hoa sen
vàng tám cánh hóa thân thành hoa sen với hàng ngàn cánh. Hành
giả dùng linh năng của bản thân, phối hợp với mặc tưởng nhiều lần
lĩnh ngộ, đem đường cong của tâm linh cơ thể phóng quang ra từ
các lỗ chân lông, đạo ánh quang này chính là một hành giả mới,
như thế phân thân biến hóa ra cả trăm ngàn. Nói một cách đơn giản,
một hành giả tập trung tất cả sức mạnh của tâm linh lại, phối hợp
với hô hấp, cùng với ý thức chí thượng của vũ trụ đóng vai trò
cộng hưởng, có thể biến hóa, sau đó vận dụng Thiên chuyển luân
pháp thì có thể phân thân vô cùng tận.
Bây giờ tôi sẽ tiết lộ một đại thiên cơ. Hành giả tu pháp nếu như có
thể vận dụng ánh sáng bẻ cong phản xạ của kiếng, dùng 3 tấm
kiếng hay 6 tấm kiếng rồi bản thân ngồi chính giữa trung tâm để tu
pháp, bởi vì trong kiếng có hàng ngàn hàng vạn bản thân chúng ta,
chúng ta tu tập nhất đàn pháp, do ánh sáng bẻ cong phản xạ của
kiếng nên sẽ có hàng ngàn hàng vạn bản thân chúng ta cùng tu tập
nhất đàn pháp, sau đó hành giả vận dụng Thiên chuyển luân pháp
để tu tập thì quả thật là vô cùng lớn, chỉ cần tu tập một lần đàn thôi
thì đã hơn hẳn một lão tăng tu tập cả đời rồi. Bản thân tôi có tâm
pháp đại thiên cơ của Thiên chuyển luân pháp và Thiên chuyển
luân chú, nhưng không thể tùy tiện tiết lộ được. Nói một cách
27
thẳng thắn rằng, tôi năm nay 40 tuổi, đây chỉ là số tuổi bên ngoài
của tôi, trên thực tế đạo hạnh tu pháp của tôi đã gấp ngàn lần 40
tuổi, rất đơn giản để suy ra được đạo hạnh của tôi đã có 40 ngàn
năm. Tôi nói như thế, những người thích phỉ báng tôi lại muốn
nhảy loạn lên nữa rồi. Thật tội nghiệp, tội nghiệp thay! Những lão
đạo tạp mao và các con lừa trọc kia (chỉ các tăng lữ giả mạo tu
hành) làm sao có thể hiểu được ý nghĩa bí mật về mức độ thâm sâu
của mật pháp được.
Biến hóa phân thân của ấn chứng thứ năm, trong Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh có đoạn kinh văn rất quan trọng:
“như nhất vọng đa, hữu y hữu trì, toàn lực vô lực, thường hàm đa
tại kỳ trung, tiềm nhập dĩ tại đa trung, đồng thời vô ngại. Đa vọng
ư nhất, đương tri diệc nhĩ. Câu tồn song mẫn, nhị cú vô ngại”.
Đoạn kinh văn này, trước hết nói về “nhất”, “nhất” là có sức mạnh
vô cùng, “y” chính là “nhất”, “trì” chính là “đa”, lực lượng của
“nhất” lớn, lực lượng của “đa” ít, biến hóa của “đa” này thật ra
nằm ở bên trong “nhất”, thu lại về bên trong “nhất”, cần thu tức là
nhất, cần thu tức là đa, là cảnh giới cùng đồng thời nhiếp nhập và
tồn tại với nhau nhưng không có trở ngại. Vì vậy, nhất có thể nhiếp
đa, đa có thể nhiếp nhất, có thể cùng tồn tại lẫn nhau, mà “câu tồn”
chính là “song mẫn”, “mẫn” chính là “câu tồn”. Đạo lý này phải
suy nghĩ kỹ mới có thể hiểu được.
Có người sẽ cho rằng không thể nào có thuật biến hóa phân thân,
thật ra không phải không thể, do bởi quá ư thâm diệu cho nên
phàm phu thế tục không thể nào lĩnh ngộ được quan niệm tinh diệu
này. Nhất chính là đa, mà đa cũng chính là nhất, đại địa hư không
cũng là nhất, muốn giác ngộ Phật tính này, phải hiểu rõ tất cả nhân
duyên pháp, thể là toàn thể, dụng là lực dụng, bản thể và lực dụng
dung hòa lẫn nhau, như vậy mới có thể có được thành tựu to lớn,
đây chính là đạo lý chân chính vô trở ngại.
“Thiên chuyển luân pháp” và “Thiên chuyển luân chú” chính là
mức sơ cấp của phân thân bách biến. Còn “Vô ngại thần thông”
28
chính là tầng sâu hơn của Phân thân bách biến, đây chính là ấn
chứng thứ năm.
“Ma Ha Song Liên trì có một vị Liên Hoa đồng tử Lư Thắng Ngạn
chứ?”
“Có”, tôi trả lời.
“Trong thế giới Sa bà cũng có một vị Liên Hoa đồng tử Lư Thắng
Ngạn chứ?”
“Có”, tôi đáp lời.
“Trong các thế giới khác cũng có một Liên Hoa đồng tử Lư Thắng
Ngạn chứ?”
“Có”, tôi đáp.
Phân thân biến hóa, hóa thân bách biến, trong các thế giới đều có
ứng hóa thân của Liên Hoa đồng tử, Liên hoa đồng tử này phổ độ
chúng sinh, diệu pháp của người thâm ảo vô cùng, Linh Tiên Kim
Cương Đại Pháp ảo diệu vô biên. Ấn chứng thứ năm này thật khiến
cho phàm phu tục tử phải há hốc cả mồm miệng.
29
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
07. Phát động kim cương pháp
Có rất nhiều người tu linh pháp và tăng chúng xuất gia tu tập cả
một đời, có người hỏi họ, ông tu hành cũng đã hơn nửa đời người
rồi đã có được cảm ứng gì chưa? Họ sẽ kể cho bạn nghe rất nhiều
câu chuyện cảm ứng về Phật Bồ tát, vô cùng ảo diệu, thế nhưng
nếu như bạn hỏi tiếp họ, tu hành thời gian lâu như thế, bản thân họ
đã tu đến cảnh giới nào rồi? Hỏi như thế sẽ có rất nhiều người
không thể nào trả lời được.
Bởi vì những câu chuyện cảm ứng về Phật Bồ tát thì ai cũng biết
kể cả, chỉ khác là có người kể hấp dẫn, đặc sắc, kẻ khác lại kể
không hay bằng thôi. Tuy nhiên, khi hỏi về cảnh giới tu tập của
bản thân họ thì họ lại không thể trả lời được. Việc họ không thể trả
lời có hai nguyên nhân: thứ nhất, người tu hành nếu như bản thân
không nghiêm túc tu, chăm chỉ hành thì cũng như trên mình mặc
pháp phục mà thôi, trên thực tế không có pháp gì cả, cạo một cái
đầu bóng loáng nhưng lại làm những chuyện tục gia thế sự, thế tục
hư ứng cần những thần côn đạo sĩ như thế, những kẻ tu tập linh
pháp giả mạo này nếu như đạt đến cảnh giới gì thì đây mới là
chuyện quái lạ thứ nhất trong thiên hạ; thứ hai, những ai thật sự tu
hành chân chính, thật sự có đạo hạnh, đạt được cảnh giới, thế
nhưng họ xem những bí mật tu hành đắc được, những kinh nghiệm
tu hành này như thiên cơ, cất giữ như kỳ trân hiếm có, không muốn
chia sẻ kinh nghiệm, người khác hỏi họ, họ cũng lắc đầu nói không
biết, không muốn truyền đạt lại những trải nghiệm của bản thân
cho người đời.
Theo như tôi được biết những người có trải nghiệm thật sự rất ít,
những người hiểu được tu hành đại pháp quả thực là không nhiều,
trong số này chẳng những yêu cầu đạo pháp tu hành cần phải hoàn
toàn không có sai sót, ngoài ra còn cần có bậc Thượng sư đã thật
sự đắc đạo chỉ dẫn cho, còn tu hành đắc đạo hay không còn phải
30
xem ở “duyên phận” nữa. Có thể nhìn thấy trên đường tu đạo, số
người đắc đạo chân chính thật sự không nhiều. Cũng có một số
người mua sách của tôi về xem, vừa mới học biết được chút ít thì
đã ra ngoài lừa gạt người rồi. Họ sẽ nói rằng nguyên thần của Lư
Thắng Ngạn và Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh đều bị họ làm chủ hết,
đây quả là xã hội trắng đen đảo lộn, mắt cá trộn ngọc rồi, những
loại người khoác lác quá mức như thế cũng có rất nhiều. Tuy nhiên,
dù là thế nào, trong nhân gian cho dù là những kẻ tà giáo, tà sư
hoành hành buông lời mê hoặc giả mạo có rất nhiều, nhưng đã đắc
chứng được thì chính là đắc chứng, chưa đắc chứng thì vẫn là chưa
đắc chứng, về mặt này có thể gạt được mắt người nhưng không thể
nào qua được mắt trời.
Phát động linh năng Kim cương Kundalini là thật sự có cảm ứng,
ví dụ như tổ sư của tôi là Mật Lặc Nhất Ba (Milarepa) Tôn giả,
trước khi ông ấy xuất hiện linh năng tự cảm thấy bản thân có thể
bay lên, hấp lực của mặt đất không còn nữa, có thể đi lại trong
không trung, xoay chuyển hoàn toàn tự do, loại kinh nghiệm này
chính là kinh nghiệm của Tổ sư Mật Lặc Nhật Ba.
Phát động pháp cương Kim Cương, loại cảm ứng này rất đỗi thâm
sâu, tuyệt không phải là hiện tượng “phảng phảng phất phất”, có
người cảm thấy bản thân có điện, điện này sinh ra ở phần cuối đốt
sống, rồi theo cột sống truyền lên trên, loại “điện cảm” này truyền
khắp toàn thân, thân thể cảm thấy có chút tê dại, loại cảm giác điện
này làm cho người ta cảm thấy nhanh nhẹn và thoải mái, tâm trạng
tràn đầy niềm vui, đỉnh điểm cao nhất chính là Nirvikalpa Samadhi.
Nếu như có thể đạt đến đỉnh điểm cao nhất của niềm vui thì xem
như đã nhập vào tam ma địa, cảnh giới này chỉ có thể hiểu mà
không thể nào dùng lời để diễn đạt. Có lúc cảm giác điện truyền
khắp toàn thân sẽ tự động khai thông tất cả các chướng ngại trong
cơ thể. Nguyên nhân mà “Linh năng” có thể trị bệnh chính là năng
lực thuộc về lĩnh vực này.
Có người cảm nhận được phần căn đang rung động. Nơi xương
sống có cảm giác đóng mở từng đợt từng đợt, dường như đang
chuyển động vậy, loại chuyển động này rất tự nhiên. Loại chuyển
31
động này có thể hiểu theo kiểu “nhảy ếch” để hình dung một cách
chính xác nhất. Đột nhiên cứ nhảy chồm lên, rồi men theo xương
sống để chuyển động lên trên. Ở Seattle, tôi có một người học trò
người Mỹ tên là Ngõa Hách đã có trải nghiệm qua cảm giác này.
Lại có người cảm giác nơi phần cuối của cột sống có một ngọn lửa
đang thiêu đốt mãnh liệt, dùng tay sờ thì âm ấm, ngọn lửa này cứ
thiêu đốt dần lên trên, cứ thiêu mãi cho đến cuống họng, sau đó
tiếp tục ra đến trước ngực, rồi đến rốn, sau đó men theo đùi đến
đầu ngón chân, tiếp sau đó sẽ thiêu đốt tới chân kia, cũng giống
như vậy đốt cho đến đầu ngón chân, tiếp đó sẽ đi chu du khắp cả
hai tay, về đến tim, rồi lại đến bộ vị thiên tâm, rồi tiếp đến huyệt
đỉnh đầu, mà ngọn lửa này ở trên huyệt đỉnh đầu cùng với ý thức
chí thượng của vũ trụ hòa hợp lại với nhau, tiến nhập vào trong vũ
trụ, đây chính “Nội hỏa pháp”. Nội hỏa minh điểm pháp chính là
Đại tiểu chu thiên pháp của Đạo gia, ngọn lửa này cũng có thể
ngừng lại ở bất kỳ bộ phận nào có bệnh tật ở trong cơ thể, thiêu trừ
đi tất cả bệnh tật (rác rưởi), người tu luyện Nội hỏa minh điểm
pháp này toàn thân rất ấm áp, vào mùa đông có ngủ trong tuyết
cũng không cảm thấy lạnh.
Có người cảm giác khi linh năng phát động, thân thể đột nhiên
trương lên đến cực hạn, cũng tức là tâm linh đã mở rộng đến vô
cùng tận, thân thể dường như đang bay bổng, có lúc khí cầu căng
đầy không khí, bay bổng lên không trung, có khi giống như làn
khói nhẹ nhàng bay lên trời, tất cả đều nhanh vô cùng, cảm nhận
thấy đã tiếp cận với ý thức bản thể của vũ trụ, cảm giác được sự
tồn tại của bản thể vũ trụ, không chỉ có thế còn cảm giác được giữa
hai bên không còn sai lệch quá lớn về khoảng cách nữa.
Có người hỏi tôi: “Lư thượng sư, kinh nghiệm bản thân của ông
như thế nào?”
Tôi lúc đầu, trước tiên cảm thấy một chấn động, toàn thân đều run
nhẹ, có một đạo ánh sáng từ trên giáng xuống, toàn thân đều tràn
ngập ánh sáng, trong lòng nở rộ một đóa hoa sen, trong đóa hoa
sen có Liên Hoa đồng tử. Ở nơi xương sống có một luồng ánh sáng
32
hướng lên trên, luồng sáng này giống như là ánh sáng hàn vậy,
thân thể trở nên to lớn, lục phủ ngũ tạng cũng trở nên trong suốt,
tựa hồ như người thủy tinh vậy, trong lòng có một đóa hoa sen đỏ
rực. Giả sử như có người tu đạo nào đắc chứng được Thiên Nhãn
nhìn thấy tôi viết như thế hẳn sẽ biết đây là trạng thái phát động
linh năng Kim cương đại pháp nội ngoại kiêm tu.
Phát động Kim cương đại pháp là điều xác thực, tuyệt không có
lừa gạt người, những người có kinh nghiệm tương tự tuy là không
nhiều, nhưng cũng có những bậc tu hành đã khởi động Kundalini ,
loại linh năng này từ Hải để luân rồi đến Sinh thực luân, đến Tề
luân, rồi từ Tề luân đến Tâm luân, từ Tâm luân đến Hầu luân, từ
Hầu luân đến Mi gian luân, từ Mi gian luân lên đến Đỉnh luân, đây
chính là Du Già Thất chủng luân, Thất chủng luân (7 luân xa) này
đại diện cho 7 nhóm hệ thống thần kinh điều khiển thần kinh của
con người. Linh năng khi thông qua hệ thống thần kinh làm cho
minh giác của các hành giả đều khác nhau, có rất nhiều phát hiện
lớn của các bậc đại tu hành, những phát hiện này đều là thiên cơ.
Trong các tác phẩm sau tôi sẽ viết ra hết, nhất là về Phạn chú,
những Phạn chú này đều chứa hàm ý của thiên cơ, vô cùng quan
trọng và bao gồm những chân lý hết sức thâm sâu.
33
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
08. Liên Hoa đồng tử Kim cương tương ứng
“Ông Á Hồng. Cổ Lỗ Bối. Á Ha Tát Sa Ma Cáp. Liên Sinh Tất Địa
Hồng”, (OM AH HUM GURU BEI A HA SHA SA MA HA
LIENG SHENG SIDDHI HUM) câu chú ngữ này là chú căn bản
của Liên Hoa đồng tử, tu tập Kim cương pháp của Liên Hoa đồng
tử phải giữ câu chú ngữ này. Người tu tập pháp này nhất định phải
tiếp nhận quy y quán đảnh.
Có người hỏi tôi, thế nào là Liên Hoa đồng tử? Tại sao lại gọi là
“đồng tử”?
Tôi giải thích như sau: “Cảnh giới của Liên Hoa đồng tử cũng ở
Tây phương cực lạc thế giới, là tên gọi chung của 18 vị Liên Hoa
tôn giả ở Ma Ha Song Liên trì, cảnh giới này được hình thành là do
Vô Tà Nhãn Như Lai dựa vào sự biến hóa của nhãn thức để thành
tựu. 18 vị Liên Hoa đồng tử thượng thủ ở vị trí trung tâm đều cầm
hoa sen trắng, ứng hóa thân của họ chính là Thượng sư Kim Cương
Lư Thắng Ngạn. Liên Hoa đồng tử bạch sắc chính là chủ tôn của
18 vị tôn giả thượng thủ, cảnh giới này cũng chính là cảnh giới bất
thoái chuyển.
Còn tại sao gọi là “đồng tử”? Đồng tử chính là đại biểu của xích tử,
tức là tu hành đến cực trí, hồi phục được “xích tử chi tâm”, nói một
cách đơn giản chính là quy bổn hoàn nguyên. Nói theo đạo gia thì
nam giới tu đạo chính là từ “li trung hư” phản hồi về “càn tam
liên”, còn nữ giới tu đạo thì từ “khảm trung mãn” phản hồi về
“khôn lục đoạn”. Đồng tử biểu thị sự thuần khiết, thể hiện quả vị,
nói lên pháp thân thanh tịnh, đã xóa bỏ đi tâm tư dục, từ bỏ vô
minh, tiêu trừ phiền não, xóa bỏ u mê, đắc được pháp thân thanh
tịnh, thì có thể gọi là đồng tử. Vì vậy đồng từ và Bồ tát, 2 cách
xưng hô này tuy không giống nhau nhưng kỳ thật lại như nhau.
34
Liên Hoa đồng tử chính là Liên Hoa Bồ Tát, điều này không có gì
khác biệt. Pháp thân thanh tịnh của Liên Hoa đồng tử này không
phải có ngũ uẩn tích tụ, cũng không phải ứng hóa từ thập nhị xứ
hay từ thập bát giới, vốn dĩ là do Phật muốn phổ độ chúng sinh nên
thể hiện cảnh giới Liên Hoa đồng tử, một trong những pháp môn
giúp chúng sinh phát bồ đề tâm. “Liên Hoa” chính là thể hiện sự
thanh tịnh, xuất sinh từ những ô tạp nhưng không nhiễm, đồng tử
chính là quả vị của bồ tát. Phật Thích Ca Mâu Ni khi tại thế, trong
số 25 vị thánh giả có rất nhiều vị xưng là Pháp vương tử, Pháp
vương tử chính là Phật Thích Ca Mâu Ni, Pháp vương tử chính là
tôn giả theo đuổi tu hành pháp vương cho nên gọi là pháp vương.
Trong 25 vị tôn giả có một vị là Nguyệt quang đồng tử, một vị là
Hương Nghiêm đồng từ, “đồng tử” ở đây không phải là chỉ “tiểu
hài tử”, mà chỉ việc tu hành của tôn giả đã “phản bổn hoàn
nguyên”, được đắc được quả vị bồ tát nhất thừa diệu pháp, nên
được tôn xưng là “đồng tử”.
Nếu như có người tu tập “Liên Hoa đồng tử kim cương tương ứng”,
đây chính là Kim cương đại pháp căn bản của Linh Tiên chân Phật
tông, tức biết được “tam ma trì” này là căn bản của viên thông, có
được ấn chứng, có thể đắc được diệu giác minh thể, có thể chu du
khắp pháp giới, người tu hành ẩn giấu quang tích, tẩy rữa thân tâm,
giống như hoa sen vậy, nhập vào Như lai tạng tâm, đắc được diệu
pháp vi diệu, ngộ được chân thường, được soi sáng Kim cương
tam muội, tất cả đều chân thật rõ ràng, xoay chuyển pháp luân của
linh năng, đắc được chân kiến nguyên minh.
Để tu hành pháp này, tương ứng của Liên Hoa đồng tử Kim cương
đại pháp cần phải hiểu rõ nhân quả của Liên Hoa đồng tử, tiếp
nhận quy y quán đảnh, tôn thờ bản tôn thượng sư truyền pháp, gặp
Thượng sư như gặp Phật vậy, mỗi ngày một lần, cố gắng tu tập
tinh tiến. Sau đây tôi sẽ kể ra yếu quyết tu tập Liên Hoa đồng tử
Kim cương đại pháp:
Yếu quyết quán tưởng – tôn thờ tượng sứ hay pháp tướng của Liên
Hoa đồng tử, Liên Hoa đồng tử chính là Thượng sư, Thượng sư
cũng chính là ứng hoa thân của Liên Hoa đồng tử, cả hai không có
35
gì khác biệt cả. Bộ phận thiên tâm quán tưởng Thượng sư phóng ra
một tia sáng trắng, chiếu về phần thiên tâm của bản thân, đây chính
là Đại viên kính trí quang, giúp cho ngũ uẩn và đại bát thức của
bản thân trở nên vô hình. Kế đó bộ phận cổ họng quán tưởng
Thượng sư phóng ra một tia hồng quang mạnh mẽ chiếu thẳng vào
phần cổ họng của bản thân, làm cho tất cả các tính tham dục niệm
của bản thân đều trở nên vô hình, biến thành hơi thở của đại trí tuệ.
Lần thứ ba quán tưởng Thượng sư từ trong tâm tế sẽ phát ra ánh
sáng màu xanh mãnh liệt rọi thẳng vào tâm tế của bản thân, từ điều
hòa tính si trong cơ thể, hóa tính si trở nên vô hình. Tĩnh tọa quán
tưởng, tâm tính của bản thân phát ra ánh sáng hòa nhập vào tam
ma địa của Liên Hoa đồng tử, bản thân sẽ hóa thành Liên hoa đồng
tử, ngồi trên Liên hoa tọa, đầu đội Ngũ Phật quan, bi trí cùng song
song vận hành.
Yếu quyết trì chú – Liên hoa đồng tử căn bản chú, được viết như
sau: “Ông Á Hồng. Cổ Lỗ Bối. Á Ha Tát Sa Ma Cáp. Liên Sinh
Tất Địa Hồng”. Cách vận dụng chú ngữ này có thể là 108 lần cũng
có thể là 1080 lần, thậm chí là mỗi lần có thể nhiều đến hàng vạn
lần, càng nhiều càng tốt, sau khi quán tưởng thì trì chú, tay có thể
đếm tràng hạt để ghi nhớ số lần. Miệng niệm nên nhỏ tiếng hoặc
không phát ra tiếng là tốt nhất, niệm ra tiếng cũng được, dùng tâm
niệm, xuất từ miệng, nhập vào tai, ghi khắc tại tâm, hạt giống của
chú này chính là ở chữ “hồng” (HUM) sau cùng, chữ “hồng” này
sẽ tự ghi khắc vào lòng, niệm cho đến khi thành thục, hạt giống
này sẽ giống như một đóa sen nở rộ vậy, trong hoa sen có một chữ
Phạn, chính là chữ “hồng” này, chỉ cần hạt giống của câu chú ngữ
này nở hoa, trong lòng tức sẽ hiện hoa sen, chữ phạn phát quang
xông lên đến đỉnh, Liên Hoa đồng tử sẽ có thể nhập vào trong tâm
của chúng ta, ngồi trên đóa hoa sen trong tâm của chúng ta cùng
cảm ứng tương thông với chúng ta. Ngày mệnh chung sẽ vãng sanh
ở Ma Ha Song Liên trì, Liên Hoa đồng tử tịnh thổ, tuyệt không có
chút nghi ngờ nào cả.
Yếu quyết thủ ấn – bản tướng của Liên hoa đồng tử, tay phải để
trước ngực, kết Thuyết pháp ấn, cũng tức là ngón cái tiếp xúc với
36
ngón giữa (ngón cái đè lên ngón giữa), còn lại ngón trỏ, ngón vô
danh và ngón út thì hướng lên tự nhiên, lòng bàn tay hướng ra
ngoài. Còn tay trái thì cầm một đóa hoa sen màu trắng, tay cầm
hoa sen trắng thì ngón cái và ngón trỏ cùng kẹp vào thân đóa hoa
sen. Ngón giữa và ngón vô danh co vào lòng bàn tay, ngón giương
thẳng ra, lòng bàn tay hướng vào trong. Đây chính là thủ ấn Liên
Hoa đồng tử khi tu quán tưởng. Pháp tướng này chính là thuyết
pháp ấn tướng hoa sen trắng. Trong lúc tĩnh tọa cũng kết ấn tướng
này. (Nếu như tay phải chưa kết thuyết pháp ấn thì cũng có thể kết
đại trí ấn).
Người tu trì Liên Hoa đồng tử Kim cương đại pháp nên biết rằng
pháp này chính là đại pháp căn bản của Linh tiên chân Phật tông,
nếu như tu tập bản tôn pháp khác thì cũng phải tu tập thêm pháp
này, không thể bỏ qua được. Tu hành pháp này cần phải phối hợp
với Tọa thiền thông minh pháp ở trang 157, tôn thờ Thượng sư
cảm ứng pháp, cùng tham chứng lẫn nhau. Bây giờ tôi có thể nói
rằng đã hoàn toàn công bố Liên Hoa đồng tử Kim cương đại pháp
ra, không hề che dấu chừa lại gì cả, cảm ứng của pháp này là vô
cùng to lớn.
Khi tôn thờ và cúng dường nhất định phải chiếu theo quy định lễ
pháp tiến hành, Liên Hoa đồng tử ở Ma Ha Song liên trì chính là
pháp thân Bồ tát của Kim Cương thượng sư Lư Thắng Ngạn, chiếu
theo đây mà quán tưởng tu hành thì nhất định sẽ được tương ứng.
Điều này là vô cùng vô cùng quan trọng.
Quy định lễ pháp của Liên Hoa đồng tử Kim cương tương ứng
pháp:
Thứ nhất, Tứ quy y chú: “Nam ma cổ lỗ bối, nam ma bất đạt da.
Nam ma đạt ma da. Nam ma tăng già da”.
Niệm một lần lạy một lần, niệm ba lần lạy ba lần.
Niệm tiếp, quy y đại ân Linh Tiên chân Phật tông tu pháp lịch đại
tổ sư, nguyện chư chúng sinh đắc an lạc. Một lạy.
37
Quy y Ngũ Phật bản tôn và đàn thành. Nguyện chư chúng sinh li
chư khổ. Một lạy.
Quy y thập phương tam thế nhất thiết chư Phật, nguyện chư chúng
sinh thường từ hỉ. Một lạy.
Quy y Tam tạng thập nhị bộ chánh pháp, nguyện chư chúng sinh
xả phân biệt. Một lạy.
Quy y Chánh giác Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng
Sư Lư Thắng Ngạn Liên Sinh tôn giả, nguyện ngã cập lục đạo
chúng sinh sát na đốn chứng vô thượng giác, toàn quy Liên Hoa
đồng tử Phật địa.
Thứ hai, cầu thỉnh Liên Hoa đồng tử giá lâm..
Tự tính Liên Hoa pháp tính thân. Hữu thủ thuyết pháp tả trì liên.
Hóa thân biến mãn thiên vạn cảnh, thiên y bảo sức sa trang nghiêm.
Đắc thừa đạo hiển mật nhất thân. Dung hợp truyền thừa tối thượng
trân. Linh tiên mật pháp chúng sinh đạo. Phổ độ quần sinh nhi vô
dư.
Thứ ba, cúng tế, ngũ cúng bát cúng quán tưởng. Hoặc là niệm cúng
dường chú.
Thứ tư, khoác giáp hộ thân pháp, niệm chú: “Ông ba nhữ lam giả
lợi”. Ấn năm nơi: “Trán, cổ họng, tâm, vai trái, vai phải”. Niệm
chú bảy lần, ấn năm nơi cho mỗi lần. “ấn dùng Kim cương hợp
chưởng cùng với Tam xoa chữ thủ ấn).
Thứ năm, quán tưởng, tưởng niệm hình tướng của Liên Hoa đồng
tử, chiếu theo kinh văn yếu quyết của quán tưởng để thực hiện
quán tưởng, Thượng Sư tức Liên Hoa đồng tử, Liên Hoa đồng tử
tức Thượng sư, cả hai không có gì khác biệt. Khi quán tưởng sử
dụng tọa thế, kết Bạch liên hoa ấn tướng của Liên hoa đồng tử, mỗi
thứ đều rõ ràng, Liên hoa đồng tử an tọa ở Bảo Liên Hoa phát ánh
sáng từ đỉnh đầu dung nhập vào.
Thứ sáu, tụng Thượng sư tâm chú và Liên hoa đồng tử căn bản chú:
“Ông Á Hồng. Cổ Lỗ Bối. Á Ha Tát Sa Ma Cáp. Liên Sinh Tất Địa
38
Hồng”, niệm 108 lần hay có thể ra sức niệm nhiều hơn. Tụng cho
đến khi chủng tử tự “hồng” phát sáng, hoa sen trong lòng nở rộ
hiện ánh sáng, Liên Hoa đồng tử ngồi trên đóa hoa sen ở trong
lòng bản thân. Bản thân cùng Liên Hoa đồng tử hợp nhất lại, nhập
vào Liên Sinh tam ma địa. (Chỗ này là nơi nhập Kim cương tam
muội đại định”.
Thứ bảy, cầu nguyện hồi hướng: “Kỳ cầu Thượng sư gia trì lực, tứ
gia quán đảnh Liên hoa sinh, quảng đại viên mãn đắc tự tại, tự độ
độ tha đáo Phật địa.”
Thứ tám, đại lễ bái Phật, xuất đàn.
Xin quý độc giả và học trò phải đặc biệt chú ý, phàm là tất cả
những ai tu tập Kim cương tu pháp đều phải niệm Tứ quy y, làm
Đại lễ bái, Đại cúng dường, khoác giáp hộ thân. Để tinh giản số
trang sách, về sau khi hành văn, tôi sẽ không nhắc lại nữa, tuy
nhiên tất cả các pháp dù lớn hay nhỏ đều phải thêm vào Tứ quy y,
đại lễ bái, đại cúng dường và khoác giáp hộ thân.
39
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
09. Tự chủ sống chết và hóa thân ánh sáng cầu vồng
Có một vị pháp sư viết thư cho tôi nhưng không dám ký tên, sau
khi viết lan man lăng mạ tôi, sau cùng còn chúc tôi rằng: “mau đi
chết đi!”. Bức thư này làm cho tôi rất phấn khởi, thì ra là văn
chương của tôi lại có thể tạo ra phản ứng mãnh liệt thế, làm cho
một số tăng lữ giả tu hành không thể nào chịu nổi, phải gấp rút viết
ngay một lá thư để chỉ trích tôi, mang đến cho tôi một ít linh cảm
để viết văn chương, nhân đây tôi cũng gửi đến vị pháp sư đó niềm
cảm kích vô hạn của tôi.
“Mau đi chết đi!”, đúng vậy, tôi nhất định sẽ đi chết một cách viên
mãn, hãy yên tâm đi, tôi nhất định sẽ chết mà, đừng gấp, đừng nôn
nóng, xin những người nào còn chưa yên tâm hãy cứ từ từ mà chờ
đợi!
Người tu hành Kim cương pháp thì trước sau gì cũng phải chết, bởi
lẽ nhục thể chỉ là lớp vỏ hôi thối do tứ đại giả hợp lại thành, người
tu tập Kim cương pháp, tâm linh của họ sẽ ngày càng tinh tế,
những thô tục của nhục thể sẽ không thể nào bao đậy được “tâm
linh tinh tế” kia, cho nên tâm linh vĩ đại ấy sẽ thoát ra phóng thẳng
lên trời, hóa thành một đạo ánh sáng cầu vồng, kiểu chết này chúng
ta gọi là “cái chết vĩ đại”, cái chết trong tương lai của người viết
chính là loại này đây, ý thức chí thượng của vũ trụ tiếp cận với tôi,
tôi sẽ hóa thành một đạo cầu vồng, độn nhập vào trong ý thức chí
thượng của vũ trụ, dung hợp lại thành một. Tôi với Phật chẳng có
gì khác biệt, đều đắc chứng được sự vui vẻ vĩnh hằng.
Đương nhiên, tôi vì chúng sinh trong thiên hạ có thể chọn lựa sự
trở lại, do đó đạo ánh sáng cầu vồng này lại đầu thai làm người,
chuyển thế lại và trở thành Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương
Thượng Sư Lư Thắng Ngạn đời thứ hai, đến lúc ấy hy vọng rằng
những kẻ xuẩn ngốc giả tu hành kia vẫn còn nhận ra được chân
diện của tôi, để rồi lại kêu chí chóe lên, lại bảo tôi “nhanh nhanh đi
40
chết đi”. Thật ra những người mật tu như chúng tôi sớm đã đắc
được hóa thân ánh cầu vồng, sớm đã tự chủ được sống chết, đây
chính là cái chết vĩ đại của chúng tôi.
Theo nghiên cứu của giới y học, những người bình thường khi chết
không phải toàn bộ đều tiêu tan trong phút chốc, chỉ là sự chết đi
của một nhóm thần kinh, cơ quan chết đi đầu tiên chính là cơ quan
hô hấp, cùng với hệ thống điều khiển bài tiết, kế đến là cổ họng –
cơ quan phát âm bị chết đi, tiếng ọt ọt trong cổ họng của người
chết bị ngộ nhận là hiện tượng đứt hơi. Tiếp đó là hệ thống tuần
hoàn huyết mạch bị chết đi. Sau đó là đến nhóm thần kinh co giãn
tứ chi, sau cùng là hệ thống thần kinh thụy giác và thần kinh mệt
mõi buồn ngủ. Những người bình thường khi chết đi thì năng
lượng vốn có trong cơ thể của họ sẽ bị phân tán và chia cắt. Người
không có tu hành thì sẽ căn cứ theo nhân quả nghiệp báo và duyên
phận để tiến nhập vào thế giới ở cấp trung và cấp thấp, những
người bình thường không có tu hành đều có những người đi trước
đã chết đến tiếp dẫn họ.
Tuy nhiên, đối với người tu hành thì tinh thần của họ lại rất khác
biệt, năng lượng sinh mệnh của họ tập trung lại chứ không bị phân
tán ra, sở dĩ năng lượng sinh mệnh có thể tập trung lại là do tọa
thiền thông minh khi tu hành mà có được, năng lượng sinh mệnh
tập trung lại thì có thể phát ra ánh sáng, đây chính là nhất đại yếu
chỉ của Minh tâm kiến tánh tọa thiền thông minh pháp, năng lượng
sinh mệnh hóa thành một đạo ánh sáng cầu vồng, chỉ trong một sát
na đã vứt bỏ đi vỏ thể xác, tự động hòa nhập vào trong biển đại ý
thức của vũ trụ. Người tu định lúc bình thường sớm đã thường
nhập vào tam ma định, nên lúc chết đi cũng nhanh chóng quen
thuộc đường lối, một khi nhập vào cảnh giới này thì đây chính là
Vô dư niết bàn.
Lực lượng tâm linh tinh tế của người tu hành khi muốn rời bỏ xác
thân thô tục là hoàn toàn có thể tự chủ, đây chính là một phần của
“dự tri”, có thể tự động rời bỏ được như thế chính là có thể “tự chủ
được sống chết”. Còn về mỗi khi tọa thiền tu định, Phật Bồ tát và
41
tự tính thường hòa nhập với nhau thì nhất định thân hình sẽ phát ra
ánh sáng, muốn hóa thành đạo ánh sáng cầu vồng thì có gì khó chứ?
Lực lượng của tâm linh có thể phân biệt đơn giản như sau:
Một, đạo nhân (ánh sáng trắng) – hóa thân thành ánh sáng cầu
vồng, tự chủ được sống chết.
Hai, thiện nhân (ánh sáng đỏ) – thăng lên thế giới quang minh, tục
gọi là thiên đường, hưởng thụ quả phúc báo.
Ba, ác nhân (hắc khí) – giáng xuống thế giới hắc ám, tục gọi là địa
ngục, tâm linh gánh chịu quả khổ báo ứng.
Tôi đã từng nói qua, có tu hành, không có tu hành, là người thiện,
là kẻ ác, có thể qua mặt được phàm phu tục thế nhưng không thể
nào qua mặt được mắt của quỷ thần, càng không thể qua mặt được
bản thân. Chúng ta nếu muốn tu hành chân chính, không phải tu
hành một cách mơ mơ hồ hồ, không hồ đồ lẫn lộn thị phi, không để
thanh tịnh thấm nhiễm ô trọc thì phải dũng mãnh tinh tiến, không
được tán loạn.
Phổ Hiền Bồ tát có kệ nói rằng: “Thị nhật dĩ quá, mệnh diệc tùy
diệt, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc?” Bóng dáng “tử vong” sẽ
đến rất nhanh chóng, có một số người cho rằng bản thân rất thông
minh, hoàn toàn chỉ là đang tự gạt bản thân. Thật ra bản thân có tu
hành đắc chứng được hay không cũng giống như uống nước vậy,
nóng lạnh chỉ có mình biết thôi.
Có rất nhiều người cho rằng lạy Phật thì chính là tu hành, quan
niệm này tựa hồ như phải mà cũng không phải, lạy Phật chỉ là bề
mặt của tu hành, chỉ là một phương pháp bên ngoài. Mật pháp chân
chính là tu luyện tâm linh, tức là từ lạy Phật ở hình thức bên ngoài
tiến nhập đến tu luyện tâm linh, đây chính là một loại bí mật pháp
của thân thể, tâm, linh, bí mật pháp này là khởi động lực lượng của
tâm linh, nâng cao năng lượng, nương nhờ vào sự khởi động của
Thiền định hợp nhất, thêm vào Phạn chú phối hợp với hô hấp cùng
cộng hưởng, dùng tần số sóng não của bản thân chiếu rọi vào tần
số ý thức của vũ trụ, đây mới gọi là phương pháp tu luyện chân
42
chính và đây cũng là điều quan trọng hàng đầu của Linh Tiên Kim
Cương đại pháp.
Kỳ thực tôi chính là người đã hợp nhất lại được cả ba thứ: Phạn
chú, hồng quang, lý niệm. Điều này chứng minh rằng đã chứng đắc
được, niềm vui trong lòng của tôi là vô cùng tận, tôi có được
phương pháp tu luyện thực tế, tôi sẽ giúp cho nhiều người tiến
nhập vào cảnh giới cao hơn, giúp họ đi trên con đường tu đạo chân
chính, tôi chính là bậc Thượng sư linh tính chân chính.
Hiện nay, tôi là người biết được đích xác vũ trụ chí đạo, hơn nữa
đã hợp nhất với vũ trụ chí đạo, chí đạo của vũ trụ đều thuộc về tôi,
tôi cũng tức là vũ trụ chí đạo. Tôi cũng tin chắc rằng chúng sinh
đều có Phật duyên, vũ trụ chí đạo cũng sẽ thuộc về bất kỳ người
nào, cho nên tôi muốn truyền bá Linh Tiên Kim Cương đại pháp
này khắp toàn thế giới.
Tôi sẽ “chết đi”, nhưng sự chết ở đây là một sự chết vĩ đại, sự chết
hóa thân thành ánh cầu vồng, cái chết tự chủ được sống chết, là
Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư Lư Thắng Ngạn
đời thứ hai sẽ lại tái sinh, mãi cho đến khi chúng sinh hợp nhất với
vũ trụ chí đạo, cho đến khi tâm nguyện phổ độ chúng sinh được
hoàn thành thì mới kết thúc, đây cũng chính là Đại nguyện lực của
Liên Hoa đồng tử.
43
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
10. Mật tích kim cương tương ứng – Một trong năm đại Kim
cương pháp
Bồ Tát Ưu Bà Tắc Kinh Giới Bổn, khinh giới điều thứ tám là Bất
vãng thính pháp giới. Điều giới này nói, nếu như có Pháp sư ở gần
bên giảng kinh thuyết pháp, phàm là giới đệ tử đều phải đến phía
trước nghe kinh. Nếu như không có lý do đặc biệt mà cố ý không
đi nghe kinh thuyết pháp thì đã phạm vào giới luật điều thứ 8 này.
Cho nên bất vãng thính pháp cũng là đã phạm giới vậy.
Tôi nhớ rằng khi Phật đà còn ở thế gian, ở bên bờ Bạt Đề Hà, dưới
hai cây Sa La đang chuẩn bị nhập Niết bàn, trong lúc thuyết pháp
có một vị Đại Phạm Đại vương gọi là Loa Kế Phạm vương ở trên
thượng giới cùng vui đùa với các tiên nữ, chẳng những không đến
nghe thuyết pháp mà cũng chẳng thăm hỏi Phật đà. Lúc này có
mấy vị tôn giả liền niệm động chân ngôn mời một số tiểu chú thần
tiên đi dẫn Phạm vương đến, nhưng Phạm vương lại sử dụng Uế
pháp vây khổn tất cả các tiểu chú Thần tiên đến mời lại. Ngoài ra
còn có Kim cương thần đi bắt Phạm vương cũng bị Phạm vương
dùng uế khí để vây hãm. Trải qua 7 ngày, Loa Kế Phạm vương
không hề đến gặp Phật đà. Loa Kế Phạm vương đã có ý xem
thường Phật đà.
Đến lúc này Phật mới dùng Căn bản trí phát ra Thường lạc tịch
quang, nương theo ánh sáng xoay sang trái, trong tâm liền hóa ra
một vị Kim cương thần, vị Kim Cương thần tôn xưng là Mật tích
lực sĩ đại quyền thần vương, nhưng lại do phá đi uế khí nên còn có
tên gọi là Uế Tích Kim Cương, vị Kim cương thần này chính là
Kim cương hóa thân của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Vị Mật tích Kim cương này liền lăng không bay lên thiên cung của
Loa Kế Phạm vương, khẽ chỉ vào uế khí thì uế khí liền thành đất,
sau đó giải thoát cho tất cả Tiểu chú thần tiên và các vị Kim cương
thần khác, chỉ qua vài lượt là đã chế phục được Loa Kế Phạm
44
Vương rồi dẫn đến trước mặt Phật đà, Đại Phạm Thiên vương hối
hận những lỗi lầm đã qua liền phát tâm tu tập Phật pháp, hộ trì
Phật pháp. Đây chính là một đoạn tích xưa của Phật Thích ca Mâu
ni hóa thân thành Uế Tích Kim cương.
Uế Tích Kim cương ngày nay lại được người ta vẽ thành hình dạng
một đầu hai tay phi thân đằng không. Lại cũng có người vẽ thành
ba mặt, tám cánh tay, chín con mắt, thân hình có màu xanh đen, tóc
đỏ dựng đứng, trên tám cánh tay đều có tám con rồng quấn lấy.
Trong một tay thứ nhất bên phải có Khai Sơn Ấn, tay thứ hai có
Kim cương chử, tay thứ ba lại cầm Bảo linh, tay thứ tư là Bảo Ấn
Kích. Tay thứ nhất bên trái là Nhiếp ấn, tay thứ hai là Hỏa luân,
tay thứ ba là Quyên sách, tay thứ tư cầm Bảo kiếm. Chân trái đạp
trên một ngọn núi lớn, chân phải giơ lên trong không trung, trông
dáng vẻ như đang muốn đằng không. Toàn thân đều phát ra ánh
sáng, khuôn mặt tràn đầy vẻ phẫn nộ. Nếu như muốn tu pháp quán
tưởng hình đồ thì nhất thiết phải chiếu theo những chuẩn tắc tôi đã
viết thì tu hành Mật tích lực vương đại quyền thần vương uế tích
Kim cương pháp mới có được tương ứng, nhanh chóng trở thành
Phật, được Phật Bồ tát truyền ký. Nếu như xảy ra thiên tai như sấm
chớp, độc long, bão táp, mưa sa, mưa đá… thì người tu hành pháp
tương ứng chi cần niệm chân ngôn, dùng ấn chỉ ra xa thì ngừng lại
ngay. Nếu như có người bệnh gần chết, tay kết Cấm ngũ lộ ấn
(ngón vô danh của tay trái và tay phải gập vào lòng bàn tay, tám
ngón còn lại đều duỗi thẳng ra), hai tay đặt trên tim của bệnh nhân,
miệng niệm Uế tích kim cương chân ngôn thì có thể giữ được hồn
phách không rời khỏi thân thể, tạm thời giữ được mạng lại.
Trị tà bệnh có thể thắp nhang ở cạnh đầu người bệnh, tụng Uế tích
Kim cương chân ngôn, lập tức có thể tiêu trừ.
Tu Mật tích kim cương pháp tương ứng có thể trị cổ độc, phá bỏ
tất cả uế khí, lập pháp giới, quỷ không thể tán nhập vào, thậm chí
còn có sai khiến được cả quỷ thần, làm cho cây khô sinh chồi, suối
khô chảy nước, núi trọc mọc cây, dã thú theo thuần phục, dạ xoa la
sát trở thành thị vệ của hành giả, ác quỷ không dám khi phạm, cầu
xin tất cả đều có thể cát tường như ý, tất cả đều có thể làm được.
45
Hành giả tu tập Uế tích Kim cương pháp phải dùng gỗ trầm hương
điêu khắc thành một cây Kim cương chử, nửa phần trên của Kim
cương chử đặt hình mặt người, nửa phần dưới cũng đặt hình mặt
người, đặt Kim cương chử vào trong tháp Phật, cúng dường tu
pháp. Mật tích Kim cương chú phải niệm đến 300 ngàn lần, sau đó
vào đêm trăng tròn, tức ngày 15 âm lịch lấy Kim cương chử ra,
dùng thau sạch sẽ đựng đầy nước sạch, bỏ Kim cương chử vào
trong, dâng cúng những vật thực tốt nhất, sau đó niệm chú suốt cả
đêm, lúc này có thể nhìn thấy Kim cương chử và nước lấp lánh
phát sáng, hay là Kim cương chử bắt đầu biến hóa thành các vật
dụng khác, lúc này không nên sợ hãi, phải tiếp tục niệm chú, niệm
cho đến khi Kim cương chử bay ra khỏi mặt nước, cách mặt nước
3 thước hay 5 thước, 7 thước cho đến một trượng, lúc này người tu
tập Mật tích Kim cương pháp phải lập tức quy y sám hối, phát bồ
đề tâm, cầu tất cả đều được như ý, hành tất cả pháp đều đạt thành
tựu, còn phải phát nguyện độ hóa chúng sinh, nếu như Kim cương
chử bay lên cũng tức là tu pháp đã tương ứng, thật đáng mừng thay,
có hy vọng thành Phật, nhất định sẽ thành tựu.
Tôi đặc biệt dạy cho những ai tu tập Mật tích Kim cương đại pháp
này 3 đại yếu quyết sau:
Thứ nhất, lúc bình thường tu pháp, phàm khi niệm chân ngôn chú,
trước hết niệm Nam Vô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Vô
Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Vô Mật Tích Kim Cương
Đại Quyền Thần Vương Phật. Mỗi vị niệm mười tiếng, sau đó mới
niệm chân ngôn: “Ông. Phật thiệt khuất luật. Ma ha bàn la. Ngận
đán đắc. Vẫn trấp vẫn. Ngọc ma ni. Vi cát vi. Ma đán tê. Ông
chước cấp na. Ô thâm mộ. Khuất luật. Hồng hồng hồng. Phán phán
phán. Phán phán sa ha”, rồi tiếp đó niệm Uế tích chú: “Ông, bồ nhĩ
công, Vi ma na tất, ô cứu ma la đặc hồng, hồng, ba, ba, sa hạ”.
Thứ hai, sử dụng ấn tướng, khi quán tưởng, ấn tướng thứ nhất,
trước hết quán tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật giá lâm, ấn tướng của
Thích Ca Mâu Ni Phật là ngón tay cái, ngón giữa, ngón út, 3 ngón
này đều dựng đứng, tiếp xúc lẫn nhau, ngón trỏ và ngón vô danh
gấp lại vào trong lòng bàn tay, hai tay hợp lại đặt trước ngực. Ấn
46
tướng thứ hai là quán tưởng Mật tích kim cương, ấn tướng lúc này
là Năng thôi phục ấn, tay trái giữ chặt góc áo cà sa, năm ngón của
tay phải giương dài ra, ấn chặt lên mặt đất, đây chính là Năng thôi
phục ấn của Mật tích kim cương.
Thứ ba, yếu quyết quán tưởng, trước hết phải quán tưởng tâm tế
của Thích Ca Mâu Ni Phật, phóng ra ánh sáng màu xanh hướng lên
trên chính giữa đỉnh, đạo ánh sáng xanh này hóa thành Mật Tích
Kim cương Đại Quyền Thần Vương có 3 mặt, 8 tay, 9 mắt. Dung
mạo của vị này như sau: tóc màu đỏ, toàn thân màu lam, cánh tay
màu đen, mặt màu xanh, với tướng mạo giận dữ. Vị Mật Tích Kim
Cương Đại quyền Thần vương này đứng giữa không trung. Lúc
này chữ Hồng trong tâm sẽ phát ra ánh sáng màu xanh lam, tương
ứng với đạo ánh sáng xanh rất lâu. Sau khi quán tưởng xong thì
niệm chú ngữ chân ngôn.
Người tu tập pháp này lúc bình thường tu pháp cũng cần phải “tứ
quy y”, “đại lễ bái”, “đại cúng dường”, “khoác giáp hộ thân”, về
điểm này nhất định không được quên. Trì chú 300 ngàn lần, sẽ
tương ứng vào đêm trăng tròn, nếu như tương ứng thì sẽ thành Phật
rất nhanh.
Pháp này rất to lớn, là một trong ngũ đại Kim cương pháp, người
tu tập phải quy y quán đảnh, ngoài ra còn cần có Thượng sư giảng
giải tu pháp thì mới tránh khỏi bị sai lầm.
Hôm nay, tôi đã viết ra diệu pháp Nhất thừa này cũng giống như
năm xưa Long Thọ Bồ tát nhập Long cung cũng đem Đại Phương
Quảng Hoa Ngôn kinh đọc ra vậy. Những người bình thường như
chúng ta đều biết rằng Thiên đài giáo có Tạng Thông Biệt Viên tứ
giáo, Tạng chia ra Thanh văn tạng, rồi lại chia ra Bồ tát tạng, là
pháp của thập nhị nhân duyên và lục độ vạn pháp, giáo của tam
tạng này là những người tiểu thừa tu luyện. Còn Thông giáo là tiền
thông với tạng giáo, hậu thông với Biệt giáo, Biệt giáo là giáo đặc
biệt.
Tuy nhiên, pháp tôi viết ra ngày nay đã dần dần từ bỏ Tạng, Thông,
Biệt, mà đã tiến nhập vào cảnh giới Viên giáo, đây chính là Nhất
47
thừa thực giáo Ngũ đại Kim cương mật pháp, sơ phát tâm đã trở
thành chánh giác. Ngũ đại Kim cương pháp Viên giáo này là pháp
môn viên mãn nhất, vô thượng nhất, hoàn toàn viên dung cao thâm,
đã quy tụ tất cả Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát tam thừa vào Nhất
Phật thừa.
Mật Tích Kim Cương Đại Quyền Thần Vương Phật chính là ứng
hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, đây chính là cảnh giới không thể
nói do Thích Ca Mâu Ni Phật ứng nhất tâm hóa hiện, là Kim
Cương nhất thừa tối thù thắng. Tôi biết rằng pháp môn này là pháp
môn Nhất thừa huyền diệu, cho nên thập phương chư Phật đều cần
phải chứng đắc cảnh giới cao thâm này, đây gọi là chư Phật tề
chứng.
Sách tôi viết ra, đạo pháp tôi kể ra ngày càng cao thâm, ngày càng
to lớn, đây chính là đại nguyện lực của tôi, tôi nguyện cho chúng
sinh pháp giới đều có thể nghe được diệu pháp Kim cương nhất
thừa này, chỉ mong rằng những người nghe thấy đều phát bồ đề
tâm.
Tôi đặc biệt viết một bài kệ cho chương Mật tích Kim cương tương
ứng này như sau:
Thị đại Kim cương hiện thập phương
Hóa giải tai dị trình cát tường
Uế ô trừ tận tự phóng quang
Nhất thiết tà ma mật tích đang.
Thứ hai:
Thích ca Phật tâm hiện Kim cương
Nhất thừa diệu pháp ma nan đương
Đại Phạm Thiên vương tề hợp chưởng
Vạn gia Phật quang chúng sinh an.
48
Có một số người cho rằng linh thư của Lư Thắng Ngạn đại khái
cũng chẳng còn gì để mà khoe khoang nữa, thế nhưng họ không
hiểu rằng sau khi tôi đắc chứng mật pháp, “tự tính như hư không,
chân vọng tại kỳ trung, khuếch triệt bản lai thể, nhất thông nhất
thiết thông”. Từ sau khi tôi khai ngộ đã hiểu rõ mọi chuyện, đạo lý
sự việc trùng trùng vô tận, Phật pháp hư không vô bờ bến, tất cả
đều ở trong tâm tôi, tôi đã minh tâm kiến tánh như thế này thì
những kẻ tăng lữ tiểu thừa há có thể suy đoán được.
(Với Mật Tích Kim cương đại pháp này, người tu hành phải quy y
quán đảnh, do Thượng sư chỉ dẫn)
49
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
11. Phạn âm chính là âm tự tại
Tôi đã từng viết một chương “Lắng nghe âm nội tại – Đại trí tuệ
thứ ba” trong tác phẩm Thế giới mắt thứ 3. Tôi viết rằng: Cấu tạo
bên trong cơ thể con người là vô cùng kỳ diệu, cơ thể người có rất
nhiều âm thanh, ngoại trừ âm thanh do nhịp tim máy động, tiếng
rột rẹt của bụng và ruột, âm thanh của huyết dịch khi chảy, tiếng
hô hấp, âm thanh của bao tử, của thận, phổi… nên biết rằng các
bác sỹ khi dùng ống nghe thì sẽ biết được nơi nào có vấn đề khác
lạ, từ đó sẽ kê toa trị bệnh, những âm thanh nội tại này chính là
nghe âm chẩn bệnh của các bác sỹ trị bệnh”.
Tôi còn viết: “Người học tập tĩnh tọa trước hết phải phải bắt đầu từ
việc nghe âm nội tại, đến khi đạt đến cực tĩnh thì có thể nghe được
các âm thanh của huyết dịch chuyển động trong cơ thể, nghe được
tiếng tim đập và nhịp hô hấp. Đáng mừng hơn cả là nghe thấy tiếng
“nội hô hấp” của bản thân, việc khó khăn nhất chính là nghe âm
rung chấn của sóng não bản thân, tần số của sóng não, phát xạ và
hấp thụ của sóng não. Tôi có thể nói rõ ra rằng nếu biết được phát
xạ và hấp thu của sóng não thì tức đã nghe được âm nội tại”.
Tôi cần nói cho quý độc giả biết một điều rằng chú ngữ của tất cả
mật pháp cũng chính là kết quả của việc Phật Bồ tát nghe được âm
nội tại, nghe ra được loại sóng âm kỳ diệu này, để rồi sau đó biết
được rằng những sóng âm này có thể cảm ứng với “năng lượng” ở
bên trong cơ thể, âm thanh của những loại sóng rung động đặc biệt
này cũng chính là Phạn chú của Phạn âm.
Có học sinh hỏi tôi rằng: “Tu mật pháp vì sao phải niệm chú?”
“Những sóng rung động đặc biệt này vốn là đến từ âm thanh ý thức
ở bên trong cơ thể, khi chúng ta niệm chú, ý thức trong cơ thể và
âm thanh của chúng ta sẽ hô ứng cùng nhau, sản sinh ra năng
lượng, mà năng lượng của tự tính biến hóa rất tinh diệu nhưng rất
50
có quy luật, tiếp tục hô ứng với năng lượng trong vũ trụ. Điều này
chính là tương ứng hợp nhất của sóng âm, âm nội tại và vũ trụ”.
Tôi cũng có nói rằng: “Thượng sư là người biết chân lý của Phạn
chú, truyền một câu chú ngữ cho học trò là nhờ vào Phạn chú để
nâng cao năng lực ý thức của học trò”.
Bản thân tôi biết tất cả các mật pháp, khi hành giả tu hành tập
trung ý thức hướng vào nội tại thì có thể nghe thấy được gần 50
loại âm thanh, 50 loại âm thanh này chính là âm căn bản của Phạn
âm, khi chúng ta tụng niệm những âm thanh này thì về phương
diện tâm linh cũng có hiệu quả rung động, thế là “điện báo” sẽ
phóng vào trong vũ trụ, vị Bồ tát nào liên quan đến Phạn âm trong
vũ trụ sẽ cùng tương ứng với hành giả tụng niệm, đây chính là mục
đích chân chính của việc tụng niệm chú ngữ. Nói một cách nghiêm
túc rằng chú ngữ chính là một cái chìa khóa để tiếp xúc với bản
thức vũ trụ, nó chính là sóng âm trực tiếp kêu gọi chư Phật Bồ tát.
Mật tông căn cứ vào Phạn chú để tu tập cho nên Mật tông còn gọi
là Chân ngôn tông.
Niệm chú nhất định phải phát âm mỹ diệu và thích hợp, phải sinh
động hoạt bát, có sức mạnh. Tối kỵ việc niệm chú nhưng tinh thần
không tập trung, nếu như lúc niệm chú mà không có tinh thần thì
câu chú này nhất định sẽ vô hiệu, có một số người niệm chú theo
kiểu máy móc, tu tập như thế cũng chẳng có hiệu quả gì. Cần phải
cảm ứng được hiệu lực của chú, dùng tâm để niệm, niệm đến “chú
tử khai hoa”, niệm nhập vào trong bản thức của vũ trụ, chân thành
khẩn thiết kêu gọi chư Phật Bồ tát thì chư Phật Bồ tát nhất định sẽ
quang lâm đàn tràng, bởi vì nếu như chú ngữ nếu như nhập vào
bản thức thì tất sẽ cùng cảm ứng với bản thức vũ trụ.
Sau khi tôi biết được tất cả mật pháp, biết được tụng niệm chú ngữ
có 4 hình thức:
Thứ nhất, tụng niệm phát ra âm thanh.
Thứ hai, tụng niệm Kim cương, miệng ngậm lại, chỉ có đầu lưỡi
chuyển động.
51
Thứ ba, tụng niệm Tam ma địa, đây là cách tụng niệm tâm chuyển
chú ngữ.
Thứ tư, tụng niệm chân thực, hoàn toàn hiểu rõ được ý nghĩa thực
tại của chú ngữ, biết được nghĩa chữ của Phạn chú, phương pháp
chuyển chú luân. Người viết đã tu tập đến mức niệm chú chân thực.
Theo như tôi biết, mật tông pháp dựa vào lực cầu nguyện nên âm
cuối chú âm của họ cũng có khác biệt. Âm thanh niệm chú cũng
khác nhau, xin hãy chú ý tôi sẽ kể ra như sau:
Niệm chú để tiêu tai, âm thanh rõ ràng hòa hoãn, câu chữ đều đặn,
rất có âm vị, chú âm cuối cùng là “sa bà ha” (Svaha).
Niệm chú để tăng ích, âm thanh không lớn không nhỏ, thích hợp
vừa phải, từng câu từng chữ như dao sắc, nhanh gọn dứt khoát, chú
âm cuối cùng là “hồng”. (Hum)
Niệm chú để kính ái, âm thanh mềm mỏng nhưng nhanh gọn,
không được thưa thớt, chú âm cuối cùng là “nhược”.
Niệm chú để hàng phục, âm thanh phải rõ ràng có sức, phẫn nộ
giận dữ, âm lớn nhưng phải có uy nghiêm, khiến cho quần ma khi
nghe thấy phải kinh hãi, phát ra sư tử hống, âm cuối là “hồng”
hoặc là “phán” hoặc là “trá”. (Hum Phat)
Chú ngữ của mật giáo (Phạn âm) đương nhiên không chỉ có tiêu tai,
tăng ích, kính ái, hàng phục…những chuyện này thôi, cũng không
phải chỉ là thế pháp để cầu tài, chữa bệnh. Trong Phạn chú này có
rất nhiều diệu pháp vô thượng đã ra ngoài thế gian. Người viết tu
học mật thừa, trong lúc nhập định đã được Hồng giáo Liên Hoa
Sinh Đại sĩ truyền cho Hồng giáo mật pháp. Hoàng Giáo thì được
Thổ Đăng phái lạt ma truyền Thổ Đăng Cát Đạt Thượng sư, lại
truyền cho Thổ Đăng Kỳ Ma và Thổ Đăng Kỳ Ma cũng chính là
pháp danh Hoàng giáo của tôi. Bạch giáo do Thập Lục Thế Đại
Bảo Pháp vương truyền cho Viên Mãn Bí mật Ngũ Phật trí quán
đảnh. Hoa giáo do Tát Ba Chứng Không Kim cương truyền cho
Thời Luân Kim cương pháp.
52
Còn về Đường Mật, theo như Tỳ Lô Già Na Phật nói, Kim Cương
Thủ Bổ Tát đắc được tối thượng nghĩa, về sau truyền cho Long
Mãnh Bồ Tát, rồi truyền cho Long Trí Bồ Tát, Long Trí Bồ Tát lại
truyền cho Kim Cương Trí, Kim Cương Trí đến Trung Quốc (thời
Đường Khai Nguyên) nên có tên gọi là Đường Mật. Về sau Kim
Cương Trí truyền cho Bất Không, Bất Không truyền cho Tuệ Lãng,
đến triều Nguyên thì suy tàn.
Truyền thừa của tôi quả là rất phong phú đặc sắc, đây chính là
nguyên nhân tôi ra sức tìm hiểu kiến văn quảng bác, nhưng tôi vẫn
chú trọng việc tham học thực tu, do vậy mới tập hợp được đại
thành như thế. Không những đắc được cảm ứng lực, xác thật là có
pháp lực tương ứng, lại còn nghiên cứu thêm bí mật học thuyết của
các tông phái, từ trong các pháp tinh diệu kia từ sinh ra pháp tướng
bản tôn cho mình, dùng Bản tôn Kim cương pháp hòa hợp với Kim
cương đại pháp, chứng minh Phật pháp mật thừa là cao thâm vô kể.
Linh Tiên Kim Cương Đại Pháp này chính là mạch của Mật tông
đại giáo, là học thuật nhất thừa tuệ mệnh của Phật.
53
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
12. Bát phương hủy báng bất động tôn – Bất Động Minh
Vương Kim Cương pháp
Có một học trò người Đài Loan đến Hoa Kỳ để theo học mật pháp,
nói với tôi rằng: “Thượng sư đã có danh tiếng rất lớn trên thế giới,
có rất nhiều người tu đạo đều lớn tiếng phẫn nộ, có người chửi
Thượng sư tham tài, có người mắng Thượng sư là kẻ lừa gạt, cũng
có người chửi Thượng sư là giả truyền thừa, có người mắng
Thượng sư là phường giả dạng thần thánh, lại cũng có người nói
Thượng sư là Đại Thiên Ma.”
Tôi khẽ cười: “Anh có thể nói cho tôi biết là ai chửi tôi chăng?”
“Có một vị Quảng Định Pháp sư chửi Thượng sư là Đại Thiên ma.”
“Quảng Định Pháp sư, à, đó là một vị Thượng sư Mật pháp, tự
xưng là Đại Phúc Tạng Trí Tuệ Kiếm, cùng với một vài vị Nhân
Ba Thiết có qua lại với nhau. Tuy nhiên, Quảng Định Pháp sư từ
trước đến giờ đều tự nhận là chánh tông, có được truyền thừa chân
chính, ông ấy có thói quen thích nói người khác là ma, tôi bị
Quảng Định Pháp sư phỉ báng là ma thì cũng chẳng có gì lạ cả.
Tuy nhiên, thành thật mà nói, nếu luận về bối phận thì Quảng Định
Pháp sư chỉ là đồ tôn của tôi mà thôi, anh còn là sư thúc của ông ta
nữa đó! Tôi hôm nay có thể nói như thế, nếu nói về bối phận thì
Quảng Định Pháp sư là đồ tôn của Lư Thượng sư này, tất cả đệ tử
của Linh Tiên Chân Phật tông đều là sư thúc, sư bá của Quảng
Định Pháp sư. Trong mắt của Quảng Định Pháp sư có sự tồn tại
của Đại Thiên Ma là tôi đây, còn trong mắt tôi đây thì quả thật rất
xem thường vị đồ tôn này, dường như là truyền pháp đã quá lâu rồi
mà chẳng có việc gì to tát cả, làm cho cả một vị tổ sư như tôi cũng
chẳng còn nhận ra nữa.”
“Vẫn còn ai mắng tôi nữa?”
54
“Có một vị Trình Linh Phàm, tự xưng là đệ tử mấy đời của Côn
Luân phái, viết sách phỉ báng Thượng sư chỉ biết xuyên tạc Vạn
Pháp Quy Tông thôi.”
“Trình Linh Phàm, người này tôi không biết, ắt hẳn chỉ là hậu sinh
tiểu bối mà thôi, loại sách Vạn Pháp Quy Tông bán đầy ở ngoài
đường, ai cũng có thể mua về xem, vốn dĩ không cần phải xuyên
tạc. Nếu muốn xuyên tạc thì cũng phải tìm ai đó không biết, giống
như là Hắc giáo, Thanh giáo, Tử giáo…, nói chung người ta càng
không biết càng dễ xuyên tạc, sách về Vạn Pháp Quy Tông người
người đều có, cũng không phải tất cả đều mù cả thì có thể xuyên
tạc vào đâu chứ. Tên tiểu tử ngốc Trình Linh Phàm này chả cần
phải để ý làm gì, ngay cả điểm logic đơn giản này mà cũng không
hiểu thì đủ biết trình độ tu đạo của hắn quá thấp kém rồi, chỉ là ếch
ngồi đáy giếng, trình độ chỉ lớp mầm non mà thôi, những người
này vô tri đến tội nghiệp. Chúng ta hãy xem như không có người
này, còn như tự xưng là đệ tử của Côn Luân phái thì Côn Luân
phái có đệ tử như thế cũng xem như là bị xúi quẩy đến cả tám đời
rồi.”
“Còn nữa không?”
“Còn một vị là Liễu Vô Cư sĩ ở Cao Hùng, ông ấy mắng Thượng
Sư là một kẻ lừa gạt.”
“Liễu Vô Cư sĩ, à là vị Toán mệnh tiên muốn mượn việc chửi
mắng tôi để trở nên nổi tiếng đây mà, đứng trên lập trường đồng
tình với ông ta thì tôi nên ủng hộ ông ta, tuy nhiên tôi đã xem qua
lý luận chữ nghĩa của ông ta thì nhận thấy trình độ chưa tương
xứng, tôi nếu như muốn đồng tình với ông ta thì cũng cần phải
xem lại vì lý luận của ông ấy mới chính thật là gạt người, chỉ dùng
những thủ pháp quái chiêu để đặt tên, đây chỉ là trò chơi con số
của người giang hồ mà thôi, tôi thấy rằng Liễu Vô Cư Sĩ mới chính
thật là kẻ lừa gạt, không cần tôi tố giác đâu đã có một vị chuyên
gia đặt tên là Trần Bằng Nhân ở Đài Bắc sớm đã vạch mặt ông ta
rồi.
“Ngoài ra hãy còn có ai nữa?”
55
“Còn có một vị là Từ Cẩm Thành cùng với con trai của anh trai Từ
Cẩm Thành gọi là Từ Hạo Thành, hai chú cháu bảo bối này đều
nói là bản thân đã chém Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh và cũng nói
là chém luôn cả Thượng sư rồi.”
“Cái này tôi cũng có nghe qua, Từ Cẩm Thành và Từ Hạo Thành
đều nói là lớn lên nhờ uống nước sữa của Dao Trì Kim Mẫu, cũng
tự xưng là con của Dao Trì Kim Mẫu, cả hai chú cháu này đều
thích làm con của người ta, bất kỳ người nào cũng có thể thu nhận
họ làm con cả, thế nhưng hai đứa con này thật chẳng nên thân, còn
dám nói là đã chém được Tam Sơn Cửu Hầu Tiên sinh. Tam Sơn
Cửu Hầu Tiên sinh dựa vào Tam Huyền Cửu Yếu để đắc đạo, về
sau truyền lại cho Tam Tổ, Ngũ Lão, thế mà con trai của Dao Trì
Kim Mẫu lại dám chém cả bậc Chí tôn của đạo giáo. Câu chuyện
này dựng lên chưa đủ hấp dẫn rồi! Thứ mà bọn họ chơi chỉ là một
trò náo nhiệt thôi, Từ Cẩm Thành cũng chỉ là một đại thần côn, còn
Từ Hạo Thành là một tiểu thần côn mà thôi.”
“Cả hai người này đều nói là đã chém cả Thượng sư đấy.”
“Quảng Định Pháp sư nói tôi là một Đại Thiên Ma, Trình Linh
Phạm nói tôi xuyên tạc, Liễu Vô Cư Sĩ bảo tôi là kẻ lừa gạt, Từ
Cẩm Thành và Từ Hạo Thành nói tôi là Tà pháp sư và nói là chém
cả tôi nữa. Những điều này quả thực rất là đặc sắc đây, làm cho
linh cảm của tôi tuôn tràn như suối đổ, quả đúng là quyền đả Nam
sơn mãnh hổ, cước kích Bắc hải giao long. Không biết là còn
những ai phỉ báng tôi nữa chăng?”
“Còn có rất nhiều nhưng tôi chỉ biết những người này mà thôi.”
“À há! Tôi quả nhiên đã trở thành bậc bát phương hủy báng bất
động tôn rồi, trong lòng rất đỗi vui mừng đây, không ngờ rằng lại
có thể tạo lên một làn sóng mạnh mẽ thế, quả nhiên đúng theo dự
liệu của tôi, những người này càng chửi càng chém thì tôi ngũ càng
ngon giấc, trong lòng càng an định. Do bởi tôi sớm đã tu được Bất
Động Minh Vương Kim cương pháp rồi, tôi chính là Bát phương
hủy báng bất động tôn. Những người này chửi mắng tôi là có
56
nguyên nhân, chính là vì danh tiếng của tôi quá lớn đi, bọn họ chửi
mắng tôi cũng chỉ vì muốn nổi tiếng.”
“Thượng sư không sợ à?”
„Bất Động minh vương, xung quanh thân đều là lửa, bọn họ chỉ
giúp tôi thêm củi vào, giúp cho tôi càng thêm rực rỡ, anh có hiểu
không?”
“Hiểu rồi, thưa Thượng sư.”
Ngày nay dựa theo mối nhân duyên này, tôi sẽ viết ra cách tu tập
Kim Cương Bất Động minh vương, thật ra Kim Cương Bất Động
Minh Vương sớm đã thành Phật, nhưng vì muốn trừ ma tiêu
chướng nên đã dùng đại nguyện lực hiển thị ở hình tướng đồng bộc,
không ngồi hoa sen, mà ngồi nghiêm trang trên bàn thạch, phóng
mắt bình đẳng nhìn chúng sinh, nắm giữ kiếm là để đoạn trừ tà tuệ
mệnh, mắt lửa thể hiện tướng uy mãnh, miệng ngậm lại biểu thị ý
không nói. Kim Cương Bất động Minh vương dũng mãnh nhất, có
thể chế phục, tiêu trừ tất cả oán địch, là một trong Bát Đại Minh
Vương. Kim cương tính rất uy mãnh, không quỷ thần nào dám
kháng chống. Xung quanh thân người đều là lửa sẽ bảo bọc bản
thân lại, ngày nay tôi viết ra Kim Cương Bất Động minh vương
pháp, tôi chính là Bát Phương hủy báng bất động tôn, môn đại
pháp này há chỉ có nghe đến mà thôi (Bất Động Tôn Kim Cương
Minh Vương là do Trừ Cái Chướng Bồ Tát hóa thân thành.)
Yếu quyết của Kim Cương Bất Động Minh Vương pháp như sau:
(Cầu khẩn Kim Cương Bất Động Minh Vương)
Ưu bát la hoa hiện kim cương, mãn thiên hồng hỏa hóa linh quang,
Nhất chỉ thiên kiếm ma thu trảm, trừ cái chướng lai vô cảm đương.
Tối thắng bất động hàng phục lực, thập phương uế tà tận phần khứ,
Thử tôn bất dụng điều hợp pháp, quảng đại viên mãn tường đoan
địa
Đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, tứ vô lượng tâm, khoác giáp
hộ thân.
57
Yếu quyết quán tưởng - Trước hết tưởng niệm chữ “hồng” sẽ hiện
ra từ trong tâm, thế là xung quanh thân mình là lửa, trên đỉnh thì
hỏa diệm càng vượng hơn, trở thành Đại quang minh hỏa hải, Bất
Động Tôn Minh Vương, hai mắt phóng nhìn ra xa, miệng ngậm
chặt lại, chỉ lộ ra đầu răng nhọn, mặt hiện nét giận dữ. Tay phải
của Minh Vương cầm kiếm trong không trung, tay trái giữ Kim
Cương sách, hiện ra trong lửa chữ phạn “Hồng”, có tướng đứng, có
tướng ngồi, nhưng đứng ngồi gì đều ở trên bàn thạch cả. Tiếp tục
tưởng niệm thì lửa của chữ “hồng” sẽ cháy khắp bản thân, đứng
giữa trong lửa nhưng lại không cảm thấy nóng mà cảm thấy mát
mẻ, đây là do Kim cương hỏa của Bất Động Minh Vương Tôn giả
đã hóa thành Hộ thân kim cương hỏa của bản thân.
Ấn tướng quán tưởng – khi quán tưởng cần phải giữ Bất động
Kiếm ấn, ngón trỏ và ngón giữa của tay phải dựng đứng lên trời,
ngón cái, ngón vô danh, ngón út co lại hướng vào lòng bàn tay,
ngón cái đè lên trên ngón vô danh và ngón út. Tiếp đó, ngón trỏ và
ngón giữa của tay trái cũng dựng đứng lên, còn lại ngón cái, ngón
vô danh và ngón út thì nắm chặt lấy ngón trỏ và ngón giữa của tay
phải. Hai lòng bàn tay đối với nhau, đặt ở trước ngực. Đây chính là
Bất động kiếm ấn của Bất Động Minh Vương, kiếm ấn này tượng
trưng cho uy lực của Bất Động Minh vương.
Bất Động Minh Vương Chú – “Ông. A giả la già đán bộ đà chế trá
già. Hồng hồng, khả y khả y. Nhất đàm tiết lí ê. Ma ha lí tì sa tô.
Đa âu. Cái lí. Hồ phán”. Bất Động Minh vương chú này mỗi lần
niệm 108 lần, trước hết quán tưởng sau đó trì chú, khi trì chú tâm
nên định và có lực.
Bất Động Minh Vương Kim cương này tương ứng, bình thường
khi tĩnh tọa sẽ tự có Kim cương hỏa hiện lên hộ thân, bản thân
dường như tàng thân trong tâm của Bất động minh vương kim
cương, tự sẽ kết giới trong tu pháp, tất cả quỷ thần đều không thể
bước qua Lôi trì, ngoài ra tà thần ác quỷ cũng không dám xâm
phạm.
58
Giả sử như Quảng Định Pháp sư không có mắng tôi, Trình Linh
Phàm không chửi tôi, Liễu Vô Cư Sĩ không chỉ trích tôi, Từ Cẩm
Thành và Từ Hạo Thành không phỉ báng tôi thì cũng sẽ có rất
nhiều kẻ khác chửi mắng tôi, như thế thì tôi sẽ không có tinh thần
để tu luyện Bất Động Minh Vương Kim cương pháp rồi, cũng sẽ
không công khai Kim Cương Bất Động Minh vương pháp ra, đây
chính là chuyện đại pháp Bất Động Minh Vương Kim cương ra đời,
những yếu quyết này từ xưa đến nay chưa có ai dám tùy tiện nói ra
cả.
Độc giả nếu như muốn cảm tạ thì hãy cảm tạ những kẻ hậu bối đã
chửi mắng, bởi vì có chửi mắng thì mới có đại pháp để học. Tôi hy
vọng mọi người sẽ tiếp tục chửi mắng nữa, nếu như không chửi
mắng thì tôi không có tinh thần lắm. Tôi vẫn chân thành cảm ơn,
cảm ơn những lời chửi mắng.
59
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
13. Lư đại tà ma đã nói như thế
Khi tất cả độc giả nhìn thấy đề mục của chương này chỉ sợ rằng sẽ
giật thót cả người, bởi vì Lư đại tà ma là ai thế? Tôi xin thưa rằng,
Lư đại tà ma mà tôi viết ở đây chẳng phải là người khác đâu mà
chính là tôi, hoàn toàn chính xác là Lư Thắng Ngạn này. Ngày nay
có người gọi tôi là tà pháp sư, tôi rất đỗi vui mừng, có người gọi
tôi là đại thiên ma, tôi rất mực vui sướng. Tôi tự phong mình là
“Lư đại tà ma” như thế sẽ càng có thể cùng thiên hạ chúc mừng,
vui vẻ cùng nhau! Giả sử như việc tôi tự phong “Lư đại tà ma” có
thể làm cho thiên hạ chúng sinh đều có thể nhận biết được Phật
pháp chân chính, mọi người đều có thể thành Phật thì Lư đại tà ma
tôi mới sống thật có ý nghĩa chứ!
Tất cả những người tu đạo trên đời này có hai căn bệnh. Thứ nhất
là tự cho mình là chánh phái, người khác đều là ma, đều cho rằng
của mình là thiên hạ đệ nhất pháp, kẻ khác đều không bì kịp. Căn
bệnh thứ nhất gọi là “tự đại”. Căn bệnh thứ hai là gọi là “ngã mạn”.
Chương này của tôi sẽ phá bỏ “tự đại ngã mạn”. Những người tu
đạo thông thường đương nhiên đều tôn bản thân mình lên, lấy tôn
giáo làm ví dụ, Phật giáo nói bản thân mới là chính đạo, những thứ
khác đều là ngoại đạo. Cơ đốc giáo xưng giáo chủ của mình là
Nhất thần, những thứ khác đểu là ma quỷ. Hồi giáo, Thiên chúa
giáo cũng như thế, đều nói bản thân mình là chính, còn người khác
là ma, hình như trong thiên hạ không có một giáo đường tôn giáo
nào tự xưng mình là ma cả.
Còn về người tu đạo cũng như thế, luôn cho rằng bản thân mình là
chính, còn người khác là ma. Tuy nhiên, ngày nay chỉ có một
người tự xưng mình là “đại tà ma”, người này chính là Lư Thắng
Ngạn, chúng đạo đều là chánh cả, duy có một mình tôi là tà thôi,
chúng đạo đều là Phật, chỉ có mình tôi là ma thôi. Mọi người đều
nói như thế, tôi lại tự phong như thế thì Linh Tiên Chân Phật Tông
60
này há chẳng phải là một phường tà ma hay sao? Nếu đã là tà ma
thì những đệ tử đã quy y cũng trở thành ma tử ma tôn rồi.
Tôi ngày nay nói như thế thì cũng tức là đại tà ma đã nói như thế.
Ở trong cõi đời này, phàm những người học Phật nào tự xưng
mình là chánh phái thì kỳ thực họ mới chính là tà ma, còn ngược
lại những ai tự xưng là đại tà ma thì họ sớm đã phân biệt đâu là
chánh, đâu là tà. Tôi cho rằng Quang minh chân như tự tính có thể
hiển hiện ra thì chính là chánh, còn như có tâm nhiễm lục căn trần
ai thì chính là tà vậy.
Thế nào là Phật? Phật là lấy vô niệm làm tông, lấy vô trụ làm bổn,
phản vọng chứng chân, hoàn toàn là tùy duyên phó cảm, quay
ngược thuyền từ, hưng từ lợi vật, không hoa Phật sự, đi ở hoàn
toàn tự do, bất triêm bất ngại. Đây chính là tu thiền ngộ đạo, do
nhân thanh tịnh thì quả tự nhiên sẽ viên thông vô ngại. Tôi có
Quang Minh Chân như tự tính, đây mới chính là Phật tính chân
thực, cho dù là chúng sinh trong thiên hạ này đều nói Lư đại pháp
sư tôi là một Lư đại tà ma thì tôi vẫn thư thản như không thôi, vẫn
sẽ luôn là Lư đại tà ma ở cảnh giới đại tự tại của Chư pháp như
nghĩa, điều này có gì đáng sợ chứ?
Còn về thế nào là tà, xem ra cũng chỉ có mình tôi là nhận biết được
rõ thôi, thường là trong lòng mọi người vẫn có “sắc thanh, hương,
vị, xúc, pháp”, nếu vì sáu loại trần ô này mà nhập vào mê thì đều là
tà cả. Đây là do trần ai ô uế trong tâm vẫn chưa tiêu trừ hết, cho
nên tâm không thể hiển hiện ánh quang, không thể hiển quang mà
lại chấp mê bất ngộ thì chính là tà vậy. Chính và tà chỉ đơn giản
như thế thôi, Phật và ma cũng phân biệt từ đó. Tà ma chỉ cần từ bỏ
đi lục trần ô thì sẽ trở thành Phật. Có người cho rằng tà ma chính là
những loài ma quỷ có dung mạo hung ác, uống máu người, ăn tim
người. Như vậy là đã sai rồi, sự sai lệch vô cùng to lớn.
Ngày nay một đại ác ma như tôi đắc được vô thượng pháp môn, tự
do tự tại trong pháp giới, thực sự không còn ồn ào phiền nhiễu.
Thế nhưng vào cuối đời này, nhân tâm bất cổ, thời buổi đạo đức
luân vong, ngũ trọc ác thế, chúng sinh phúc phận quá mỏng bạc,
61
hơn nữa lòng người lại quá khó để điều phục, khắp nơi đều là tà
kiến ma kiến, lại có thể nói cả một bậc đắc chứng là đại tà ma.
Hôm nay tôi sẽ chỉ cho mọi người biết rằng, phàm là những người
bị chỉ trích là đại tà ma lại rất có thể là hóa thân chân chính của
Phật, ngược lại những kẻ tự nhận bản thân mình là chánh, là Phật
thì đây mới chính thực là hóa thân của tà ma hủy báng Như Lai
Chánh pháp luân. Xin thiên hạ chúng sinh hãy chọn pháp nhãn,
chú ý nhìn cho thật kỹ những “đại Phật” kia có phải thật sự là Phật
không. Nhìn kỹ xem “đại tà ma” như tôi đây có phải là đại tà ma
hay không.
Những “Phật” này bản thân là cướp lại đi chỉ ngược những người
thiện lương là cướp, đây gọi là mình là cướp mà còn kêu người
khác bắt cướp, chúng sinh biện rõ chân lý, phải có minh chứng lựa
chọn.
Ngày nay, Lư đại tà ma sẽ nói điểm thứ hai, người tu đạo trong
thiên hạ đều nói bản thân mình là nhất, pháp lực cao nhất, pháp lực
của người khác đều không bì kịp, trong thiên hạ duy chỉ có mình
anh ta là tốt nhất, trong nháy mắt đã trảm được Phật nào đó, thần
tiên nào đó. Đương nhiên người sáng mắt như chúng ta chỉ cần
nhìn qua là biết được đây chỉ là ngụy tạo hoang tưởng, buông lời
xằng bậy mà thôi. Đạo sĩ tu đạo tưởng rằng ngẫu nhiên được vị
thần tiên nào đó điểm hóa trong mộng thì tự cho mình là cao hơn
hết, khi không hiểu rõ chân lý thì sẽ vọng sính tướng tôn quý.
Khuyên bảo anh ta nên cố gắng tu tập, anh ta nói rằng bản thân đã
là lớn nhất rồi, còn gì để đáng tu nữa chứ, muốn anh ta quy y, anh
ta nói: “trong thiên hạ tôi đã là lớn nhất rồi, vậy thì còn ai để tôi
quy y chứ? Còn ai có thể làm Thượng sư của tôi chứ?”. Những
người này không biết rằng Phật pháp như biển lớn, không có cách
chi tính hết số lượng nước biển, cũng có cách gì để tính hết số
lượng cát biển, đời người sống một trăm năm, tuế nguyệt thấm
thoát trôi qua, thời gian lãng phí không biết bao nhiêu, hơn nữa
trong giáo hải của Như Lai, danh tướng nhiều vô kể, nhiều như số
lượng cát biển và nước biển vậy, những kẻ như trên chỉ ăn rau
xanh được ba ngày, lạy Phật được ba ngày thì còn lớn hơn cả Phật,
62
không có đích thân trải nghiệm thực tiễn, còn chưa bắt đầu tu pháp
thì pháp lực đã lớn nhất rồi, thật khiến người ta phải thở dài cảm
thán rồi.
Đệ tử của Linh Tiên Chân Phật tông cũng có những người như thế,
hôm nay vừa mới quy y, ngày hôm sau đã gửi thư đến kể với tôi
rằng, Bồ tát chỉ điểm trong mơ muốn tôi phải làm thế này, phải
làm thế kia, tôi vừa mới xem thư thì thấy rằng toàn là những lối
suy nghĩ ấu trĩ, sau cùng tôi chỉ trả lời có 3 thư nói rằng, anh không
nên làm đệ tử của tôi, nên làm thượng sư của “đại tà ma” tôi đây.
Ngày nay có rất nhiều người trong mộng chỉ điểm, chưa có phân
biệt chân giả, chấp đoán chấp thường, thực sự là bị rơi hãm vào
trong đại địa ngục. Những nhà đại tu hành ấy đã mắc phải chứng
bệnh duy có mình là nhất, pháp lớn nhất thiên hạ rất nhiều rất
nhiều. Mới ăn được có 3 ngày rau xanh, lạy Phật được ba ngày,
bản thân ngu dốt lại cứ cho mình là đúng, bản thân ti tiện lại cứ
một mực cố chấp, không chịu khiêm tốn học hỏi, những người như
thế có rất nhiều. Lại có một số đệ tử bản thân không có nửa phân
tiền, đối với pháp lại không chịu tu hành, tự xưng là “đã đắc đạo”
rồi, Quán Thế âm Bồ tát muốn mang họ lên trời, loại người lấy
hoang làm chân, nhận tà làm chánh, đang đánh mất thời gian, nếu
không thực tế tu hành thì thật là đáng buồn lắm thay!
Tôi vì những đệ tử tội nghiệp này chỉ có thể tiếp tục thị phạm quy
y của “Lư đại tà ma” này. Tôi tự sáng tạo Linh Tiên chân Phật tông,
thế nhưng Linh tiên chân Phật tông là vô cùng lớn, mật pháp tôi đã
đắc chứng, tôi vẫn không cho rằng là lớn, tôi ở Mật giáo, do Thích
Ca Mâu Ni Phật mà đỉnh thụ ký, được Bạch giáo Thập lục thế Đại
bảo pháp vương bí mật viên mãn đại quán đảnh, những tu tập này
cũng đã được nhiều năm. Bắt đầu từ khởi mộng khởi linh, học kinh
lý luận tam tạng nghĩa lý, tu pháp đã được thời gian 15 năm,
nghiên cứu tất cả, không ghét bỏ gì cả, chưa từng lãng phí qua một
ngày nào cả. Tôi dám nói như thế, tôi từ trước đến nay chưa từng
có một ngày nào gián đoạn công việc tu tập, có thể tinh tiến như
thế nhưng vẫn cảm thấy bản thân chưa đủ, luôn cần phải khiêm tốn
63
cả đời, còn những ai tiêu phí thời gian quá nhiều, làm việc vô ích
cùng phong trần, đúng nên có chút cảm thán.
Nhưng khi tôi nhìn thấy có một số đệ tử mới quy y, họ vẫn chưa tu
pháp nhưng tất cả đều đã “đắc đạo” rồi. Nếu như thật sự là thế thì
tôi vui mừng thay cho họ. Nhưng nếu như không phải thì thật sự
thì cũng như đứa bé ba tuổi học sư tử hống vậy, chẳng có chiêu
nào là chân chính cả. Vì những đệ tử này, những người học trò ngu
muội này, những kẻ tự xưng là thiên hạ đệ nhất, pháp lực đứng đầu,
tôi sẽ lại “thị phạm” quy y vậy, do vậy để chỉ dạy cho các học trò
biết khiêm tốn học pháp, kính sư, trọng pháp, thực tu tôi sẽ lại
“quy y” tôn giáo khác, bản thân khiêm tốn cầu học nơi các bậc
Thượng sư của các tôn giáo khác rồi tiếp đó mới tu tập pháp môn
của các tông phái khác.
Tôi quy y Phổ Phương Kim Cương Đại A Xà Lợi của Mật tông
Tổng trì môn phái. Tiếp đó quy y Mật tông Hoàng giáo Thổ Đăng
phái Thổ Đăng Đạt Cát Đại A Xà Lợi, sau đó lại quy y Mật tông
Hoa giáo Tát Ba Chính Không Lạt Ma. Tôi đều đảnh lễ với từng vị
Thượng sư, hiến dâng lên khăn lụa Cáp đạt và cúng dường. Tôi vì
sao lại làm như thế chứ? Đường đường là tông chủ của Linh Tiên
Chân Phật tông lại tiến hành đảnh lễ với các Thượng sư của các
tông phái khác và dâng tặng cúng dường. Đây chính là cách làm để
thị phạm quy y của “đại tà ma” như tôi đây. Đồng thời Tổng trì
môn phái, Hoàng giáo, Hoa giáo đều có rất nhiều tinh túy mật pháp,
tuyệt không phải người ngoài cuộc có thể hiểu được, tôi đầu nhập
vào các môn phái này chính là để tu tập tinh hoa của các môn phái.
Tôi được xem là người có căn khí Đại thừa, tuệ lực sung mãn, thời
gian 15 năm tu tập tuy là ngắn ngủi nhưng tất cả đều có thể tương
ứng, nhất nhất đều có ấn chứng, khi được Phật sờ đỉnh nói tôi
trong tương lai là Pháp vương. Tuy vậy tôi trước giờ chưa bao giờ
tự mãn, đều khiêm tốn đảnh lễ cúng dường với các vị Thượng sư,
vậy mà đệ tử của Linh Tiên Chân Phật tông vẫn vì danh lợi, vẫn
muốn sính tướng tôn quý, vẫn cứ cuồng ngôn lấy mộng ảo làm đắc
đạo, đây há chẳng phải là hạt giống địa ngục sống nơi hố sâu sao.
64
“Lư đại tà ma” ngày nay vẫn muốn khiêm tốn cầu pháp nơi người
khác, đây gọi là không mắc phải chứng bệnh “tự đại ngã mạn”. Có
người dựng lên chiêu bài “Linh Tiên Chân Phật tông” nhưng lại
chưa học qua tu pháp chân chính, kiến giải sai lầm, nhưng lại luôn
cho bản thân là đúng, không biết hối cải, những người chưa đạt
giáo pháp Như Lai hãy nhanh nhanh hối cải.
Tôi hy vọng các đệ tử có thể hiểu được một phen khổ tâm khi tiếp
tục quy y của tôi, nhanh chóng tu pháp từ đầu đến cuối, tu hành
tinh tiến thực địa, có được diệu lý nguyên đốn, đắc được chân trí
tuệ, hiểu rõ được đại dụng của Phật pháp, là Pháp vương Quán Tự
Tại, mà không phải làm những thứ thủy nguyệt đạo tràng, đánh
mất đi Bồ đề tâm, báng sư hủy pháp. Tôi đã khuyên bảo như thế
nếu như có nghe lời tôi thì mới không đánh đi giác tướng thanh
tịnh.
Phật khen rằng: “Tự nhận là tà ma vốn đã ít có. Đắc chứng rồi lại
quy y tiếp thì lại càng khó cầu”.
Tôi cũng đã từng nói qua một bài kệ: “Pháp bổn vô pháp, tông bổn
vô tông, ngã kim thuyết tông, tông tông hà tông”. Có người vọng
tưởng Linh Tiên Chân Phật tông có thể bất hủ, kỳ thật trên đời này
không có thứ gì có thể bất hủ, Linh Tiên Chân Phật tông cũng chỉ
là một hư danh mà thôi, dựa theo Lư Thắng Ngạn đại tà ma này
viết sách nói thì đời người trong vòng 100 năm (ngay cả 100 năm
vẫn còn chưa đến), tôi để lại một tấm bia đá khắc tên, chỉ một một
hai ngàn năm thì đã hư hại rồi. Đề tên nơi danh sơn thì núi cũng sẽ
bị xe xúc đất san bằng thôi, tôi nói với mọi người biết rằng cả trái
đất này cũng sẽ bị nổ tung trong tương lai thôi, có thể lưu lại thứ gì
bất hủ chứ?
Có người nói rằng “Lư Thắng Ngạn” ba chữ này có thể vững chắc
được đó. Tôi nói không nhất định, bởi vì người mạo tên “Lư Thắng
Ngạn” quá nhiều đi, theo điều tra thì cả Đài Loan cũng đã có hơn
mười cái tên “Lư Thắng Ngạn”, ngoài ra cũng có người không phải
tên Lư Thắng Ngạn cũng tự xưng là Lư Thắng Ngạn, như thế sẽ có
mười mấy, hai mươi mấy Lư Thắng Ngạn, rốt cuộc thì người nào
65
là thật. Có khi tôi thức dậy vào sáng sớm, tự hỏi bản thân mình có
phải là Lư Thắng Ngạn hay không, tôi cũng lắc đầu, ngay cả bản
thân cũng hồ đồ mất rồi, trước khi tôi sinh ra thì không có tôi, khi
tôi chết đi cũng sẽ không có tôi, chỗ nào cũng là thân thể huyết
nhục cả không thể nương tựa được. Khi chuyển thế lần nữa thì
không còn gọi là Lư Thắng Ngạn nữa rồi.
Linh Tiên Chân Phật tông luôn luôn có thể vững chắc được chứ?
Tôi nói điều này cũng không nhất định, tông bổn vô tông, tông
tông hà tông! Người đời có phân ra “thị phi thiện ác”, người làm ác
sẽ không nói bản thân mình là ác nhân, giả sử có người tham lam
tiền tài, đội Linh Tiên Chân Phật tông trên đỉnh đầu làm chiêu bài
ngụy thiện, lừa gạt tiền tài của người khác, không giữ được thiện
niệm sẽ biến đổi chất đi, sẽ không gặp được tam thế chư Phật, chỉ
nhìn thấy mặt mũi tham lam mà thôi, do vậy Linh Tiên Chân Phật
tông có thể vững chắc được ư? Linh Tiên Chân Phật tông xuất phát
từ miệng tôi nhưng vẫn không thể vững chắc được!
Thân thể của mỗi người cũng không có thể vững chắc được, tên họ
của mỗi người cũng không thể vững chắc, huống hồ gì một tên một
tông phái hư ảo kia. Năm xưa Phật giáo rất huy hoàng ở Ấn độ,
nhưng Phật nói rằng sau khi Phật diệt thì Phật giáo không bao lâu
sau cũng biến mất ở Ấn độ, nếu bạn đến Ấn độ để tìm Phật giáo thì
Ấn độ sớm đã không còn Phật giáo nữa. Trên thế giới này không
có gì có thể vững chắc được và cũng không có gì bất hủ cả, khi bạn
mở mắt ra tất cả đều tồn tại, nhưng khi bạn nhắm mắt lại thì tất cả
đều không tồn tại.
“Tự đại ngã mạn” thì muốn bất hủ sao? Ngay cả “Lư Thắng Ngạn”
và “Linh Tiên Chân Phật tông” đều không phải là vật bất hủ, có thể
vững chắc được thì điều gì là vững chắc được chứ? Tín ngưỡng chỉ
là một loại lực lượng sơ cấp mà thôi, Linh Tiên Chân Phật Tông
của Lư Thắng Ngạn chủ yếu muốn mọi người chú trọng ở việc “tu
luyện”, bản thân tu tập một cách chân thực, tự trông cậy ở bản thân
mình! Lư Thắng Ngạn đại ác ma này kêu gọi như thế, không nên
nương nhờ vào Linh Tiên Chân Phật tông, Linh Tiên Chân Phật
tông muốn mọi người phải cố gắng tu tập chân chính.
66
Muốn thành Phật đến được Tây phương cực lạc thế giới thì phải tu
hành chân chính, muốc đắc được siêu năng lực thì phải tu pháp,
pháp chính là lực, lực chính là pháp, chỉ có thực tu mới có thể đắc
được.
Muốn nương tựa vào Lư Thắng Ngạn.
Muốn nương nhờ vào Linh Tiên Chân Phật tông.
Đây chính là mê tín thật sự. Muốn trở thành Phật thì phải tu tập, tự
dựa vào bản thân thì mới chính là giáo đồ Phật giáo chánh tín.
Có được danh, có được lợi. Đều chẳng có tác dụng chi cả. Thứ
chúng ta cần chính là “chân đạo”.
67
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
14. Mật giáo Tứ Thiên Vương Kim Cương pháp
Tứ Thiên Vương tôi nói ở đây chính là Đa Văn Thiên Vương ở
Bắc phương, Trì Quốc Thiên Vương ở Đông phương, Tăng
Trưởng Thiên Vương ở Nam phương, Quảng Mục Thiên Vương ở
Tây phương. Tứ Đại Thiên Vương này chia ra cư ngụ ở lưng
chừng núi Tu Di quản lý tứ đại hồ. Mật giáo bộ từ trước đến nay
đều xếp Tứ Đại Thiên Vương vào vị trí “sơ địa”. Do bởi Tứ Đại
Thiên Vương là sơ địa cho nên có rất nhiều người tu pháp đã bỏ
qua Tứ đại thiên vương, cho rằng “sơ địa” rất gần với nhân gian
nên sẽ có ô nhiễm, do vậy số người tu tập Tứ Đại Thiên Vương
cũng không có nhiều.
Trên thực tế, khi tôi nghiên cứu sâu về những Phật điển như “Tứ
thiên vương quan sát nhân thiên phẩm”, “Tứ Thiên vương hộ quốc
phẩm”, “Tứ thiên vương hộ trì như ý phẩm”… đã phát hiện ra Tứ
Thiên Vương Kim Cương pháp là một mật pháp cảm ứng thần tốc,
tu tập Tứ Đại Thiên Vương Như ý pháp chính là hy vọng được như
ý cát tường. Tứ Đại Thiên Vương đều là Thiên vương đại phú quý,
có thể ban phúc, tài bảo, cát tường, không chỉ có vậy, Tứ Đại
Thiên Vương còn có thể hộ quốc giữ nhà, người tu pháp muốn
nhanh chóng có được ứng nghiệm cần phải tu tập Tứ Thiên Vương
Kim cương pháp. Trước đây tôi đã từng nói, mật tông có tu Tài
thần pháp, những vì Hoàng tài thần, Bạch tài thần, Hắc tài thần này
đều là ứng hóa thân kim cương của Tứ đại thiên vương.
Trong kinh điển có chỉ rõ, tu tập Tứ Đại Thiên Vương Kim cương
pháp, trước tiên cần xưng họ tên, lễ bái tam bảo, sau đó niệm hồng
danh của Tứ đại thiên vương,Tứ Đại Thiên Vương đều có thể ban
phát tài vật, giúp cho các nguyện vọng của chúng sinh đều có thể
đạt thành, an lạc tùy ý, đây chính là Kim cương pháp cầu tài như ý,
chúng sinh không thể không biết đến. Vì thế, lúc tôi tu tập Tứ Đại
Thiên Vương Kim cương pháp nghĩ đến nổi khốn khổ của lục đạo
68
chúng sinh, trong lòng đại khởi tâm thương cảm, cho rằng muốn
cầu tài được tương ứng thì chi bằng tu tập Tứ Đại Thiên Vương
Kim cương pháp, do đó tôi đã đặc biệt viết ra đại pháp này, không
chút che giấu gì cả để nhằm cứu giúp chúng sinh khốn khổ.
Ngày nay chúng ta không nên xem thường Tứ Đại Thiên Vương
kim cương pháp này, bởi vì Tứ Đại Thiên Vương trong quá khứ đã
vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, tất cả Phật đều cung kính, tán dương
sự hộ thế của các vị Thiên vương này, cho rằng Tứ Đại Thiên
Vương là một loại thiện căn, tu hành chánh pháp, hộ giáo hộ pháp,
lấy pháp hóa thế, hơn nữa lại tu hành phúc nghiệp, giúp cho chúng
sinh được cát tường như ý, tu hành chánh pháp. Căn cứ theo Nhân
Vương Hộ Quốc Ban Nhược Kinh viết, những người bình thường
chỉ cần tu tập Tứ Đại Thiên Vương Kim cương pháp, nhất tăng
kiếp, ngoài ra còn cúng dường chư Phật thì có thể đắc được quả vị
“sơ địa”, thăng nhập vào cảnh giới Tứ thiên vương, ở trong cảnh
giới Tứ thiên vương đắc được tâm nguyện đại từ và đại an lạc, trở
thành Đại Kim Cương thần hộ thế.
Người muốn tu tập pháp này trước tiên phải họa tượng Tứ Đại
Thiên Vương treo lên giữa từ đường để thờ cúng. Pháp tướng của
Tứ Đại Thiên Vương ở trong nước có rất nhiều, một số chùa chiền
đều họa ở bốn cửa của đại điện. Ngoài ra người viết đã từng đến
Cơ Long Thập Phương Đại Giác Viện, ở đây thờ cúng pháp tướng
cao lớn của Tứ đại Thiên vương. Dưới đây tôi sẽ kể ra pháp tướng
của Tứ Đại Thiên Vương trong thế tục thông thường như sau:
Thiên vương thứ nhất: đầu đội Liên Hoa quán, mặt trắng giận dữ,
thân vận thanh long giáp trụ, tay trái cầm cung, tay phải cầm kim
tiễn.
Thiên vương thứ hai: đầu đội Bảo thạch quán, mặt đen, râu đen, vẻ
mặt phẫn nộ, thân vận hoàng lộc giáp trụ, tay trái cầm bảo châu,
tay phải cầm bảo kiếm.
Thiên vương thứ ba: đầu đội Ngũ Xa quán, mặt vàng, râu vàng, vẻ
mặt giận dữ, thân vận lục hồ giáp trụ, hai tay bưng Giáng ma chử.
69
Thiên vương thứ tư, đầu đội Ngũ Phật quán, mặt đỏ râu đỏ, khuôn
mặt phẫn nộ, thân vận kim sư giáp trụ, tay trái cầm bảo tháp, tay
phải cầm Tam sa trượng.
Về pháp tướng của Tứ Đại Thiên Vương do bởi nguyên nhân hiển
hóa cho nên đều không giống nhau, tuy nhiên chỉ cần họa tượng
oai phong, thân mặc giáp trụ, tay cầm pháp khí, ghi rõ danh xưng
của Tứ Đại Thiên Vương thì đều có thể cảm thông.
Tu hành thì phải tu tập Tứ Đại Thiên Vương Kim cương hộ thân
pháp trước. Hộ thân pháp này cũng chính là một pháp trong Khoác
giáp hộ thân pháp và cũng là một trong những đại mật pháp. Người
tu pháp trước tiên dùng năm loại hương gồm có an tức hương,
chiên đàn hương, long não hương, tô hợp hương, yết la huân hươn
nghiền thành bột, đặt vào trong lư hương thắp lên cúng dường Tứ
đại thiên vương, bản thân tắm rửa thanh tịnh, mặc quần áo sạch sẽ,
đứng trước pháp tướng, lấy vài sợi chỉ trắng đặt phía trước Tứ đại
thiên vương.
Đứng trước Tứ Đại Thiên Vương niệm 7 lần chú Tứ Đại Thiên
Vương hộ thân chú. Cứ niệm một lần thì lấy chỉ trắng thắt một cái
gút, niệm bảy lần thắt bảy cái gút. Sau này mỗi khi ra khỏi cửa hay
ở nhà đều mang sợi chỉ trắng này sẽ có Tứ Đại Thiên Vương và
hàng trăm ngàn vạn thiên thần theo bảo hộ, sẽ không còn sợ bị
thiên ma tà đạo bức hại nữa, điều này đối với người tu pháp là vô
cùng quan trọng và quý báu, là một pháp bảo cho dù có muôn vạn
hoàng kim cũng không thể mua được. Xin thuật lại Tứ Đại Thiên
Vương Hộ thân kim cương chú như sau:
“Nam ma tiết thất la mạt noa dã. Mạc hạ hát la ám dã. Đán chí tha.
La la la la. Cự nộ cự nộ. Khu nộ khu nộ. Lâu nộ lâu nộ. Phong
phược phong phược. Yết la yết la. Ma hạ tì yết lạp ma. Ma hạ tì yết
lạp ma. Ma hạ hát la xã hát lạc xoa hát lạc xoa. Mạn “mỗ mỗ mỗ
(xưng tên họ bản thân)”. Tát bà tát đóa nan giả. Sa ha.”
Tu tập Tứ Đại Thiên Vương Kim cương pháp có mấy điểm cần lưu
ý: mỗi tháng vào mồng 8 và ngày 15, người tu pháp sẽ cảm ứng
càng nhanh, bên trên pháp tướng của Tứ Đại Thiên Vương nên thờ
70
cúng tượng Phật, mỗi lần tu được một đàn thì đều phải cúng Phật
trước, sau đó cúng Tứ Đại Thiên Vương. Người tu tập Tứ Đại
Thiên Vương phải giữ ngũ giới, không sát sinh, không trộm cướp,
không uống nghiện rượu, không dâm tà, không ác khẩu. Trên mật
đàn phải cúng dường một vài cặp thị hầu nam nữ, những thị hầu
nam nữ này có thể vẽ hoặc dùng giấy cắt thành. Mỗi lần tu pháp thì
đều phải cúng dường, ngũ cúng bát cúng, thậm chí là cúng dường
cả những vật thực.
Cách tu như sau:
Đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, tứ vô lượng tâm.
Trước tiên niệm bảy lần Tứ Đại Thiên Vương Kim cương hộ thân
chú.
Quán tưởng, Tứ Đại Thiên Vương cùng các quyến thuộc lần lượt
giá lâm đàn tràng để nhận cúng bái. Căn cứ theo thứ tự lần lượt
quán tưởng Đa Văn Thiên vương, Trì Quốc Thiên Vương, Tăng
Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên vương. Lần lượt gọi tên
rồi lễ bái. Trước tiên kính lễ tam bảo Phật, sau đó lễ bái Tứ đại
thiên vương.
Tiếp đó niệm Như Ý Đà La Ni Thiên Vương Tâm chú:
“Nam ma hát lạp đán na. Đán lạp dạ gia. Nam ma tiết thất la mạt
noa gia. Ma hạ la ám gia. Đán điệt tha. Tứ nhị tứ nhị. Tô mẫu tô
mẫu. Chiên đồ chiên đồ. Chiết la chiết la. Tát la tát la. Yết la yết la.
Chích lí chích lí. Cự lỗ cự lỗ. Mẫu lỗ mẫu lỗ. Chủ lỗ chũ lỗ. Sa đại
gia hạ tham. “Mỗ mỗ mỗ (xưng tên họ bản thân)” ni điếm hạ tha.
Đạt đạt. Sa ha. Nam ma tiết thất la mạt noa gia. Sa hạ. Đàn đán đà
gia. Sa hạ. Mạn nô lạp tha, lợi bô lạp già gia. Sa hạ.”
Mỗi lần tu tập chú ngữ này cần phải niệm 1000 lần. Nhất tâm cúng
dường, thường đốt diệu hương. Trong mật đàn phải giữ gìn vệ sinh,
những người không phận sự không được vào.
Niệm chú xong thì cầm hải loa quán tưởng, từ miệng của hải loa sẽ
tuôn ra kim ngân châu báu, giúp người cầu nguyện đạt được như ý
nguyện, không hề thiếu tài bảo, làm cho tất cả pháp đàn thêm phần
71
trang nghiêm, chư Phật sẽ lại càng tuyên dương phổ hóa. Nếu như
có người không dùng hải loa để quán tưởng thì cũng có thể dùng
hộp gỗ để quán tưởng, nhưng hộp gỗ phải được đốt hương qua trở
thành tráp hương, như thế mới có thể dùng được, phàm là tất cả
các cầu nguyện đều sẽ được như ý.
Khi hồi hướng nói: nguyện đắc tài bảo, tại thi pháp tài.
Thông thường thì những người tu pháp này sẽ nhanh chóng cảm
ứng được phát tài, tuy nhiên khi phát tài rồi vẫn không được quên
cúng dường Phật và Tứ Đại Thiên Vương, không được có lòng
lười biếng, người tu pháp phải có tâm niệm từ bi, không được có
sân niệm và tham niệm, nếu như tích lũy tài bảo mà không bố thí,
lợi dụng tài lực quyền thế để hãm hại người khác thì Tứ Đại Thiên
Vương Kim cương pháp sẽ nhanh chóng mất đi hiệu nghiệm, báo
ứng sẽ nhanh chóng giáng xuống.
Người tu tập Tứ Đại Thiên Vương Kim Cương pháp có thể hành
thập thiện pháp, hành được thập thiện pháp thì lực lượng phúc báo
của họ sẽ càng lớn, đến khi tất cả chúng thiện đã tích tụ đủ thì vào
ngày thọ mệnh chấm dứt, Tứ Đại Thiên Vương cùng các thị hầu sẽ
đến rước về Thiên giới. Thông thường đối với những người tu
pháp này thì các chư thần trên trời khi gặp được đều sinh lòng yêu
thích cả nên tất cả sẽ đều đến độ trì, ngoài người tu trì pháp này thọ
mệnh sẽ càng dài hơn, phúc báo lâu bền nhất, mãi mãi xa rời nỗi
khổ tam đồ, tất cả tai ương đều tránh xa, đắc được Như ý châu bảo,
tất cả đều thuận theo ý muốn cả.
Khi tôi viết về Tứ Đại Thiên Vương Kim Cương pháp này thì các
thị hầu của Tứ Đại Thiên Vương đều vô cùng vui mừng, từ trên
trời rải hương hoa xuống, dưới mặt đất mây thơm xuất hiện, khắp
căn phòng tôi đều tràn ngập hương thơm, từng vị từng vị thiên thần
đều hiển hiện kim thân để cho tôi kiến diện, chúng thiên thần đều
khen ngợi: “Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng sư, Lư
Thắng Ngạn Liên Hoa đồng tử.” Ngày nay trong cõi ác thế ngũ
trược này tôi nói ra đại mật pháp hi hữu quả thật là hiếm có, không
72
phải dễ dàng gì, biên soạn sách này nhận được sự tán thưởng của
Tứ Đại Thiên Vương cũng chỉ có một phần mà thôi.
Pháp này có công đức lợi ích vô cùng huyền diệu, người tu pháp sẽ
có phúc báo cao như trời, sâu như biển vậy, thật không thể nào đo
lường được hết.
73
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
15. Bất muội nhân quả
Quyển “Kỳ thư” của Thiền tông, tức là Nguyệt lục quyển 1, ở
trang 517 có đoạn câu chuyện như sau:
Bách Trượng đại sư mỗi lần thuyết pháp ở Pháp đường đều có một
vị lão nhân râu bạc theo mọi người đến nghe pháp. Một ngày nọ
khi tất cả mọi người đều đã về hết, duy chỉ còn vị lão nhân này vẫn
chưa rời khỏi.
Bách Trượng đại sư mới hỏi: “Ông là người nào thế?”
Ông lão trả lời: “Tôi không phải là người mà là Già Diệp Phật
(Kashya – Ca Diếp) khi còn tại thế, đã từng ở núi này, cũng là
người học Phật. Có người hỏi tôi rằng nhà đại tu hành trong tương
lai vẫn phải rơi vào nhân quả chứ? Tôi trả lời người đó rằng nhà
đại tu hành trong tương lai sẽ không rơi vào nhân quả. Chỉ vì câu
nói này mà đã 500 năm rồi tôi phải đọa nhập vào thân dã hồ (cáo
hoang). Hôm nay tôi muốn hỏi đại sư một lời để thoát khỏi thân dã
hồ này.”
Bách Trượng đại sư nói: “Ông hỏi đi!”
Ông lão hỏi: “Bậc đại tu hành vẫn phải rơi vào nhân quả chứ?”
Bách Trượng đại sự trả lời: “Bất muội nhân quả”.
Ông lão vừa nghe xong tức thì đại ngộ. Ông lão hành lễ với Bách
Trượng đại sư: “Tôi đã thoát được thân dã hồ này rồi, tôi hiện nay
sống ở sau núi, hy vọng Phật sự của tôi được làm theo nghi thức
táng lễ của nhà sư xuất gia.” Bách Trượng đại sư tức thì yêu cầu
chúng tăng chuẩn bị nghi thức của nhà sư viên tịch. Lúc này các
tăng chúng đều cảm thấy kinh ngạc, tất cả chúng tăng đều đầy đủ
cả, không có ai về Tây thiên, nào có tăng sư viên tịch chứ?
Bách Trượng đại sư dẫn chúng tăng đến hậu sơn, vào trong một
động khẩu dùng gậy moi ra một thi thể dã hồ, sau đó dùng nghi
74
thức Phật sư dùng lửa thiêu. Đoạn câu chuyện này trong Chỉ
Nguyệt Lục chính là nói đến người tu đạo khi đại pháp chưa rõ,
tham tu ngộ đạo có sự sai lệch, lạc bước vào lối mê, đánh mất
chánh giác, “bất lạc nhân quả” và “bất muội nhân quả” chỉ có chút
xíu khác biệt mà thôi, tuy nhiên nếu sai khác một li thì đã lệch ra
ngoài ngàn dặm rồi, cho nên người tu đạo không thể phủ định được
quy luật nhân quả.
“Bất lạc nhân quả” – tức muốn nói thoát ra phạm vi của nhân quả,
trở thành không có nhân quả.
“Bất muội nhân quả” – không thể phủ định nhân quả, có đắc được
nhân thì mới đắc được quả. Quả vị cũng chỉ ở trong nhân quả mà
thôi.
Người tu hành mật pháp vẫn phải có nhân quả, cũng giống như trời
mưa xuống vậy không có thiên vị chỗ nào cả, ánh mặt trời chiếu
sáng cũng đồng thời soi sáng cho cả loài côn trùng, người tu hành
mật pháp hiểu sai về nguồn gốc đại đạo, hoàn toàn chứng được
tính của hư không, kiến sắc minh không, hối quy tự tính, căn bản
sẽ không có phân biệt lớn nhỏ, ngắn ngủi, lâu dài, bản thân hay
người khác nữa, không chịu sự chi phối của pháp sinh diệt nữa,
phải có nhân tu pháp thì mới có quả của không chịu pháp sinh diệt,
tuyệt không phải biểu thị ý thoát ra khỏi phạm vi của nhân quả, trở
thành không có nhân quả.
Người tu hành nói đến nhân quả tức là trồng dưa được dưa, trồng
đậu được đậu, mối tương quan tuần hoàn này chính là cái vòng này
nối tiếp cái vòng khác, đây là một đạo lý chân thực nhất. Người
phản vọng quy chân chính là vì pháp mà phản vọng quy chân, là
“bất muội nhân quả”, chứ không phải “bất lạc nhân quả”, điểm này
là vô cùng quan trọng.
Có rất nhiều người hỏi tôi, có người tu chúng thiện, vừa ăn chay lại
vừa niệm chú, ngày đêm tinh tiến nhưng ngược lại gặp phải kiếp số,
rước lấy tai ương. Có người tạo ác nhiều, gặp phải người tu hành
niệm Phật như gặp phải yêu quái vậy, lúc nào cũng bức hiếp sĩ
nhục người tu hành nhưng cả đời lại được phúc báo, đại cát đại lợi,
75
vừa phú lại vừa quý, quan vận hanh thông, đây là nguyên nhân gì
vậy?
Thật ra thì nhân quả báo ứng vẫn không có sai lệch, hành thiện lại
gặp tai ương chỉ là do nghiệp báo của kiếp trước vẫn chưa dứt nên
mới gặp phải kiếp số tai họa, phải nên cố gắng hơn nữa để xóa
sạch hết ác nghiệp. Người ở kiếp này hành ác nhưng lại được phúc
báo chính là vì kiếp trước là một thiện nhân, thiện nghiệp vẫn chưa
báo hết, nếu như không tiếp tục tu thiện quả, khi thiện báo đã tận
thì nhất định ác báo sẽ tiếp nối. Người đời bởi vì nhìn không rõ ở
điểm này nên cho rằng không có nhân quả, liền phủ định nhân quả,
điều này rất là đáng sợ.
Trí tuệ và thiện căn cũng là do nhân quả sinh ra, có một số người
rất thông tuệ nhưng lại không có thiện căn, loại người này do kiếp
trước là yêu ma quỷ quái, sơn tinh thủy mị chuyển thế do đó sinh
ra rất đỗi thông minh, người càng thông minh thì càng náo loạn
nhân gian, luôn gây ra những chuyện xấu hại người, quấy loạn
Phật đức, thành tựu của loại người này càng lớn thì lực phá hoại lại
càng lớn.
Tuy nhiên cũng có một loại người có thiện căn nhưng lại không có
trí tuệ, đây cũng là do nghiệp báo nhân quả, là do kiếp trước làm
nhiều việc thiện, có được thiện căn, nhưng do chỉ biết làm việc
thiện mà không hề xem qua kinh điển nào cả, không có nghiên cứu,
trở thành người không có trí tuệ, trở thành tướng ngu si, tâm địa rất
tốt, muốn tu hành nhưng trí tuệ lại không có gì.
Báo ứng nhân quả là gì? Có người sinh ra đã xinh đẹp anh tuấn,
thọ mệnh lâu dài, phú quý không bệnh tật, đây chính là nhân quả
thiện báo. Có người sinh ra tướng mạo xấu xí vô cùng, thọ mệnh
cũng không dài, nghèo khổ bệnh tật, cả đời không đi lên được, đây
chính là nhân quả ác báo. Đây không phải là do lúc sinh ra không
bình đẳng mà là do nghiệp chướng kiếp trước gây nên, là do nhân
quả tạo thành.
Có người cho rằng nhân quả báo ứng quá nông cạn đi, chỉ là lớp sơ
cấp Phật học mà thôi, tuy nhiên lại không phải như vậy, Thập nhị
76
nhân duyên pháp của Bồ tát đắc chứng được đã nói rõ quan hệ
nhân quả của sinh mệnh luân chuyển, do nhân biến hóa không
ngừng, là tất cả biến hóa trong vũ trụ, chính là do nhân quả đang
âm thầm chi phối, loại quan hệ này rất phức tạp nhưng vô cùng kỳ
diệu, người nào muốn nghiên cứu loại học vấn này trên thực tế là
một chuyện vô cùng khó khăn.
Hành giả tu hành mật pháp là dùng mật pháp tự thân nỗ lực, trong
quá trình tu hành không ngừng thay đổi những kiếp số như họa,
tai…, không nhờ vào lực khác để tiêu trừ nghiệp chướng của kiếp
trước, chỉ cần có “pháp lực” thì sẽ có thể thay đổi được “túc mệnh”.
Người tu hành mật pháp là người rất giàu sức sáng tạo mệnh vận,
bởi vì đã có “pháp lực” tiêu trừ đi ác nghiệp để đắc được phúc, đây
là một sự đột phá to lớn, lấy “pháp lực” làm nhân, lấy “mệnh vận
thay đổi” làm quả. Cho nên đây là nhân quả, là bất muội nhân quả
vậy.
“Bất lạc nhân quả” là một cách nói sai lầm, ngày nay tôi viết ra
mật giáo đại pháp này chính là vì muốn giải thoát vận mệnh của
mọi người, mật môn vô thượng giúp thành Phật này, chúng sinh
nên phải nhận biết để theo đuổi, tìm hiểu, đắc chứng để từ đó có sự
siêu việt hoàn toàn.
77
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
16. Kiên Lao Kim Cương Kết Giới pháp
Trong số đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật có một vị là Đại Mục
Kiền Liên tôn giả, gọi là Thần thông đệ nhất. Tôn giả Thần thông
đệ nhất chính là do tu luyện Bí mật kỳ pháp mà có được, ông ta có
thể biến thân mình thành cực nhỏ, tự do chui xuyên qua lỗ chìa
khóa. Ông ta có thể biến thân thành vô cùng lớn, còn cao hơn cả
Tu Di Sơn, giẫm cả Tu Di Sơn dưới chân. Thân thể vô cùng nhẹ
nhàng, có thể chu du khắp Thiên cung, tùy ý đi lại. Ông ta chỉ cần
một chân là có thể giẫm lên địa cầu, một tay là vươn đến mặt trăng.
Ông ta cần thứ gì là lập tức có thứ ấy hiện ra, hoàn toàn tùy tâm
biến hóa, có thể tự xây dựng thiên cung của mình trong không
trung, có thể cư ngụ trong hư không. Ông ta có thể sử dụng tất cả
lực lượng trên mặt đất, có thể khiến Kiên Lao Địa Thần Kim
Cương đến giúp đỡ.
Kiên Lao Địa Thần nhắc đến ở đây chính là Kiên Lao Kim Cương,
vị này là Hộ Pháp Kim cương thần của mặt đất, có thần biến và
thần thông đại lực. Người viết trong một lần thiền định đột nhiên
cảm thấy toàn thân bốc lên không trung, trong lúc đang ngạc nhiên
thì nhận thấy hai chân của mình được người nào từ dưới đất thò hai
tay ra nâng bỗng lên, làm cho cơ thể bay lên, tôi sợ hãi vô cùng.
Người dưới đất nói: “Đừng sợ, đừng sợ, tôi là Kiên Lao Địa Thần
Kim Cương, là thần đã đắc được địa nghĩa, có thể làm cho địa
ngục kiên cố, ma không thể nhập vào, nhìn thấy Thượng sư thiền
định nên đặc biệt đến bố kết giới.” Về sau tôi biết được, Kiên Lao
Địa Thần vô cùng cung kính hộ trì những người nào tu tập chính
pháp. Do bởi Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng ban phước cho Kiên
Lao địa thần, lệnh cho dưới mặt đất sâu Thập lục vạn bát thiên du
cho đến Kim cương luân, tất cả các nơi đều do Kiên Lao Địa thần
hộ trì, phàm là muôn ngàn sự việc của mặt đất thì Kiên Lao Địa
thần đều biết rất rõ ràng.
78
Do bởi Kiên Lao Địa thần Kim Cương có đại lực và thần biến,
cũng có thể ban phước cho chúng sinh, có thể trị bệnh cho chúng
sinh, có thể cầu được thần thông, quan trọng hơn hết là có thể kết
giới, hàng phục các mối thù địch nhắm đến. Kiên Lao Địa thần
Kim Cương này do rất gần với nhân gian, chỉ cần chúng ta tu tập
thì sẽ rất nhanh sẽ có được tương ứng, theo tu tùy đắc được như ý
huyền diệu vô cùng. Ngày nay do cảm tạ sự đại tương ứng của
Kiên Lao Kim cương nên tôi sẽ công bố bí mật pháp mà thiên hạ ít
được nghe đến này ra.
Thời gian tu tập pháp này vô cùng đặc biệt, phải chọn vào ngày
Bát bạch, bởi vì ngày Bát bạch chính là ngày sao Bố sái xuất hiện
trên bầu trời, khi sao Bố Sái xuất hiện mà chúng ta tu luyện Kiên
Lao Địa Thần Kim cương thì nhất định sẽ cảm ứng, cầu tài được
tài, cầu bệnh khỏi ắt sẽ khỏi, cầu kết giới sẽ được kết giới, cầu thần
thông sẽ đắc thần thông. Sao Bố Sái chính là sao Kiên Lao Địa
Thần Kim Cương. Xin hãy ghi nhớ rõ, thời gian là vào tối ngày
Bát bạch khi sao trời xuất hiện.
Hãy chuẩn bị trước một căn phòng sạch sẽ, thiết lập đàn tràng, đàn
tràng này có thể thờ cúng Thích Ca Mâu Ni Phật giống như mật
đàn thông thường vậy. Thời gian chưa đến hãy tắm gội sạch sẽ,
chuẩn bị một ít vật phẩm cúng tế.
Tứ quy y, đại lễ bái, đại cúng dường, Tứ vô lượng tâm.
Trước tiên tụng chú chiêu mời Kiên Lao địa thần kim cương:
“Đán chí ta. Chích lí chích lí. Chủ lỗ chủ lỗ, cự lỗ cự lỗ. Câu trụ
câu trụ. Đố trụ đố trụ. Bác ha bác ha. Phạt xá phạt xá. Sa hạ.” Chú
này 108 lần.
Khi tụng xong 108 lần, hành giả có thiên nhãn thì có thể nhìn thấy
Kim Cương giá lâm, vị thần này đầu đội đại địa, chân giẫm đại địa,
hai tay giữ nhật nguyệt, ba mắt giận dữ, thân vận kim giáp. Nhìn
thấy chớ hoảng sợ, nên thành tâm cầu khấn thì sẽ được như nguyện,
lấy ra 5 sợi chỉ màu đặt trên bàn cúng, tiếp đó niệm thầm Kết giới
hộ thân chú:
79
“Đán chí tha. Nhĩ thất lí. Mạt xá yết trí nại trí củ trí. Bột địa lệ. Để
trí ti trí củ cú trí. Khư bà. Chích lí sa hạ.” Niệm chú một lần thì lấy
chỉ màu thắt một cái gút, tổng cộng niệm 21 lần, thắt 21 cái gút.
Loại chỉ ngũ sắc này có hai tác dụng, tác dụng thứ nhất, người tu
pháp mang trên mình thì lúc nào cũng được Kiên Lao Địa thần kim
cương tùy thân phù hộ, không sợ kẻ ác gia hại, phàm là tất cả ác
pháp đều không thể làm hại được là do đại địa kiên cố. Mang cho
người bệnh thì bệnh nhân sẽ có được pháp lực của đại địa kiên cố,
bệnh tật sẽ thuyên giảm nhanh chóng, mang cho người cầu thần
thông thì do nhờ có được pháp lực của Kiên Lao địa thần nên sẽ
nhanh chóng đắc được thần thông. Loại tác dụng thứ hai, dùng 4
sợi chỉ ngũ sắc kết tổng cộng 24 cái gút, lấy đàn tràng của người tu
pháp làm trung tâm, lấy chỉ ngũ sắc chôn ở giữa tứ phương Thổ địa
Đông Tây Nam Bắc, trong phạm vi chỉ ngũ sắc đã chôn kia thì quỷ
mị không thể tùy tiện tiến vào, một số thần cấp thấp cũng không
thể vào được, một số ma quỷ cũng không thể tự ý tiến vào, đây
chính là Kết giới pháp của Kiên Lao Địa Thần Kim cương.
Yếu quyết tu tập pháp này, khi đã niệm xong 108 lần chú chiêu
mời, để phần nghi thức thêm hoàn chỉnh cũng có thể kết ấn mời
gọi địa thần. Ấn này là tay trái nắm chặt Tam cổ Kim cương chử,
tay phải ngón cái gập vào lòng bàn tay, 4 ngón còn lại giương
thẳng ra, lòng bàn tay hướng ra ngoài, niệm 3 tiếng “sa hạ” với
giọng nhấn mạnh. Lúc này thì Kiên Lao Địa Thần Kim cương.
(Trong Kim Cương Thừa Tu pháp thì Độc cổ Kim cương chử kêu
là Kim cương châm, Tam cổ kêu là Kim Cương Chủy, Ngũ cổ kêu
là Kim Cương Nha hay là Đại tiếu Kim cương Xỉ, thông thường thì
đầu nhọn chia ra ý biểu thị phẫn nộ, hợp lại thì biểu thị ý từ bi).
Tu xong đàn pháp thì tiễn Kiên Lao Địa Thần trở về trong đại địa.
Hồi hướng. Nguyện độ chúng sinh.
Bản thân tôi cảm thấy, Kiên Lao Địa Thần Kim cương vào thời
Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng phát qua đại thệ nguyện muốn
chúng sinh được phúc báo vô lượng, chỉ cần chúng sinh thề nguyện
tu chánh pháp, hành thiện thì những Kim cương thần sẽ theo bên
80
mình để hộ trì, tâm trì Kiên Lao Địa Thần Kim Cương chú thì cầu
tài phúc được tài phúc, cầu thần thông được thần thông, cầu bệnh
khỏi, bệnh ắt khỏi, cầu kết giới đắc kết giới. Những ma sự quấy
nhiễu hoặc là trong đàn có người hạ ác phù uế vật, hoặc là người
ác dùng ác khí thì khi chúng ta dùng Kiên Lao Địa Thần Kim
Cương Kết giới pháp, tất cả ma chướng sẽ tự nhiên được tiêu trừ.
Bồ tát tu minh tuệ, an tâm trong Đại thừa pháp, nhưng vì những
tiểu nhân này quấy nhiễu cho nên không thể không tu Kết giới
pháp. Có như thế ánh sáng của trí tuệ mới có thể phổ chiếu, như
thế trong thiền định sẽ vô lai vô khứ, tất cả mật pháp đều có thể
tương ứng, người tu tập kỷ pháp bí mật đối với Kiên Lao Địa thần
Kim Cương pháp không thể không biết đến được.
81
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
17. Trong cảnh giới không thể tưởng tượng – Ma Lợi Chi
Thiên Ẩn hình mật pháp
Ở Đài Loan hay ở các nơi khác trên thế giới đều có rất nhiều người
đều biết đến Lư Thắng Ngạn. Ba chữ Lư Thắng Ngạn này đúng là
rất nổi tiếng, đi đến đâu cũng có người biết đến. Tuy nhiên ba chữ
này cũng là đại diện chịu phỉ báng, bởi vì cảnh giới của người này
quá cao, người đứng ở nơi cao, cây cao gió lớn, bị phỉ báng âu
cũng là chuyện khó tránh khỏi.
Có rất nhiều người suy đoán càn cảnh giới của tôi, không chỉ là rất
nhiều người mà thậm chí ngay cả học trò của tôi cũng suy đoán
càn cảnh giới của tôi. Tôi viết sách bắt đầu từ mức sơ cấp nhất là
“Khởi linh”, hiện nay viết đến Linh Tiên Kim Cương đại pháp, còn
nữa hay không chứ? Tôi xin thưa với độc giả là vẫn còn, hơn nữa
sẽ còn mãi, là vô cùng tận, tôi sẽ viết suốt cả đời, viết cho đến khi
già chết thì thôi, Phật pháp này vốn dĩ là không tận hết ý mà!
Tôi bị phỉ báng, đây cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên, không có chút
nào kì quái cả, bạn nếu như hơi chút thân cận chỉ dạy cho một học
trò nào đó thì các học trò khác sẽ phê bình bạn không công bằng.
Tôi giúp đỡ một học trò nào đó, các học trò khác cũng sẽ bất mãn.
Làm người khó chính là ở chỗ này.
Tôi chỉ cần có một chút xíu không hợp theo tâm ý của học trò thì
rất có thể người học trò ấy sẽ xem tôi như kẻ thù. Loại học trò này
của tôi cũng có không ít, tuy nhiên đây cũng chỉ là hiện tượng tự
nhiên mà thôi, Gia tô, Cơ đốc bị học trò Do Thái của mình bán
đứng ấy, đây chỉ là chuyện nhỏ rất đỗi bình thường, để làm một
nhà tu hành đắc được thành tựu lớn thì đây là những chuyện tất
phải trải qua.
Những người tu đạo thông thường phê bình và phỉ báng tôi thì có
rất nhiều, tôi được xem là một tiêu điểm, mọi người đồng loạt
82
phóng tên vào tôi, một lát thì mắng điều này, một lúc lại chửi điều
kia, những điều này tôi đều không mảy may xúc động trong lòng.
Khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, Đề Bà Đạt Đa là đồ đệ của
Phật đà, đồng thời quy y làm đệ tử Phật đà, nhưng do Đề Bà Đạt
Đa trong lòng có ước vọng quá cao nên đã bội phản Phật đà tự lập
Tông đoàn, hơn nữa còn định ám sát chết Phật đà. Khi Thích Ca
Mâu Ni Phật tại thế, số người Bà La Môn ngoại đạo âm mưu hãm
hại Phật đà nhiều đến không đếm xuể.
Tình cảnh của tôi hiện nay cũng giống như thế, số người phỉ báng
tôi đã cao như núi Tu Di rồi, mọi người suy đoán càn cảnh giới của
tôi, có người nói tôi là kẻ lừa gạt, cũng có người nói tôi là đại thiên
ma, có người nói tôi là tà ma ngoại đạo, có người lại dứt khoát bảo
tôi là “quỷ thông”. Nói chung là làm sao có thể đè Lư Thắng Ngạn
tôi xuống tận cùng thì những kẻ tu đạo ấy mới có thể xưng đệ nhất
được. Tuy nhiên, họ lại không biết rằng tôi đã chứng ngộ được đại
mật pháp, đã tiến nhập vào cảnh giới vô cùng huyền diệu rồi, ở
cảnh giới này là không có cách gì để suy đoán càn bậy được.
Trong cảnh giới vô cùng huyền diệu này sinh ra vô vàn Đà La Ni
Pháp, lại sinh ra Thập phương chư Phật, tôi có thể hàng phục được
yêu ma, chế phục tất cả ngoại đạo, ngồi trên hoa sen kim sắc, ở
trong cảnh giới không thể tưởng tượng này chuyển động vô thượng
pháp luân, có thể ở khắp thập phương thế giới mà đỉnh thụ ký cho
chúng sinh. Nhất tâm hóa thành vô tận ý tâm, từ đây vĩnh tọa bất
động. Cảnh giới như thế này, thành tựu lớn thế này thì ai có thể suy
đoán được chứ?
Buồn cười là có một số kẻ tu hành ngoại đạo lại dùng ác pháp để
hại tôi, muốn tôi bị trúng tiễn chết đi, lẽ nào họ lại không biết rằng
tôi đã đắc chứng được cảnh giới không thể tưởng tượng, mãi mãi
không chết, bản thân có thể hóa thành ánh sáng cầu vồng sao? Tôi
đã là Vô thượng pháp vương, có đại đà la ni, ở cảnh giới pháp thân
của tôi là viên giác chảy ra Bồ đề bà la mật tất cả thanh tịnh chân
như, đây chính là chứng ngộ của tôi.
Trong cảnh giới không thể tưởng tượng, tôi là Ma Ha Tất Đà Dạ.
83
Phóng đại quang minh chiếu thế gian.
Lục đạo tứ sinh li đảo huyền.
Tín Phật chúng sinh đắc chánh giác.
Tịnh cư hư không pháp luân hồi.
Tôi đã lãnh ngộ “Tham đồng khiết” của Hy Thiên đại sư: “Trúc sĩ
đại tiên tâm, đông tây mật tương phù: nhân căn hữu lợi đốn, đạo vô
nam bắc tổ. Linh nguyên minh hạo khiết, chi phái ám lưu chú;
chấp sự nguyên thị mê, khiết lí diệc phi ngộ. Môn môn nhất thiết
cảnh, hồi hỗ bất hồi hỗ; hồi nhi cánh tương thiệp, bất nhĩ y vị trú.
Sắc bổn thù chất dị, thanh nguyên dị lạc khổ; ám hợp thượng trung
ngôn, minh minh thanh trọc cú. Tứ đại tính tự phục, như tử đắc kỳ
mẫu; hỏa nhiệt phong động dao, thủy trệ địa kiên cố. Nhãn sắc nhĩ
âm thanh, tị hương thiệt dảm thố. Nhiên y nhất nhất pháp, y căn
diệp phân bố; bản mạt tu quy tông, tôn ti dụng kì ngữ. Đương minh
trung hữu ám, vật dĩ ám tương ngộ, đương án trung hữu minh, vật
dĩ minh tướng. Minh ám các tương đối, tỉ như tiền hậu bộ; vạn vật
tự hữu công, đương ngôn dụng cập xứ. Sự tồn hàm cái hợp, lý ứng
tiễn phong trụ; thừa ngôn tu hội tông, vật tự lập quy củ. Xúc mục
bất hội đạo, vận túc yên tri lộ; tiến bộ phi cận viễn, mê cách sơn hà
cố, cẩn viết tham huyền nhân, quang âm mạc xứ độ.”
“Tham đồng khiết” này là do Hy Thiên đại sư viết, bên trong có ẩn
chứa tư tưởng thiền tông, lấy nhất tâm làm căn cứ, nói rõ sự vô
ngại trong Hoa Nghiêm kinh cùng với tất cả cảnh giới tự tại, nhưng
tôi lại cho rằng bên trong còn nói rõ hơn về phương pháp “mật tu”,
người nào nếu như chưa đạt đến cảnh giới này thì xem Tham đồng
khiết sẽ không thể hiểu được.
Trong quyển thứ 37 của văn tập Cẩm nang thần kỳ, tôi đã từng
nhắc đến Ma Lợi Chi Thiên (Marici)Bồ Tát, Bồ Tát này có đại uy
đức, bên trong có đại mật pháp tránh tất cả các pháp thù địch, bây
giờ tôi sẽ tiết lộ cách tu luyện pháp này, các nhà đại tu hành đều
nhất định phải tu tập pháp này, có thể giúp tránh khỏi tất cả sự
công kích, đố kỵ của đồng đạo, mãi vĩnh viễn thường lạc ngã tịnh.
84
Ma Lợi Chi Thiên Ẩn Hình Đại Mật pháp như sau:
Tứ quy y, đại lễ bái, đại cúng dường, tứ vô lượng tâm.
Quán tưởng – Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát là hình tượng thiên nữ,
ngồi trên hoa sen, mão trên đầu có vô số chuỗi ngọc, tướng ngồi
nghiêm trang đoan chính, tay trái cầm một cây Thiên phiến, giống
như cây quạt của Thiên nữ trước Duy Ma Cật, tay phải buông
thỏng xuống, lòng bàn tay hướng ra ngoài, các ngón tay giương ra,
chính là Giữ nguyện ấn. Bồ tát này thân vận thiên y màu trắng. Khi
quán tưởng cũng có thể tưởng tượng có hai thiên nữ, tay cầm phất
trần màu trắng, đứng hầu hai bên Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát. Người
tu pháp này có thể mời vẽ họa tượng và đem họa tượng này treo
trong mật đàn để thờ cúng.
Ẩn hình thủ ấn khi quán tưởng – Người tu hành khi quán tưởng,
tay trái nắm quyền trống, ngón cái và ngón trỏ hợp lại thành một
vòng, ba ngón còn lại nắm quyền hợp khít lại, đặt ở phía trước
ngực. Trước tiên hãy tự cảm giác bản thân mình thu nhỏ lại, chui
vào trong lỗ lòng bàn tay của tay trái. Sau đó tay phải xòe phẳng ra
đậy lên trên lỗ nắm quyền trống của tay trái. Lúc này bản thân tiến
nhập vào trong thủ ấn ẩn hình của bản thân. Trong quan niệm thì
thủ ấn ẩn hình này chính là pháp thân của Ma Lợi Chi Thiên Bồ
Tát, người tu hành đã ẩn vào trong tâm của Ma Lợi Chi Thiên Bồ
Tát, một lòng chuyên chú tu tập thì Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát sẽ
phóng ánh bạch quang để phủ lấy bản thân.
Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát Tâm chú – “Nam ma tam mãn đa một đạ
nam. Ông. Ma lí chi. Sa bà hạ”. (Nama Samanta Buddhanam. Om
Marichi Svaha). Câu chú ngữ này tổng cộng niệm 108 lần. Đây
chính là Bồ Tát tâm chú.
Phát nguyện hồi hướng.
Tu tập Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát thì kẻ địch sẽ không thể nào công
kích được bản thân. Cứ lấy người viết làm minh chứng, tuy là bị
phỉ báng rất nhiều, lắm kẻ lưu manh muốn ám hại, tầng tầng lớp
lớp bức hại không dứt, cũng đã có đến cả trăm lần xông qua cửa
sinh tử. Thế nhưng cho đến nay vẫn ẩn thân tự tại, đây là do bởi tôi
85
tu tập, thờ cúng Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát và tu Ma Lợi Chi Thiên
Bồ Tát Ẩn hình pháp. Cảnh giới của Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát
chính là một ngôi sao lớn ẩn hình ở xung quanh mặt trời. Mật pháp
này có đại cảm ứng, Bồ Tát này có đại thần thông. Người viết từ
Đông phương ẩn cư đến Tây phương, cũng là nhờ có Ma Lợi Chi
Thiên Bồ Tát phù hộ độ trì nên mới không bị kẻ ác hãm hại.
Nay tôi sẽ viết ra nguyên văn Phật giảng về Ma Lợi Chi Thiên
Kinh như sau:
Như thị ngã văn, nhất thời Bà Già Phạn (Bhagavan – Đức Thế Tôn)
tại Xá Vệ quốc chi thụ cấp cô độc viên dữ đại tì khưu chúng thiên
nhị bách ngũ thập nhân cụ. Nhĩ thời Phật cáo chư tì khưu, hữu
thiên danh Ma Lợi Chi Thiên, thường hành nhật tiền, bỉ Ma Lợi
Chi Thiên vô nhân năng kiến, vô nhân năng tróc, bất vị nhân khi
cuồng, bất vị nhân thúc, bất vị nhân trái kì tài vật, bất vị oan gia
năng đắc kì tiện. Phật cáo chư tì khưu, nhược hữu nhân tri bỉ Ma
Lợi Chi Thiên danh giả, bỉ nhân diệc bất khả kiến, diệc bất khả
tróc, bất vị nhân khi cuồng, bất vị nhân thúc, bất vị nhân trái kì tài
vật, bất vị oan gia năng đắc kì tiện. Phật cáo chư tì khưu, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị Ma Lợi Chi Thiên danh
giả, ứng tác thị ngôn, ngã đệ tử mỗ giáp tri bỉ Ma Lợi Chi Thiên
danh, cố vô nhân năng kiến ngã, vô nhân năng tróc ngã, bất vị
nhân khi cuồng ngã, bất vị nhân thúc ngã, bất vị nhân trái ngã tài
vật, bất vị oan gia năng đắc ngã tiện, nhĩ thời Thế tôn tức thuyết
chú viết: “Đán chí tha. An già mạt tư. Mạt già mạt tư. Chi bà la
mạt tư. Ma Ha Chi Bà la mạt tư. An đa lợi. Đà na ma sa ha.”
Khi đi đường thì phù hộ bản thân, khi không đi đường cũng phù hộ
bản thân, ngày đêm đều phù hộ, đối với oan gia thù ác cũng phù hộ
bản thân, với nạn tai triều đình cũng phù hộ, tặc nạn cũng phù hộ,
tất cả mọi nơi mọi lúc đều phù hộ bản thân, đệ tử mỗ giáp sa bà ha.
Phật nói với chư Tì khưu, nếu như có thiện nam, thiện nữ, tì khưu,
tì ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, đại thần cùng với nhân
dân… nghe đến Ma Lợi Chi Thiên Đà La Ni, nhất tâm thọ trì thì sẽ
không bị những tai ác trên hãm hại.
86
Phật nói với chư tì khưu, nếu như có người có thể viết chữ tụng
niệm, thọ trì, mang trong búi tóc hay trong quần áo, khi đi mang
theo bên thân mình thì tất cả các tai ác đều có thể đẩy lùi, không
dám phạm đến, lúc đó chư tì khưu nghe Phật nói thế đều rất lấy
làm vui vẻ làm theo lời.
Căn cứ theo nhiều người nghiên cứu về Ma Lợi Chi Thiên Bồ tát
thì thân Bồ tát là màu vàng, hóa trang theo hình tướng nữ, giống
như Thiên nữ, thân vận y phục màu trắng, đầu đội Bảo tháp quán,
tả thủ cầm Thiên phiến, hữu thủ kết Giữ nguyện ấn. Có hình lại vẽ
ngài ngồi trên một con heo màu vàng, xung quanh ngài có một đàn
heo vây quanh. Hình tượng này chính là tướng Đấu mẫu tinh quân
của Đạo gia. Đấu mẫu tinh cũng hộ vệ thái dương, Ma Lợi Chi
Thiên Bồ Tát cũng giống như thế, ấn chứng như nhau, Ma Lợi Chi
Thiên Bồ Tát ở trong miệng Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Đấu
Mẫu Tinh quân của Đạo gia, Phật và Đạo có những điểm tương
hợp với nhau, đây chính là điểm kỳ diệu.
Có rất nhiều cho rằng, Lư Thắng Ngạn hưởng được danh tiếng lớn,
danh lợi đều có đủ, nhưng bọn họ nào biết rằng tôi là người sống
sót từ trong cái chết, tôi từ đường Tiến Hóa ở Đài Trung dọn đến
đường Tinh Võ, từ đường Tinh Võ lại dọn đến khu cư xá Nghi Hân,
từ khu cư xá Nghi Hân lại dọn đến cao ốc Lạc Quần, từ cao ốc Lạc
Quần dọn đến thôn Tân Quang, từ thôn Tân Quang chuyển qua
Seattle thuộc Hoa Kỳ, từ Seattle dọn đến Lôi Môn, từ Lôi Môn dọn
đến Bắc Hải đảo của Nhật Bản….Đây chính là con đường tìm sự
sống trong cuộc đời tôi, hoặc giả là có người cho rằng tôi nói quá
lên, kỳ thực ra tôi dọn nhà như thế không phải là do tôi muốn dọn
nhà, bậc đại tu hành có rất nhiều sự đố kỵ, phải đề phòng kẻ xấu
hãm hại nên không thể không dọn nhà. Cũng giống như kẻ du đãng
nơi dã thảo sơn lâm được mời ra nơi chốn thị thành vậy, nếu như
tôi không được Bồ tát phù hộ thì sớm đã vong thân nơi xứ người
rồi, tuy nhiên đây chỉ là một trong những sự bức hại mà thôi. Nếu
như tôi không tu tập Ma Lợi Chi Thiên Ần Hình ấn pháp, không
niệm Cao Vương Quan Thế Âm chân kinh thì tôi chẳng những đã
phát điên mà còn bị chém nữa. Đợi đến lúc tôi về già, tôi sẽ đem
87
tất cả các khổ nạn mà bản thân trải qua đều thổ lộ ra hết. Những
nỗi niềm ẩn chứa bên trong so với Đường Tam Tạng trong Tây Du
Ký khi tất cả các yêu ma đều muốn ăn thịt ông ấy thì những tai
ương mà tôi gặp phải há chẳng phải cũng giống như thế sao!
Tôi tu luyện Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát pháp, Ma Lợi Chi Thiên Bồ
Tát chính là hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, nguyệt luân của Tỳ
Lô Giá Na Phật phóng ra ánh sáng soi chiếu khắp nơi, hóa thành
Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, vì vậy khi quán tưởng cũng có thể quán
tưởng Tỳ Lô Giá Na Phật trước, Bồ tát này có đại lực thần thông,
có thể nói là “vô năng thắng”.
Mỗi lần tôi dọn nhà đều là do có Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát nói với
tôi rằng có người đến hãm hại tôi, hãy mau mau tránh đi! Thế là tôi
dọn nhà. Đối với những khổ sở mà bậc đại tu hành như tôi phải trải
qua thì người thế nhân sẽ không thể nào biết được. Thiên địa nhân
tam ma bức hại lẫn nhau, còn tôi có thể không phát điên, không bị
chết đó là do tôi đã tiến nhập vào cảnh giới không thể tưởng tượng
rồi. Tôi tu vạn pháp, vạn pháp đều tương ứng, tôi tu chúng pháp,
pháp pháp đều tương ứng, đó cũng chính là nguyên nhân mà cho
đến ngày nay tôi vẫn chưa chết, đây chính là “thường lạc ngã tịnh”.
Tôi còn lưu lại ở nhân gian thì tôi sẽ truyền “Thiền định Vô thượng
đại thủ ấn” Kim cương mật pháp khắp cả thế giới, Vô thượng mật
pháp này vốn từ lâu đã không truyền, hôm nay nếu tôi vẫn không
truyền lại thì có người nào dám nói rằng đây chính là đại mật pháp
giúp tôi hết lần này đến lần khác vẫn không chết. Sách này trân
quý vô cùng, không thể lấy gì để so sánh được.
88
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
18. Đắc được Ngũ bí mật của tâm chính là Pháp vương
Có người hỏi tôi: “Lư Thượng sư, ngài đã học được gì từ Đại Bảo
pháp vương đời thứ 16 ?”
“Ngũ bí mật tâm.” Tôi trả lời.
“Học như thế nào?”
“Bắt đầu từ Tứ Gia Hành rồi đến Thượng sư tương ứng, sau đó từ
thượng sư tương ứng đến Bản tôn, từ bản tôn đến Thắng Lạc kim
Cương và Kim Cương Hợi Mẫu, từ Thắng Lạc Kim Cương đến Vô
Thượng Mật, như thế sẽ đắc được Ngũ Bí Mật tâm.”
“ Như hôm nay, Hồng Quán Thánh Miễn Kim Cương Thượng sư
là thân phận gì ?”
“Đắc được Ngũ Bí Mật tâm thì chính là pháp vương. Những người
theo tôi học đều là pháp vương tử.”
Có người lại hỏi là: “Xin hỏi Pháp Vương Thượng sư, tư cách như
thế nào mới có thể xưng là Pháp Vương?.”
“Con hãy nghe cho rõ, ta sẽ giải thích như sau.” Tôi nói: “Thích Ca
Mâu Ni Phật chính là đại pháp vương.”
“Phúc đức và trí tuệ đều vô cùng to lớn như nhau, tất cả Phật ở
thập phương tam thế đều đến để hộ trì vị này, không những như
thế ngày ngày đều dựa theo giáo lý tinh tiến thì Thập phương Bồ
Tát cũng thường xuyên đến chiêm ngưỡng, tất cả đi, đừng, nằm,
ngồi, đều thiền định đại thủ ấn. Lúc này, Thiên Long Bát Bộ đều ở
xung quanh người này, thị hầu trên trời đứng hai bên trái phải, Tứ
Đại Thiên Vương Kim Cương cũng đến cúng dường, Thiên ma
quỳ xuống trước mặt để cầu nhiếp thụ, Đại Phạm Thiên vương thì
đứng một bên chắp tay ngay ngắn, từ thượng giới đến đến Tứ
Thiên Vương thiên đều rải hương hoa, Kiên Lao địa thần lấy Địa
bảo làm pháp toạ cho pháp vương, có Càn Thát Bà tấu diễn thiên
89
nhạc, Khẩn Na La hát diệu âm, tất cả muôn ngàn thần, tướng, Kim
cương thần đều cầm pháp khí hộ trì một cách trang nghiêm, Kim
Cương tường, Kim Cương võng, Kim Cương hoả tầng tầng bao
vây xung quanh, từ trước đến nay những hộ pháp Kim Cương này
đều không rời khỏi Pháp vương giây phút nào, Pháp vương chính
là Như Lai.
“Pháp vương phát nguyện tâm Bồ Đề, kiếp này làm người hướng
dẫn cho chúng sinh, lúc lâm chung đã hóa theo ước nguyện, hoặc
là bay lên trời, hoặc là hóa thành quả vô thượng, hoặc chuyển thế
để hoá độ lục đạo chúng sinh, cũng giống như mặt trời soi sáng
vậy, chiếu rọi khắp mọi nơi, thường thi hành dược pháp diệu kỳ, tế
thế cứu độ vô số người, diệt trừ tham sân si của chúng sinh, hóa
thân thành con thuyền đưa người vượt qua biển khổ để cùng đến
được bờ bên kia.”
“Tư cách của pháp vương là đã tu thành Phật quả, hoàn toàn vượt
qua Tam Đại A Tăng Chỉ Kiếp, từ tấm thân còn chỗ sai sót khiếm
khuyết tu thành tấm thân không còn khuyết điểm nữa, đắc được
Ngũ Bí Mật tâm, cùng quả vị với Thập Địa Bồ Tát, đã có đại tuệ
nhãn, đạt như vậy thì chính là đại pháp vương.”
“Muốn tu thành Phật căn bản nhất là gì?” Có người hỏi.
“Trước tiên tìm được Thượng sư truyền pháp chân chính.”
“Tiếp theo là gì nữa?”
“Đắc được pháp thì cần kiên trì tu tập tinh tiến. Hiểu được tất cả
quy tắc lễ pháp.”
“Tiếp theo là gì nữa?”
“Nhận biết rõ ràng Ma hay là Phật, tự tịnh thân khẩu ý, không để
vọng tâm tuỳ lưu, không oán giận không phỉ báng.”
Người nào tu pháp không thể thành Phật vậy?”
“Là người trí tuệ nông cạn mà trái lại oán giận thánh hiền, đối với
đại pháp Mật môn sinh lòng nghi ngờ phỉ báng. Chúng sinh nghiệp
chướng tuy nặng, nhưng chỉ cần tu tập đều dẫu là pháp nho nhỏ thì
90
mọi Kim cương thần sẽ đều vỗ tay khen ngợi, đây giống như là hạt
giống trong Bát Thức điền nẩy mầm, sớm muộn cũng sẽ phát triển
thành cây cổ thụ cao lớn!”
“Thế nhân duyên cạn, kiến thức thì mỏng manh, lòng nghi ngờ lại
quá nặng, khiến cho thành kiến bản thân trở thành trùng trùng núi
cao, biển rộng, ngọn lửa vô minh và lòng đố kỵ gây nên ngăn cách
trở ngại, giữa các Tông phái với nhau không có cách nào dung hòa
cả. Người chứng đắc chân chính rất ít, đây là pháp môn tương ứng
được các chư Phật tương truyền lại, là bí mật vô thượng nhất, cho
nên người đắc được Ngũ bí mật tâm chẳng tìm được mấy người .
Còn những kẻ chưa nhìn thấy thì kiến thức nông cạn, tự nhiên sẽ
dễ sinh tâm phỉ báng. Đối với Ngũ bí mật tâm này thì những kẻ trí
tuệ thấp kém há có thể thông hiểu sao?”
“Thế nào gọi là Ngũ bí mật tâm?”
“Tôi không thể nói quá rõ ràng, nhưng tôi chỉ nói đến một tầng ở
phía bên ngoài thôi, Ngũ bí mật này là: dưới chân tôi xuất hiện ánh
bạch quang của địa luân. Tề luân của tôi có ánh sáng màu ánh
trăng, tâm luân của tôi có ánh sáng đại trí tuệ của ánh mặt trời, mi
tâm luân của tôi có đại uy quang với màu vàng lửa. Đỉnh luân của
tôi có vầng hào quang trắng tụ lại, chiếu sáng khắp toàn thân. Biểu
tướng bên ngoài của Ngũ Bí mật tâm chính là như thế. Tu chứng
được như vậy cũng chính là pháp vương.”
“Có người phỉ báng thì Pháp vương Thượng sư có cách nào để trị?”
Có người lại hỏi.
“Kỳ thực người đắc chứng được pháp trong pháp, vương trong
vương thì trong lòng họ đã vô cùng bình đẳng. Đối với mọi Lục
đạo chúng sinh đều có từ tâm, người làm việc thiện thì tất nhiên
anh ta sẽ được độ hóa, còn làm việc ác thì vẫn ương như nhau, phải
đối đãi hoàn toàn bình đẳng. Những người được gọi là đại ác nhân
đó kỳ thực là do tâm ma hoang tưởng sinh ra, nếu như đại ác nhân
đó trừ được tội chướng, trong lòng khai ngộ, buông bỏ đồ đao thì
vẫn có thể tu tập Đại Mật pháp vô thượng như thường, đây tức là
91
vén mây đi để mặt trời trí tuệ xuất hiện, để mọi người có thể thành
Phật. Chúng ta không thể dùng pháp để trị người ác”.
“Nói như vậy, Pháp vương thật là đại từ bi rồi.” Có người nói .
Hôm nay tôi nói thật cho quý độc giả biết, đạo tràng Linh Sơn Tịnh
Xá ở Seattle, Hoa Kỳ, pháp duyên nơi này thật quá tốt đẹp, người
trên toàn thế đều đến quy y, những người sống ở những miền xa
xôi trên thế giới như Lạt Ma, Nhân Ba Thiết, Mật giáo thượng sư,
Ấn Độ tăng lữ, Ấn Độ giáo sĩ, Sikkim giáo sĩ…thì luôn đến viếng
thăm, kể cả trung tâm nghiên cứu ngữ văn Tây Tạng, Trung tâm
Hồng giáo đều phái người đến viếng thăm. Đến cả hiệp hội Tâm
linh Hoa Kỳ cũng phái người đến phỏng vấn.
Thích Ca Mâu Ni Phật vĩ đại chính là đại pháp vương, trí tuệ của
Như Lai giống như nước biển vô bờ bến, do vậy biết được mọi ý
nghĩa của bí mật Kim Cương. Tất cả mọi người hãy nhanh nhanh
tu chứng Tất địa.
Tôi nói bậc Pháp vương chân chính tức là Thích Ca Mâu Ni Phật.
92
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
19.Thắng Lạc Kim Cương Đại pháp - Đại công khai Thắng Lạc
Kim Cương, pháp môn tối thù thắng của Bạch giáo
Bài viết này là một trong những thiên cơ đại pháp. Đặc biệt nói rõ
như sau:
Người chưa quy y và chưa quán đảnh Mật giáo thì nghiêm cấm
học, phải do Thượng sư chính thống của Mật giáo chỉ dẫn thì mới
có thể tu học.
Thắng Lạc Kim cương đại pháp là một trong ngũ đại kim cương
pháp, tu tập Thắng Lạc kim cương đại pháp này chỉ cần có phương
pháp đúng đắn thì có thể thành Phật. Do đại pháp thì cơ mật, mà
đạo lý lại tương đối thâm sâu, người đọc hãy từ từ tìm hiểu thì mới
có được ngộ cảnh. Lễ nghi tu tập pháp này như sau:
Tứ quy y, đại cúng dường:
Quy y Mật giáo Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư,
Mật hành tôn giả Tổng nhiếp Tam bảo Liên Sinh Thượng sư. Một
bái.
Quy y chư Phật ngũ luân tổng thể. Vụ trũ bản thức. Nhất bái.
Quy y tam Tạng thập nhị bộ chính pháp. Nhất bái.
Quy y đẳng hư không giới, tự cổ chí kim chứng Bồ Tát chi Tăng
Già Thánh giả. Nhất bái.
Phát Bồ Đề tâm:
Vô thượng mật không hành mẫu. Thị vi Ngũ luân tổng pháp chủ.
Phật cập Bồ Tát kiêm pháp chúng. Thề nguyện tu trì vĩnh quy y.
Vị độ chúng sinh thăng Phật quốc. Tự ngã thành tựu phẫn nộ tôn.
Chúng sinh giai tu Vô Thượng pháp. Cộng giai thành đắc tối
thượng vị.
Phát tứ Vô lượng tâm:
93
Nguyện mọi chúng sinh mãi được an lạc và đắc nguồn lạc.
Nguyện chúng sinh mãi xa rời đau khổ và nguồn khổ,
Nguyện chúng sinh đắc được an lạc không đau khổ,
Nguyện mọi chúng sinh xa rời tam độc: tham lam, tức giận, ngu si
để được bình đẳng trí
Quán tưởng: (dùng tư thế ngồi)
Hãy “quán không” trước, tâm chú là: “Ông. Học ni đả giá na ban
trát nhĩ. Sở bá ngoã. A mã quả hàng.” (OM SVABHAVA
SUDDHA SARVA DHARMA SVABHAVA SUDDHO HAM)
Quán tưởng trong hư không có chữ “Bảng” (PAM) bằng chữ Phạn
xuất hiện và phát sáng, xoay vòng rồi hóa thành một đóa hoa sen 8
cánh ngũ sắc mỹ lệ, trên hoa xuất hiện Nhật luân, phía bên phải
trên Nhật luân xuất hiện một vị Phật mẫu, phía bên trái có một
hình tướng uy mãnh của đại tự tại.
Nhật luân xuất hiện chữ “Hồng” (HUM) bằng Phạn ngữ, phóng ra
ánh sáng ngũ sắc để chiêu thỉnh thập phương chư Phật gia trì, ánh
sáng màu đỏ cùng quang minh, trí tuệ, công đức của chư Phật cùng
tiến nhập vào trong chữ “Hồng”, biến thành một cây Kim cương
chử (chày kim cang) năm chấu. Giữa trung tâm của Kim cương
chử 5 đầu có một chữ “Hồng” phát ra ánh sáng, chiếu rọi khắp cả
thế gian, tất cả chúng sinh đều biến thành hình tượng Phẫn nộ tôn,
do đó chúng sinh đều tiến nhập vào trong quang minh của chữ
“Hồng” này. (Quán tưởng chính là tưởng niệm, cần phải phân biệt
từng cái rõ ràng).
Tiếp đó tưởng niệm chữ “Hồng” này biến thành Thắng Lạc Kim
Cương. Thắng Lạc Kim Cương có màu xanh da trời, có một đầu
hai tay, tay trái cầm chuông Kim cương, tay phải cầm chày Kim
cương, hai tay bắt vào nhau. Đầu của Thắng Lạc Kim Cương tóc
được búi cao, trên búi tóc có cắm một cây Yết Ma chử. Bên trái
cây chử này vòng bán nguyệt, trên cây chử có trang trí nhiều ngọc
Ma ni, trên đầu Thắng Lạc Kim cương đội mão có 5 cái khô lâu,
trước ngực Kim cương có treo 50 cái đầu người máu tươi, lỗ tai
94
đeo khuyên, tay mang vòng tay, cổ đeo vòng ngực, tất cả đều mang
dây chuỗi bằng xương người. Ở thắt lưng Kim cương vận quần da
hổ, chân phải giương ra với hình tượng đang tung đá, chân trái
giẫm chặt đại tự tại. Nét mặt đang phẫn nộ.
Tiếp đó tưởng niệm về Phật Mẫu, Phật Mẫu có một đầu hai tay, tóc
nửa xõa nửa búi lên, trên đầu cũng đội mão Ngũ Khô lâu, cổ đeo
50 cái đầu người máu tươi, tay phải cầm dao cong, dựa bên vai trái
của Thắng Lạc Kim Cương, tay trái cầm Thiên Linh cái đựng đầy
máu tươi, đặt bên miệng của Thắng Lạc Kim Cương để dâng lên
cho Thắng Lạc Kim Cương uống, chân trái với hình tượng đang
tung đá, chân phải co lại đặt ở eo của Thắng Lạc Kim Cương.
Cùng đứng trong ánh lửa quang minh trí tuệ đang bốc cháy. Thắng
Lạc Kim Cương và Phật mẫu xung quanh thân mình đều có mang
xâu chuỗi xương người rất đỗi trang nghiêm. Cả Thắng Lạc Kim
Cương và Phật mẫu đều lộ ra uy quang ba mắt, với hình tướng
phẫn nộ.
Kế đó tưởng niệm rằng bốn hướng có 4 cánh hoa sen, trên mỗi
cánh hoa sen đều xuất hiện nhật luân, trên nhật luân có thi thể của
người đã mất, trên thi thể này có vị Không Hành Mẫu đang đứng.
Hướng đông là Trát Cách Ni Không Hành Mẫu có màu lam nhạt,
hướng Bắc là Lạp Mỹ Không Hành Mẫu màu xanh lục, hướng Tây
là Kiên Giáp Lạc Hách Không Hành Mẫu màu đỏ, hướng Nam là
Nhữ Tỉ Ni Không Hành Mẫu màu vàng. Tất cả các Không Hành
Mẫu đều cầm Thiên Linh Cái đựng đầy máu tươi trong tay trái và
đặt trước ngực, cổ tay trái ôm Khách Chương Cát, tay phải cầm
dao cong vung lên, chân trái co lại, chân phải giương ra, tư thế
cũng giống như Thắng Lạc Kim Cương, ba mắt lộ uy quang, hình
tướng phẫn nộ.
Tiếp đó tưởng niệm, đóa hoa sen 8 cánh ngũ sắc trong tâm của
Thắng Lạc Kim Cương, ở giữa Yết Ma chử trên Nguyệt luân có
Nhật luân, trên Nhật luân hiện lên chữ “Hồng” màu xanh lam,
xung quanh chú tự có ánh sáng vây bọc, trong pháp cung tam giác
tọa trong thân của Phật mẫu hiện lên chữ “Bảng” màu đỏ, xung
quanh cũng có chú tự phát sáng vây bọc, nhật luân tâm liên của
95
Không Hành mẫu màu xanh lam nhạt ở hướng đông là chữ
“Mãng”, Không Hành mẫu màu xanh lục ở hướng Bắc là chữ
“Đảng”, Không Hành mẫu màu đỏ ở hướng Tây là chữ “Bàng”,
Không Hành Mẫu màu vàng ở hướng Nam là chữ “Lãng”. (Những
chữ này đều là chữ Phạn)
Tiếp đó tưởng niệm, chữ “Hồng” màu xanh lam trong tâm của
Thắng Lạc Kim cương phóng ra đại quang minh, chiêu thỉnh Thập
phương chư Phật và Thắng Lạc Phật phụ và Phật mẫu cùng giáng
lâm, đại quang minh này sẽ từ đỉnh đầu vào trong thân của người
tu hành.
(50 cái đầu lâu máu tươi đeo trước ngực Thắng Lạc Kim Cương
đại biểu cho 50 chữ cái trong Phạn văn, dùng dây chuỗi xương
người để biểu thị lục độ viên mãn, đầu đội Ngũ Khô Lâu quán là
để biểu hiện thể tính Ngũ Phật, máu tươi biểu thị cam lộ, Thiên
Linh Cái biểu thị Bảo bình, đây là những ý nghĩa tượng trưng của
những vật này, người tu học cần biết rõ.)
Thủ ấn:
Trong tất cả quán tưởng và tưởng niệm thì thủ ấn của người tu tập
là Giao Bào ấn, tức là tay trái và tay phải giao chéo nhau, cũng tức
là hai ngón tay cái chạm vào nhau, ngón trỏ tay phải, ngón trỏ tay
trái, ngón giữa tay phải, ngón giữa tay trái, ngón vô danh tay phải,
ngón vô danh tay trái, ngón út tay phải, ngón út tay trái, cứ tuần tự
theo thứ tự giao với nhau.
Niệm tâm chú:
Thắng Lạc Kim cương tâm chú: “Ông. Xá. Cáp Cáp. Hồng Hồng
Phôi.”
Phật Mẫu tâm chú: “Ông. Ban trát. Mạch nhược trát. Dã. Hồng
hồng phách.”
Tâm chú của Thắng Lạc Kim Cương và tâm chú của Phật Mẫu mỗi
loại niệm 108 lần, có thể đếm chuỗi hạt, không cần phải kết ấn.
Tịnh tưởng quan tọa:
96
Trước tiên nghĩ về tề luân của bản thân có đóa hoa sen 4 cánh, đóa
hoa sen này có màu đỏ, trong hoa hiện lên một làn khói hương,
trong khói hương xuất hiện một chữ chú màu xanh lam, thông qua
hữu mạch trong tam mạch đi lên cao, rồi đi ra từ lỗ mũi phải, bay
lên trên không trung xuất hiện ra một vị Thắng Lạc Kim cương,
Kim cương đang phát quang soi chiếu thập phương thế giới chúng
sinh, giúp tất cả tội nghiệt chúng sinh sẽ được tiêu trừ. Sau đó
Thắng Lạc Kim cương ở đàn thành sẽ lại hóa thành chú tự quang
minh, kế đó đi vào tả mạch từ lỗ mũi trái, rồi nhập vào giữa đóa
hoa sen màu đỏ ở tề luân. Cứ như vậy tuần hoàn chuyển động 7 lần.
Nhập Tam Ma địa:
Nhập vào Tam Ma địa này chính là Minh điểm nội hỏa của Du già,
trước tiên làm chuyết hỏa bốc lên cao đến tề luân để đốt cháy chú
tự màu đỏ, kế đó để chuyết hỏa bốc lên đến tâm luân đốt cháy chú
tự màu xanh lam ở tâm luân, rồi lại dâng chuyết hỏa đến hầu luân
đốt cháy chú tự màu đỏ ở Hầu luân, tiếp đó dâng chuyết hỏa đến
Mi tâm luân đốt cháy chú tự màu trắng, lúc này chuyết hỏa đã đi
khắp toàn thân sẽ tiêu trừ đi sạch sẽ toàn bộ cách tội chướng mà
hành giả đã phạm phải từ trước giờ. Lúc này quang minh của Thập
phương chư Phật sẽ đổ vào bản thân của hành giả, công đức trí tuệ
của Thập phương chư Phật sẽ trở thành công đức trí tuệ của bản
thân, cam lộ thủy sẽ nhập vào từ đỉnh giúp cho thân tâm giữ được
trạng thái đại lạc vĩnh hằng, dòng cam lộ thủy này sẽ tuôn chảy
mãi đến tề luân để tạo ra niềm đại lạc vô hạn, đây chính là tương
ứng của Thắng Lạc Kim Cương.
Niệm tứ Không Hành mẫu gia trì:
Tâm chú của Đông Không hành mẫu: “Ông. Giáp Cách dĩ nặc. Dã.
Hồng hồng phôi.”
Tâm chú của Bắc Không hành mẫu: “Ông. Lạp mỹ. Hồng hồng
phôi.”
Tâm chú của Tây Không hành mẫu: “Ông. Kiên giáp lạc hải. Hồng
hồng phôi.”
97
Tâm chú của Nam Không hành mẫu: “Ông. Nhữ tỉ nặc dã. Hồng
hồng phôi.”
Tâm chú của Tứ Không hành mẫu trên đây, mỗi loại niệm 21 lần.
(Tay đếm chuỗi hạt.)
Phụng tống Thắng Lạc Kim Cương:
Để Thắng Lạc Kim cương trong bản thân hiện ra từ đỉnh, Phật mẫu
sẽ nhập vào trong thân của Thắng Lạc Kim Cương, Thắng Lạc
Kim Cương hóa thành chữ “Hồng”, tất cả quang minh hóa thành
tính không.
Bài kệ tụng:
Bạch giáo chủ tôn na lạc ba. Mễ lặc chí tôn cam ba ba.
Hồng quán thánh chủ liên sinh giả. Chư tôn thượng sư đại cát
tường.
Nhất thiết chư Phật đại từ bi. Cam lộ quán đảnh đại Thắng Lạc.
Tu trì mật pháp vô gian đoạn. Do thử chúng sinh giai thành Phật.
Kính lễ uy đức Thắng Lạc tôn. Thanh tịnh tự tại Kim cương vương.
Tối thắng pháp vương đại thành tựu.
Công đức mĩ dụ giai tăng trưởng.
Hồi hướng:
Nguyện ngã tốc đắc đại thành tựu
Do Thắng Lạc tôn đắc an lạc
Phổ độ chúng sinh chư hữu thiện
Đồng đăng tối thượng cực lạc thổ.
Niệm Bách tự minh chú (3 lần)
Đại lễ bái. Xuất đàn.
Người viết học tập Thắng Lạc Kim cương đại pháp này chính là
một trong những pháp bí mật của Đại Bảo Pháp vương đời thứ 16,
do chính đệ tử của vị này truyền lại cho tôi, pháp này có thể làm
việc, lợi ích nhân thiên. Thí dụ như Pháp tiêu tai có thể quán tưởng
98
ánh sáng trắng như một vòng tròn tỏa ánh sáng ra bốn phía, tiêu trừ
tội chướng của chúng sinh, tội chướng được tiêu trừ, tất nhiên sẽ
có thể tiêu tai.
Nếu như là pháp Tăng ích, quán tưởng ánh sáng màu vàng, cũng là
một vòng tròn tỏa ánh sáng ra khắp nơi, giúp cho chúng sinh trong
thiên hạ đều đạt được như ý nguyện.
Nếu như là pháp Câu triệu (thu hút) thì quán tưởng ánh sáng màu
đỏ phóng quang hồi bố tất cả thì tự nhiên tất cả cầu gọi sẽ đều
được thành tựu.
Ngoài ra còn có Hàng phục pháp, tức là “Tru pháp” thì quán tưởng
ánh sáng màu lam, phát quang hồi bố tất cả, ắt sẽ hàng phục được
tất cả.
Thắng Lạc Kim Cương pháp chính là một trong Ngũ Đại Kim
Cương pháp, vốn dĩ là đại mật pháp không hề công khai của Mật
tông, ngày nay tôi viết pháp này ra thì đây chính là một đại thịnh
hội của nhân thiên vậy, tuy nhiên người nào muốn tu học phải bắt
đầu từ quy y quán đảnh, trước tiên tu luyện Tứ gia hành, sau đó tu
Thượng sư tương ứng, rồi tu đến Bản tôn pháp, sau cùng mới tu
tập đến đại mật pháp này, đồng thời pháp này nhất định phải do
Thượng sư đích thân truyền dạy mới có thể đắc được tâm ấn bí mật
chân chính bên trong của Mật pháp, hơn nữa do Thượng sư chỉ dẫn
thì mới có thể đắc được công đức của Thượng sư, tu tập như thế
mới có thể tương ứng.
Rất nhiều bí mật bên trong Linh Tiên Kim Cương đại pháp vốn chỉ
dành cho những đệ tử sau khi được quy y quán đảnh thì mới có thể
tu tập, quý độc giả nếu như muốn tu tập thì hãy nhanh chóng tìm
thượng sư quy y, xin quán đảnh, như thế mới trở thành đệ tử Kim
Cương Mật thừa chân chính.
99
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
20. Bí mật Đại Thủ ấn
Môn pháp cao nhất của Bạch giáo Tạng mật chính là Đại Thủ Ấn.
Có người hỏi tôi: “Đại Thủ ấn có phải là Tỉ Thủ ấn?”
Tôi đáp: “Sai rồi, Bạch giáo chính là lấy thanh tịnh của tự tính,
thanh tịnh tất cả tội chướng từ trước đến giờ, thanh tịnh tất cả các
pháp, quá trình tu luyện như thế gọi là Đại thủ ấn.”
Tâm chú của Đại thủ ấn: “Ông. Sở bả ngõa.Thư đả. Sái nhi ngõa.
Đả nhĩ mã. Sở bả ngõa. Tốc đóa hàng.” Ý nghĩa của chú này vô
cùng rõ ràng, chính là thanh tịnh tự tánh, tất cả pháp tự tánh thanh
tịnh. Đại thủ ấn là Du già vô thượng mật tối viên mãn của Bạch
giáo.
Thông thường mà nói thì Đại thủ ấn là một trong những Vô thượng
mật. Người tu luyện pháp này trong cuộc sống thường nhật sẽ tự
nhiên viên mãn pháp Đại thủ ấn này.
Nói về “thực”, “thực” chính là thờ cúng, trên thờ cúng chư Phật Bồ
tát, giữa thờ cúng Thiên thần, dưới thờ cúng Lục đạo khổ chúng
sinh. Do đó “thực” chính là “hộ ma”, cũng chính là phương pháp
cúng dường. Khi Mật tông hành giả ăn cũng đều là cúng dường.
Nói về “mặc”, “mặc áo” chính là khoác giáp hộ thân, cũng tức là
thực hiện Phòng ma pháp, “mặc áo” có hai loại pháp để thi triển,
một là phòng ma, hai là trang nghiêm bản thân.
Nói về “tắm gội”, “tắm gội” từ rửa tay, rửa chân, tịnh khẩu, tịnh
thân, đây gọi là từ tịnh thân đến tịnh tâm tịnh ý, đây chính là thanh
tịnh tự tính và tác dụng của tất cả các pháp.
Nói về “ngôn ngữ”, tất cả ngôn ngữ, thanh âm đều biến thành chú
ngữ, tất cả lời nói đều là niệm chú.
Nói về “ngủ” ngủ chính là quang minh du già, tư thế ngủ chính là
thủ ấn.
100
Mỗi loại dục vọng lớn đều có mật pháp để tiêu trừ, đây chính là ý
nghĩa chân chính của Vô thượng mật. Do chúng sinh đều có quang
minh Phật tính cho nên Mật pháp dùng Bình đẳng trí để quan sát
chúng sinh, xem chúng sinh đều là Phật phụ, Phật mẫu, pháp có
được thành tựu lớn như thế chính là Đại thủ ấn.
Dùng Đại thủ ấn để cứu tế chúng sinh, niệm chú: “Ông. Ban trát.
Bạch nhược trát ni dã. Hồng hồng phôi. Sa hạ.”
Tác phẩm Linh Tiên Kim Cương đại pháp của tôi ngày nay chính
là một trong những đại thiên cơ, tôi viết như thế này đã là quá rõ
ràng rồi, cũng vô cùng tường tận, những độc giả nào hiểu rõ lòng
tôi khi đọc “Bí mật của Đại thủ ấn” mà ngộ được chân đạo thì
chính là độc giả có đại trí tuệ, Phật pháp không phải xa rời thế gian
mà ở chính ngay trong cuộc sống hàng ngày.
Nếu như có bậc Thượng sư Mật tông nào xem được Bí mật Đại thủ
ấn này của tôi thì tự khắc trong lòng sẽ mỉm cười, bởi vì bên trong
ẩn chứa đại pháp chân chính, những Thượng sư này thấy tôi viết
được văn chương mật pháp này đều tự nhiên sẽ khen tặng tôi, đây
chính là việc chưa từng có, một cơ hội rất khó tìm mà không thể
nào lý giải được.
101
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
21. Sư Vương tất thắng
Do trên tạp chí có người bình luận Thượng sư Lư Thắng Ngạn là
người có cá tính, còn nói Lư Thượng sư là người dũng mãnh quả
cảm như thể Kim cương trừng mắt giận dữ, càng gặp khó khăn thì
càng có lòng tin quyết thắng, càng thể hiện ra đấu chí lớn.
Tuy nhiên, người gặp tôi lần đầu tiên lại nói rằng: Vị Liên sinh
thượng sư này không hề hung dữ chi cả, cũng không có nghiêm
khắc, tính cách trầm tĩnh, có đôi khi lại rất hài hước, dịu dàng, đọc
văn của người chưa chắc biết được tính cách của người. Những
người gặp qua nói rằng, văn chương cũng giống như nắm giữ tuệ
kiếm trong tay để chuyên đánh vào sự phẫn nộ của kẻ ác nhưng
bản thân thì rất mực mềm mỏng hòa nhã.
Điều này rốt cuộc là như thế nào? Kì thực bản thân mình nên hiểu
rõ mình nhất, tôi từ nhỏ đã là một người yếu đuối, từ tiểu học cho
đến đại học, trong khoảng thời học sinh tôi chưa từng cãi vã qua
lần nào với bạn bè cả, cũng chưa từng ẩu đả với bạn, mỗi lần bị bắt
nạt chỉ biết âm thầm chịu đựng, cho nên từ nhỏ tôi đã tập thành
tính “nhẫn nhịn”. Tôi cho rằng là bậc chính nhân quân tử thì hà tất
phải để ý sự bắt nạt của kẻ khác, tất cả đều nhẫn nhịn cho qua, như
thế là xong thôi, cũng chưa từng nghĩ phải báo thù, đây chính là cá
tính chân chính từ trước đến nay của Lư Thắng Ngạn, nội tâm của
tôi rất đỗi thuần khiết và yếu đuối.
Hiện tại, tôi là A Xà Lê (Acharya – Kim Cương Sư) của Mật giáo,
học trò đã có đến hàng vạn người, tuy nhiên tôi đã từng ra mệnh
lệnh gì cho học trò chưa? Xin thưa là không có và, từ trước đến
nay đều không có, tôi là một A Xà Lê của Mật giáo không quen
với việc ra mệnh lệnh cho người khác, tôi chỉ hi vọng học trò của
mình nên chủ động, trong tận đáy lòng của mình, tôi dường như
vẫn là tôi của ngày xưa, với một bản tính thiện lương, không biết
102
đến cái gọi là “tự ngã tôn quý”, tôi xem tất cả học trò của mình đều
là những người bạn chân thiện.
Tuy nhiên, với một người đã tu luyện mật pháp rồi thì cá tính họ
hoàn toàn có thể thay đổi được, một người có tấm lòng Bồ Tát do
tu luyện pháp của mật giáo mà biến thành Kim Cương phẫn nộ, nội
tâm tôi là Bồ Tát, từ bi lục đạo chúng sinh, nhưng vẻ bên ngoài là
Kim Cương, hàng phục ma quỷ trong thiên hạ, vừa cầm bút viết
văn chương thì ngọn lửa phẫn nộ xung quanh thân mình liền bốc
cháy hừng hực và biến thành “Sư Vương tất thắng”. Tu luyện mật
pháp đã giúp cho cá tính tôi thay đổi rất nhiều, dường như bản thân
mình đã cường tráng lên, có lòng tin chắc chắn thắng, tinh tiến
dũng mãnh thế như chẻ tre vậy, càng có khó khăn thì càng muốn
khắc phục, tôi biến thành Mã Đầu Minh Vương Quán Âm
(Hayagriva) là hoá thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, diện mạo bên
ngoài rất hung ác, nhưng trong lòng thì từ bi nhất đẳng và đây
chính là tôi bây giờ.
Trong mật pháp đích thực có tu luyện “tất thắng”, tu luyện bản
thân mình thành Sư Vương tất thắng.
Trong lòng tôi là:
Tranh thị thắng phụ tâm, dữ đạo tương vi bối;
Tiện sinh tứ tương tâm, dã hà đắc tam muội?
Đây là chỉ tâm Bồ Tát của bản thân, không tranh giành với quân tử
chánh đạo, lấy nhẫn nhịn làm tôn quý, lấy hoà nhã làm trên hết.
Ngoại hình Kim Cương lại là:
“ Ta là Du già sĩ với năng lực to lớn, có thể hàng phục yêu ma
trong thiên hạ, tu pháp toàn thân đều là giáp trụ, giương tay kết ấn
ra đều là trảo vuốt, tu tập thiền định tràn ngập khắp hư không, một
thân hóa thành bách vạn thân, nếu như âm ma có hiển hiện, Kim
Cương chỉ cần rống một tiếng là bách thú đều kinh sợ”.
Đây là dáng vẻ bề ngoài của Kim cương trừng mắt phẫn nộ là tôi,
với một loại tinh thần dũng mạnh, không lo lắng không sợ hãi,
cũng giống như Sư Vương vậy, một khi rống lên làm cho bách thú
103
kinh hồn bạt vía, tôi đã chứng được pháp vị Sư Vương tất thắng,
bản thân có đại lực thần uy, những yêu ma quỷ quái bình thường
sớm đã bị thuần phục dưới pháp tọa của tôi rồi.
Tu pháp Sư Vương tất thắng này, tôi đặc biệt nói rõ dưới đây:
Quán tưởng – Pháp tướng của Kim Cương Tâm Bồ Tát, thân Bồ
Tát màu trắng, đầu đội Ngũ Phật quán, thân vận thiên y quần trọng,
toàn thân đều là trang sức quý, ngồi trên vầng nguyệt là hoa sen
tám cánh, tay phải kết ấn Phẫn nộ giữ chày Kim Cương trong lòng,
tay trái kết ấn Phẫn nộ giữ chuông Kim Cương nơi đùi trái, trong
lòng có bách tự minh chú luân vây quanh, chú này phát ra ánh sáng
trắng đi từ đỉnh nhập vào trong thân người quán tưởng, thân tâm
của người tu luyện sẽ được kiên cố.
Thủ ấn - là thủ ấn khi quán tưởng, trước tiên hai tay nắm quyền lại
đặt ở thắt lưng, rồi hai tay trái phải tách ra đặt trên đỉnh đầu, kết
thành “Ngoại Sư tử ấn”, ấn tướng này là ngón trỏ gập lại vào lòng
bàn tay, ngón vô danh gập lại vào lòng bàn tay, ba ngón còn lại
giương thẳng ra (ngón cái, ngón giữa, ngón út), hai tay áp lại với
nhau (hai lòng bàn tay áp vào nhau), đây chính là “ Ngoại Sư tử
ấn”, nhìn từ mặt bên giống như hình chữ “sơn”. Tướng này tượng
trưng cho sư tử gặp phải kẻ thù, trong lòng đang gào thét dữ dội .
Chú ngữ - “ Ông. Tam ma dã. Tát đán sào. Ông. Phược Nhật La
Ma Lê. Đán Lạ Thác”.
Cách tưởng niệm tu tập pháp này: “Ta đã là Sư Vương tất thắng,
trong toàn thế giới không ai có thể thắng ta, không úy kị, sợ hãi
điều chi, tất cả Kim Cương lực đều có thể phóng ra, hơn nữa là mãi
mãi vô cùng tận, ngang hàng với đại lực của đại ý thức trong vũ trụ.
Ta là Sư Vương tất thắng, tất cả đều có đắc thắng, tất cả đều có thể
thông hành không trở ngại.”
Loại tu pháp này chính là mật pháp tu hành của đệ nhị luân Du già,
là cách tu luyện của Tư Duy Á Sĩ Đan Na, có thể giúp cho tinh
thần khỏe mạnh sinh ra lòng tin “tất cả đều đều tất thắng”.
104
Có một lần, mẹ tôi cùng với một số học trò đến Seattle, họ đến
tham quan trường đua ngựa,ở trong nước muốn đến trường đua
ngựa vốn là một chuyện rất khó thực hiện. Bản thân tôi không chơi
cờ bạc, từ trước đến nay A Xà Lê của Mật giáo đều không chơi
đánh bạc, cũng không thể dùng pháp để chơi trò chơi “chắc chắn sẽ
thắng tiền”.
Mọi người đến trường đua ngựa nhìn thấy người đông nghìn nghịt
thì vui mừng vô kể, mẹ tôi hiếm hoi lắm mới đến được một lần,
ngoài ra còn có Trương Hoàng Minh, Liêu Ngọc Tồn, Lâm Ngọc
Liễu, Lâm Ngọc Tấn cũng khó khăn lắm mới đến được nên họ đều
muốn đánh thử một ván xem vận khí thế nào.
Mẹ tôi đã mua con ngựa số năm, hỏi tôi có tốt hay không?
Tôi trả lời: Số 6 không phải càng tốt hơn sao. Khi bọn học trò nghe
được, liền len lén đi mua ngựa số 6. ( Bọn họ đều là người thông
minh)
Kết quả trận đua này, ngựa số 6 về hạng nhất. Ngoài mẹ tôi ra thì
tất cả mọi người đều thắng tiền. Bốn hạng thắng đầu trong trận đua
ngựa này là: “ số 6”, “số 1”, “số 7”, “số 3”.
Do kết quả lần này nên sự chú ý của mọi người không còn tập
trung ở ngựa nữa mà lại yêu cầu tôi nói ra ở trận đấu ngựa kế tiếp,
con số nào sẽ thắng, cá nhân bản thân tôi không chơi cá ngựa,
nhưng tôi cũng có “niềm tin tất thắng”, phàm những gì tôi đã làm
thì nhất định sẽ thắng. Để giúp mẹ tôi có thể lấy lại số tiền, tôi chỉ
nói: “các số đã thắng ở trận đầu thì ở trận thứ hai sẽ xuất hiện tất
cả.” (chú thích: ngựa thi đấu ở mỗi trận đều đã được thay đổi).
Tôi ghi số của con ngựa về nhất vào lòng bàn tay để đối chứng.
Con số tôi viết ở trong lòng tay là số 1. Lúc tôi viết “số 1” thì
đúng để Liêu Ngọc Tồn nhìn thấy, do vậy ngoài Liêu Ngọc Tồn
mua ngựa số 1 thì những người khác đã mua “số 6”, “số 1”, “số 7”,
“số 3”.
Trận thứ hai bắt đầu, mọi người đều khẩn trương nhìn về bảng,
trên bảng bất ngờ hiện lên “số 1”, “số 6”, “số 7”, “số 3”. Ngựa số 1
105
về hạng nhất, tất cả bốn ngựa đã thắng ở trận đầu đều xuất hiện lại
ở trên bảng ở trận thứ hai, chỉ có điều thứ tự khác nhau mà thôi.
Lúc này Liêu Ngọc Tồn mới nói rằng anh ấy đã lén nhìn thấy tôi
viết “số 1” ở trong lòng bàn tay.
Lần này mọi người đều thắng cả, số tiền mẹ tôi thua đi đã thắng
ngược trở lại, tất cả học trò đều thắng lớn trở về.
Tôi vì sao có được năng lực dự báo này, thẳng thắn mà nói phàm là
người nào căn cứ theo mật pháp tu luyện một cách chân chính thì
nhất định sẽ có được năng lực dự báo, cho dù là bạn không cần
năng lực này nhưng tự nó sẽ xuất hiện, giống như tu luyện Tất
thắng pháp vậy, bản thân bạn sẽ tự sinh ra lòng tin tất thắng, bất kể
trong trường hợp nào đều có thể chiến thắng cả.
Có người muốn tôi đi chơi cá ngựa kiếm tiền, chơi cổ phiếu kiếm
lời, mua bán vàng bạc để kiếm tiền nhưng tôi đều từ chối. Vì thân
là bậc Thượng Sư thì phải lấy việc tu luyện thành Phật là mục tiêu
vĩnh hằng, không chỉ như thế Thượng Sư còn phải chỉ dạy chúng
sinh tu luyện thực hành thành Phật. Không thể chỉ tu luyện chỉ vì
“danh”, vì “tiền”, nếu tu luyện chỉ để “trận nào cũng thắng” thì
biến thành hắc đạo tà ma mất rồi.
Tu luyện “Sư Vương tất thắng” thì trong lòng tôi có một ý niệm,
ngựa “số 6”, “số 1”, “số 7”, “số 3”, tất cả những số này đều muốn
tăng tốc cho tôi, niệm lực của tôi tập trung trên những con số này,
niệm lực của tôi là “tất thắng, tất thắng, tất thắng”. Sức mạnh vĩ đại
của mật pháp cuối cùng cũng đã xuất hiện. Tôi là Đại Nhật Như
Lai, tôi là Kim Cương Tát Đoá, tôi là Sư Vương tất thắng, tất cả
mọi thứ đều do tâm lực chi phối để chiến thắng những thứ khác.
Tôi viết văn chương cũng như vậy, càng gặp khó khăn tôi đều cố
gắng khắc phục từng cái, tôi không cầu xin gì cả cho bản thân
mình, nhưng tôi nhất định có thể chiến thắng mọi ma nạn, pháp lực
tôi quá lớn, mọi thứ tà ma sẽ bị tôi hàng phục, đều ngoan ngoãn
khuất phục ở dưới pháp toạ của tôi.
106
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
22. Lạt Ma phải chăng là Cao tăng? Khai thị của Tát Ba
Chứng Không Lạt Ma
Tát Ba Chứng Không Lạt Ma là người Tây Tạng, đã 89 tuổi, lúc
nhỏ xuất gia ở chùa Sắc Lạp tại thành phố Lạp Tát phương Bắc,
sau này lại đến chùa Đại Chiêu, cũng thường lui tới Bố Đạt Lạp
cung và chùa Sát Khắc Ba Lý, đã từng đảm nhiệm trụ trì Lạt ma
của Long Thiên tự ở Cam Túc, đã đi khắp Đại Giang Nam Bắc, lúc
ở Bắc Kinh đã sáng lập trung tâm Hoa Giáo (Sakya). Tát Ba
Chứng Không Lạt Ma biết tiếng Tây Tạng, tiếng Anh, biết một ít
tiếng Hoa nữa, hiện nay đang phụ trách Trung tâm ngữ văn Tây
Tạng.
Tát Ba Chứng Không Lạt Ma là thượng sư làm lễ quy y quán đảnh
Hoa giáo của tôi, vai vế ông rất cao, bài viết dưới đây sẽ đặc biệt
giới thiệu về những lời khai thị của ông:
Hỏi: Lạt Ma đều là Cao tăng phải không?
Đáp: Lạt Ma giáo là một nhánh của Mật giáo, tuy nhiên nhánh của
Lạt Ma giáo có rất nhiều, Lạt Ma giáo cũng không nhất định đều là
Mật giáo, đặc trưng của họ là lấy việc tu tập chân ngôn là chính.
Lạt ma là danh xưng tôn kính dành cho người xuất gia khi đạt đến
một cấp độ nhất định nào đó, thông thường đều phải trải qua mấy
loại kiểm tra, cũng giống như những kì thi bình thường vậy, Tây
Tạng và cả Lạt Ma toàn thế giới, không biết có tổng cộng bao
nhiêu. Lạt Ma đều là Cao tăng chứ? Câu hỏi này rất đơn giản nên
có thể trả lời được, giống như tôi hỏi là: Người xuất gia đều là Cao
tăng chứ? Đương nhiên trả lời là không phải, Lạt Ma không nhất
định đều là Cao tăng.
Hỏi: Lạt Ma phải chăng đều có thần thông?
Đáp: Tây Tạng, Nepal, Sikkim, thậm chí núi Himalaya, những khu
vực này có thể nói nền giáo dục tương đối lạc hậu, dân trí thấp nên
107
sức mạnh tôn giáo có thể được thực thi ở những vùng này. Trong
tình trạng này thì khó tránh khỏi tư tưởng thần thông sẽ dễ dàng đi
vào lòng người, ở những vùng này có những Phật lí cao thâm, quả
thực là có người đắc chứng được thần thông nhưng cũng có mê tín
về quỷ thần của một loại pháp thuật thổ dân, thí dụ như thầy mo
của Hắc giáo, do đó Lạt Ma không nhất định là có thần thông, còn
phải xem tu vị của mỗi người để xét đoán, theo như tôi biết thì Đạt
Loại Lạt Ma bản thân không có thần thông, ông ta từ trước đến giờ
cũng không nói đến thần thông. Còn về Đại Bảo Pháp Vương đời
thứ 16, ông ấy là một vị Pháp Vương có thần thông, tuy nhiên
những Pháp vương tử hiện nay dưới tọa của ông ấy, một số Nhân
Ba Thiết lại không có biểu hiện gì tốt cả, giống như Ba Đô, Sáng
Cổ…, bọn họ đều không có thần thông, chẳng những không có
thần thông mà ngay cả tư cách của Lạt Ma cũng không có.
Hỏi: Lạt Ma nhất định đắc chứng không?
Đáp: Người đời do không hiểu Tây Tạng, cũng ít người cùng Lạt
Ma sống chung trong thời gian dài nên cho rằng tu mật của người
Tạng rất là tuyệt, người đời đối với Tây Tạng, đối với Lạt Ma đã
quá ư sùng bái và thần bí hoá rồi. Tuy nhiên, có rất nhiều người
Tây Tạng không hiểu rõ gì lắm về Phật pháp, tu vị bản thân của
Lạt Ma nếu chưa đắc được Ngũ bí mật tâm của Mật Tông cũng
giống như chưa chứng đắc vậy, lấy một thí dụ: Trong một vạn
người Lạt Ma Tây Tạng để tìm một người chứng đắc thì chẳng có
được người nào cả, xung quanh tôi có rất nhiều Đại sư Mật Tông
nhưng đều là bị mắc bệnh ung thư, mắc bệnh hiểm nghèo chết,
ngày thường cũng ít tu luyện, thu nhận rất nhiều đệ tử, bản thân
ông ta không có tâm pháp nên đệ tử cũng không có được tâm pháp,
như thế thì có thể chứng đắc không? Thẳng thắn mà nói thì Lạt ma
Tây tạng quả là có đắc chứng, nhưng tâm pháp của Lạt ma Tây
Tạng từ trước đến nay đều không truyền ra ngoài, muốn có được
tâm pháp chân chính đã là khó gặp rồi, ngay cả Lạt ma còn không
có được tâm pháp thì huống chi là người ngoài.
Hỏi: Như thế nào gọi là “chứng đắc tâm pháp”?
108
Đáp: Bất kể là người nào, người Tạng hay người Hán, phàm là tu
luyện mật tông có được chứng đắc đích thực thì các phương pháp
tu tập này chính là “chứng đắc tâm pháp”, thí dụ bạn là một vị
Thượng Sư Hồng Quán Thánh Miện có được cảm ứng đích thực
thì bạn là bậc thượng sư có đắc chứng tâm tháp. Nếu như bản thân
không có đắc chứng mà vẫn tự cho là thượng sư thì những thượng
sư này vẫn chỉ là những kẻ ngoại môn của Mật Tông mà thôi. Ở
Tây Tạng, có rất nhiều người Hán, người Nhật và cả người Ấn Độ
do ngưỡng mộ danh tiếng nên tìm đến, họ cũng ở trong chùa với
Lạt Ma làm bài tập sáng tối, nhưng không có ai dạy họ tâm pháp,
một khi rời khỏi Tây Tạng thì lập tức tự xưng là Thượng sư, thu rất
nhiều đệ tử, không có “chứng đắc tâm pháp” không thể nào dạy ra
đệ tử tốt được cả. Những kẻ người Hán chỉ có hơi tiếp xúc với Tây
Tạng kia vừa ra khỏi Tây Tạng là bắt đầu gạt người rồi.
Hỏi: Vấn đề kế truyền Mật tông như thế nào?
Đáp: Ai truyền thụ cho bạn “Chứng Đắc Tâm Pháp”, đồng thời
cũng giúp cho bạn được “Chứng Đắc Tâm Pháp” thì vị thượng sư
này là chính là người thầy truyền dạy chân chính của bạn. Theo
như bạn nói, bạn được Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 16 quán đảnh,
cũng được Đại Thiếc Đỗ Ba Tôn giả quán đảnh, đồng thời được
Phổ Phương thượng sư quán đảnh, ngoài ra còn được Thổ Đăng
Đạt Cát Thượng Sư quán đảnh, trong Tam Muội Kim Cương Đại
Định còn được cả Liên Hoa Sinh Đại Sĩ quán đảnh, khi tu tập thiền
định chư pháp bản tôn quán đảnh. Trong Tam Muội Kim Cương
Đại Định, nhận được Liên Hoa Sinh Đại Sĩ quán đảnh là hoàn xác
thực. Trong tu tập thiền định, nhận được chư pháp bổn tôn quán
đảnh lại càng xác thực. Đồng thời bạn lại được tôi (Tát Ba Chứng
Không Lạt ma) làm nghi thức quán đảnh. Như vậy bạn dựa vào
tâm pháp nào để đắc chứng thì bạn sẽ thuộc về người đó. Có người
nói rằng: Việc kế truyền của bạn không phải là kế truyền chân
chính, người nói như vậy tức là vô tri rồi. Có rất nhiều người Hán,
giống như vị Pháp sư Quảng Định đó cùng với mấy vị Nhân Ba
Thiết, có thể nói là dính líu được chút xíu với người Tây Tạng,
nhưng có như thế rồi bản thân tự xưng là được kế truyền chân
109
chính rồi, cũng như Đan Cát Nhân Ba Thiết vậy, cũng chỉ là đồ tôn
của Tát Ba Chứng Không Lạt Ma này mà thôi. Giả sử như ngài là
Thượng Sư Lư Thắng Ngạn đến Trung tâm Ngữ văn Tây Tạng do
tôi phụ trách tham quan đôi chút, tiếp xúc qua với mấy vị học giả
Mật Pháp thì kế truyền của ngài có được xem là chân chính rồi
chăng, việc kế truyền của những kẻ khác chỉ là giả, cho nên Pháp
sư Quảng Định cùng với một số người phụ trách tịnh xá nào đó
đều có thể gọi là phường vô tri mà thôi. Người Tây Tạng có được
kế truyền “Chứng Đắc Tâm Pháp” chân chính là vốn đã không
nhiều, huống hồ là người Hán, ở cùng với mấy vị người Tây Tạng
thì tưởng rằng bản thân mình là cao nhất rồi, quả thật chỉ là
phường vô tri mà thôi.
Hỏi: Ai là Kim Cương Đại A Xà Lê chân chính?
Đáp: Hiện nay người tự xưng là Kim Cương Đại A Xà Lê thì rất
nhiều, có người đi Tây Tạng một chuyến trở về tự xưng là Kim
Cương Đại A Xà Lê, có lẽ anh ta cùng đoàn du lịch đi dạo chơi
một số nơi chùa chiền, mua được mấy cái bùa hộ mệnh Tây Tạng
làm chứng nhận. Cũng có người thực sự đã ở mấy năm nhưng chỉ
học được vẻ bên ngoài mà thôi thì đã bắt bắt đầu nói khoác gạt
người rồi. Càng tệ hơn nữa theo học mấy vị Nhân Ba Thiết và mấy
vị Lạt Ma, chưa đắc chứng được tâm pháp nhưng cũng tự xưng là
Kim Cương Đại A Xà Lê. Kim Cương Đại A Xà Lê thì nhất định
phải có “Chứng Đắc Tâm Pháp, không có “Chứng Đắc Tâm Pháp”
thì đều là kẻ lừa dối, dối gạt những thiện nhân có tâm hướng Phật.
Người đã làm Lạt Ma rồi, có một số vốn không phải là Kim Cương
Đại A Xà Lê, có một số Lạt Ma tự xưng nào là “Pháp vương”, nào
là “Phật sống”, nào là “Phật gia”, nào là “Pháp đế”. Lại còn là Phật
Bồ Tát hoá thân chuyển thế, nếu không có “Chứng Đắc Tâm Pháp
thì đều là lừa gạt người cả. Hiện nay khắp mọi góc mọi nơi trên thế
giới đều Lạt ma lưu vong, họ xây chùa, dựng đạo tràng, người đời
cảm thấy hiếu kỳ xem Lạt Ma như là thần thánh phi thường, nhưng
nếu không có “Chứng Đắc Tâm pháp” thì cũng chỉ là tục tăng,
không phải là Cao tăng. Cho nên Kim Cương Đại A Xà Lê, ai có
có thể làm được thì không có gì phải hổ thẹn cả, đây là tâm chứng
110
tự do của Hoa Kỳ, chỉ cần sờ qua lương tâm của bản thân mình là
biết rồi, đích thực là có đắc chứng thì tự nhiên sẽ là Kim Cương
Đại A Xà Lê chân chính. Dựng lên một cái khung trống, chưa có
đắc chứng thì chỉ là Kim Cương Đại A Xà Lê giả tạo mà thôi.
Hỏi: Pháp lực của Mật Tông như thế nào?
Đáp: Đích thực là Mật giáo có rất nhiều người đạt thành tựu lớn,
Lạt Ma, Cư Sĩ đều có cả, người Tạng và người Hán cũng có, thí dụ
như Thượng Sư Lư Thắng Ngạn, pháp lực và đắc chứng của người
này đều được công chúng công nhận, những điều này đều rất rõ
ràng xác đáng. Sự cao thâm của Mật giáo, do là chí cực của Nhất
thừa nên tự nhiên là Phật lí kỳ diệu, có rất nhiều rất nhiều Mật chú
đại thần thông không thể tưởng tượng được. Âm Mật tông là Đại
Phật pháp cực cao của Nhất thừa, nên pháp lực tự nhiên là vô cùng
vô tận, cũng giống như minh tưởng của Mật giáo, tất cả đều là
quán không, xây dựng tất cả pháp trong hư không, tất cả những
pháp xây dựng nên này đều là ở trong hư không nên tự nhiên sẽ là
vô cùng vô tận, không có giới hạn, pháp lực của nó sẽ không thể
ước lượng cũng như đo lường được, không có biên giới, đây là con
đường tu đạo chân chính để thành Phật.
Hỏi: Hắc giáo là gì?
Đáp: Tức là những ghi chép về Hắc pháp của Hắc giáo, những vu
thuật mê tín của Thổ dân nguyên thủy Tây tạng, ở Ấn Độ, Sikkim,
Nepal vẫn còn tồn tại nhưng không có ai công khai truyền thụ cả,
các thầy mo của Hắc giáo đều thích tuyên truyền khoa trương, thực
hành tà pháp. Người đời thường hay kính sợ quá mức và nhận xét
quá đỗi thần kỳ, đây không phải là hiện tượng tốt vì những kẻ đó
chỉ có trình độ rất thấp. Lâm xx là một kẻ chỉ nói xằng bậy, là kẻ
lừa đảo xuyên tạc mà thôi.
Hỏi: Tu tập Mật tông như thế nào?
Đáp: Trước tiên tìm Kim Cương Đại A Xà Lê chân chính, biết
được chính xác ông ta có chứng đắc tâm pháp, cầu xin quy y quán
đảnh, xin truyền pháp để tu luyện tương ứng, tiếp đó cầu xin “Vô
Thượng Mật”. Gọi là Kính sư, trọng pháp, thực tu. Đây chính là
111
người thực tâm theo đuổi Vô Thượng Mật thừa, nhất định phải tin
tưởng thực hiện có như vậy mới đạt được tất cả thành tựu đúng đắn.
Bài viết này chính là đoạn đối đáp giữa người viết và Tát Ba
Chứng Không Lạt Ma, người viết vì muốn độc giả hiểu rõ tất cả
đạo lý của việc kế thừa và đắc chứng Mật pháp, do vậy đã thay mặt
độc giả hỏi tất cả các vấn đề với vị Đại Lạt Ma này, lấy câu trả lời
của Đại Lạt Ma làm câu trả lời. Tát Ba Chứng Không Lạt Ma do
không biết Pháp sư Quảng Định là ai cho nên ông ấy chưa có nhận
xét gì về việc Pháp sư Quảng Định có được đắc chứng tâm pháp
hay không. Tuy nhiên, xét về vai vế của Tát Ba Chứng Không Lạt
Ma thì lớn hơn rất nhiều so với Đan Cát Nhân Ba Thiết, mà tôi là
đệ tử của Tát Ba Chứng Không Lạt Ma cho nên Pháp sư Quảng
Định sẽ là đồ đệ hay đồ tôn của tôi.
112
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
23. Thập Địa Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương Chú
Trong sách “Phục ma bình yêu truyện”, tôi đã từng giải thích về
“Thiên Phật thiên ma”, “Thứ Bồ Tát thiên ma”, những Thiên ma
này đều là Thiên ma nhất đẳng cả, tuyệt đối không phải là những
kẻ tầm thường. Những đại Thiên Ma này một khi phát uy lực thì kể
cả Bồ Tát cũng không giữ nổi thân của mình, vì thế nên Thích Ca
Mâu Ni Phật đã nói ra 10 loại thần chú, để những Bồ Tát vừa vào
thập địa có thể trì Kim Cương chú để phá yêu ma. Tránh cho
những Bồ Tát quả vị thập địa này không có người nào bị tổn
thương, thất bại thảm hại, không thể làm Bồ tát được mà trở thành
món điểm tâm của Thiên ma.
Hãy xem thử Thập Địa Bồ Tát Kim Cương Chú này là những món
trân bảo như thế nào. Tam Ma Địa của Thập Địa Bồ Tát này được
phân ra như sau:
Địa thứ nhất: Diệu bảo Tam Ma Địa.
Địa thứ hai: Khả ái lạc Tam Ma Địa.
Địa thứ ba: Nan động Tam Ma Địa.
Địa thứ tư: Bất thoái chuyển Tam Ma Địa.
Địa thứ năm: Bảo Hoa Tam Ma Địa.
Địa thứ sáu: Nhật Viên Quang Diệm Tam Ma Địa.
Địa thứ bảy: Toàn bộ Nguyện như ý, thành tựu Tam Ma Địa.
Địa thứ tám: Hiện tiền chứng trú Tam Ma Địa.
Địa thứ chín: Trí tạng Tam Ma Địa.
Địa thứ mười: Dũng tiến Tam Ma Địa.
113
Thập Địa Bồ Tát này dựa vào tu trì pháp môn để đắc được quả vị,
tu địa thứ nhất dùng “Thí Ba La Mật”, tu địa thứ hai là “Giới Ba
La Mật”, tu địa thứ ba là “Nhẫn Ba La Mật”, tu địa thứ tư là “Cần
Ba La Mật”, tu địa thứ năm là “Định Ba La Mật”, tu địa thứ sáu là
“Tuệ Ba La Mật”, tu địa thứ bảy là “Phương Tiện Thắng Trí Ba La
Mật”, tu địa thứ chín là “Lực Ba La Mật”, tu địa thứ mười là “Trí
Ba La Mật”.
Thập Địa Bồ Tát này vì sao vẫn còn ma chướng đến gây trở ngại,
nguyên do là vì vẫn chưa đạt được đại thần thông, vẫn chưa đạt
được “tự tại biến hiện”, cũng tức là chưa thể hiểu rõ được các bí
mật pháp tinh tế, chưa thể ngộ giải được vô minh, do đó còn gặp
chút xíu trở ngại, vì vậy cho nên còn có Ma chướng. Do vậy Thích
Ca Mâu Ni Phật đã vì Thập Địa Bồ Tát này đặc biệt giảng Hộ thân
Kim Cương chú cho Thập Địa Bồ Tát, nay tôi sẽ thuật lại Thập Địa
Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương Chú như sau:
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ nhất: “Thả chí tha. Phủ luật nhĩ
nô lạp thế. Độc hổ độc hổ, dã bạt tô lợi du. A bà bà tát đế. Gia bạt
chiên đạt la. Điều đán đê. Đa bạt đạt lạc xoa mạn. Đơn đồ. Lợi ha
lam. Cự lỗ sa ha.”
Bồ Tát Dộ Thân Chú của Địa thứ hai : “Đán chí tha. Ôn nhập. Lý
chất lý chất lý. Ôn nhập la nhập la. Nam thiện bản thiện bản. Ôn
nhập lý hổ lỗ hổ lỗ. Sa ha.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ ba: “Đán chí tha. Đơn trạch
chích ban trạch chích. Yết lạp trí. Cao lạp trí. Kê do lý đơn trí lý.
Sa ha.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ tư: “ Đán chí tha. Thất lợi thất lợi.
Đà nhĩ nhĩ đà nhĩ nhĩ. Đà lý đà lý nhĩ. Thất lợi thất lợi nhĩ. Tỉ xá la
ba thuỷ ba thuỷ na. Bạn đà nhĩ đê. Sa hạ.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ năm: “Đán chí tha. Cáp lợi cáp
lợi nhĩ. Già lợi già lợi nhĩ yết lạp ma. Nhĩ tăng yết lạp ma. Nhĩ.
Tam bà tam nhĩ chiêm bạt nhĩ tất đam bà nhĩ ma hán nhĩ. Toái
ngôn bộ bệ. Sa kha.”
114
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ sáu: “Đán chí tha. Tỉ đồ lý tỉ đồ
lý. Ma lý nhĩ ca lý ca lý. Tỉ độ hán đê. Lỗ lỗ lỗ lỗ. Chủ lỗ chủ lỗ.
Đỗ lỗ bà đỗ lỗ bà. Xá xá thiết giả bà lý tửu. Sa. tất đê tát bà tát đoá
nam. Tất điện. Man đán lạc đà nhĩ. Sa ha.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ bảy: “Đán chí tha. Thược cáp.
Thược cáp lỗ. Thược cáp thược cáp thược cáp lỗ. Bối lỗ bối lỗ lục
chích. A mật lợi đa hổ hán nhĩ. Bột lý sơn nhĩ. Bối lỗ đỗ chích bà
lỗ phạt đê. Bối đề tứ chích. Bần đà bối lý nhĩ. A mật lợi đê chích.
Bạc hổ chủ dụ. Sa ha.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ tám: “Đán chí tha. Thất lợi thất
lợi thất lợi nhĩ. Mật đế mật đế. Yết lễ yết lễ. Tây lỗ tây lỗ. Chủ lỗ
chủ lỗ. Bạn đà ni. Sa ha.”
Bồ tát hộ thân chú của Địa thứ chín: “ Đán chí tha. Cáp lợi chiên
đồ lợi chích. Câu lam bà la thể. Thích thế. Bạt sá bạt sá tử. Thất lợi
thất lợi. Thích thất lý thích. Tất thất lợi. Sa tất đế. Tát bà tát đoá
nam. Sa ha.”
Bồ Tát Hộ Thân Chú của Địa thứ mười: “Đán chí tha. Tất đề. Tô
tất đề. Mạc chiết nhĩ mộc sát nhĩ. Tỉ mộc đê ám mạt lệ. Tỉ mạt lệ
nát mạt lệ. Mang yết lệ. Tứ lan nhược. Yết bối. Yết la đán na yết
bố. Tam man đa bạt chí lệ. Tát bà an tha sa đơn nhĩ. Ma nai tư ma
kha ma nai tư. An bố đế. An thất bất đế. A lạp thề tỉ lạp thề. An
chủ đế ám mật lật đế. A lạp thề. Tỉ lạp thề. Bạt lam mê. Bạt la cam.
Ma sa. Lệ phù la nhĩ phù la na. Man nô la thế. Sa ha.”
Thập Địa Bồ Tát Kim Cương Hộ Thân Chú này phải chăng là ai ai
cũng có thể tu tập được. Kỳ thực không phải ai ai cũng có thể tu
tập được, phải là hành giả đã đắc được quả vị Thập Địa Bồ Tát thì
mới tu tập được. Thập Địa Bồ Tát có mười Kim Cương chú thì
mới tu bỏ được ngũ nan, ngũ nan này là ác thú nuốt thực, ác quỷ
hãm hại, người xấu gia tăng, tai nạn thủy hỏa, tai nạn bất ngờ. Mới
có thế đắc được bất thoái tâm, bất thoái chuyển, nếu chưa tu Thập
Địa Bồ Tát thì lúc này người có Đại Kim Cương Hộ Thân Chú vẫn
gặp phải ma nạn.
115
Ngoài ra, Đại Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương Chú này là dành cho
hành giả Thập địa Bồ tát tu luyện, chú âm của Kim Cương Chú
này được phát âm theo tiếng Quốc ngữ, tức là phát âm tiếng Quốc
ngữ dựa theo Phạn ngữ, loại ngữ âm này không hẳn là chính xác,
chỉ tương tự mà thôi. Các âm tương tự này lại được phát âm theo
nhiều giọng vùng miền khác nhau nên ngày càng sai lệch, cho nên
tất cả chú âm phải dựa vào âm truyền thụ của Thượng sư làm
chuẩn, theo những chỉ dẫn truyền dạy của Thượng sư mới có công
đức, nếu chưa được truyền thụ chỉ dẫn mà chỉ dựa theo sách để tu
tập thì sẽ không có được công đức, điểm này rất là quan trọng, hơn
nữa người tu hành Mật pháp nhất định phải quy y quán đảnh, chưa
quy y quán đảnh mà tu hành Mật pháp thì xem như đã trộm pháp,
không có Thượng sư nào xem sách tự học cả, rất dễ mắc sai lầm
mà bản thân mình không biết.
Thập Địa Bồ Tát Hộ Thân Chú theo như tôi biết có 5 ý nghĩa lớn là:
Thứ nhất, ý nghĩa lời chú rất thâm sâu, ý nghĩa của 10 câu chú này
nó cao thâm không thể đo lường được, bản thân của chú ngữ vốn
đã có ý nghĩa thâm sâu rồi, mà ý nghĩa của Thập địa Bồ Tát Hộ
thân Kim cương chú này lại càng cao thâm vô kể. Cũng giống như
ngày nay có rất nhiều người muốn thăm dò đạo hạnh của Lư Thắng
Ngạn tôi đây, kỳ thực đạo hạnh của tôi cũng không thể đo lường
được, những gì mà có một số Pháp sư, đạo trưởng đo lường được
chỉ là một ít bên ngoài của tôi mà thôi, các độc giả nếu như đọc
tiếp sách của tôi thì sẽ nhận ra ngày càng cao thâm, không thể suy
đoán được.
Thứ hai, chú như tự tánh - Thập Địa Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương
Chú này là Đại thủ ấn của Thập Địa Bồ Tát, nói một cách đơn giản
chính là làm cho tự tánh toàn bộ đều thanh tịnh để phát quang, 10
lời chú này chính là “tự tánh”, tự tánh cũng là thể, thể cũng là tự
tánh, không có gì khác biệt cả.
Thứ ba, nội chứng đắc lực - Thập Địa Bồ Tát Hộ Thân Kim Cương
Chú này không có sự phân biệt trí, do không có phân biệt trí nên
116
mới có thể tiến nhập đắc được nội chứng, đây cũng được xem là
đạo lý thâm sâu của nội chứng.
Thứ tư, y chỉ thâm sâu – 10 câu chú ngữ này là do hằng hà sa số
chư Phật nói, nếu muốn biết hằng hà sa số chư Phật thì đó chính là
Vô lượng chư Phật, chú này là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói mà
Thích Ca Mâu Ni Phật lại nói câu chú này là do vô số chư Phật nói,
cho nên ý chỉ của chú này vô cùng cao thâm, cho nên nói là vô
lượng môn có thể phá được Kim cương sơn.
Thứ năm, vô thượng pháp lực – đây ý muốn nói đến vô dư vô trú,
vô hướng vô không hữu, mãi cho đến sinh diệt.
Tôi biết rằng muốn hiểu được đại trí tuệ của Phật pháp này thì phải
tu được mắt thứ ba, vì có được mắt thứ ba mới có thể viên mãn,
mới có thể nhìn được bình đẳng, đắc được mắt thứ ba mới được
xem là không có tạp tư tạp tuệ và mới thoát khỏi con đường sinh tử.
Bài viết này của tôi hôm nay dần dần bàn đến “Vô Thượng Mật”,
Vô Thượng Mật này mới chính là Đại Bồ đề, nếu như tôi không
viết ra thì trong thiên hạ há có người viết ra, nhìn chung những gì
thành Phật đắc chứng rồi từ trước đến nay rất bí mật, chứ không
tuyên bố ra, đắc được Phật nhãn (mắt thứ ba) đều xem chúng sinh
bình đẳng như Phật, cho nên tôi mới đồng ý nói ra!
Thập Địa Bồ Tát tuy có nhân thanh tịnh và cũng có quả thanh tịnh
nhưng ma chướng vẫn chưa hoàn toàn diệt trừ thì vẫn chưa xem là
tối thanh tịnh. Ngày hôm nay, tôi nói ra Thập Địa Bồ Hộ Thân Tát
Kim Cương Chú, đây là chính là lợi ích của chúng sinh, loại từ đức,
pháp vũ này đều tràn ngập khắp nhân gian, giúp cho chúng sinh
đều có thể hưởng được đại lợi ích.
117
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
24. Linh Tiên Giới Luật
Hiện nay đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông trên thế giới đã có 4
vạn người, đệ tử quy y đến từ các nước trên khắp thế giới, con số
này là con số mà tôi đã phát “Giấy chứng nhận quy y”. Mỗi ngày,
đều có người đến quy y, đích thân đến Hoa Kỳ để tiếp nhận quy y
quán đảnh hoặc là viết thư yêu cầu quy y quán đảnh, tin rằng trong
mấy năm ngắn ngủi thì con số này sẽ tăng gấp mười lần, trăm lần.
Có rất nhiều đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông sau khi quy y thì hỏi
tôi rằng Linh Tiên Chân Phật Tông cần phải tuân thủ giới luật nào?
Chúng tôi đã viết trong Giấy chứng nhận quy y như sau: “Nay thể
theo Phật chỉ. Nhất tâm quy y Phật môn. Nhận lễ minh sư. Quy y
Liên Sinh pháp sư. Nguyện tận thọ phụng theo Phật ý thực hiện
hành thiện. Nguyện tận thọ thực hiện thụ trì pháp giới. Nguyện tận
thọ hiếu trung với quốc gia. Hiếu thuận với phụ mẫu. Lễ kính với
sư trưởng đồng môn. Suốt một đời phụng hành không thay đổi. Sơ
văn thượng tấu lên, khẩn xin thiên thượng địa hạ chư Phật Bồ Tát
cùng chứng giám.”
Trước tiên hãy nói đến giới luật của Linh Tiên, gọi là “Nguyện tận
thọ thực hiện thụ trì pháp giới” chính là cầu nguyện bản thân mình
có được tất cả sức lực tuổi thọ để phụng trì chánh pháp, giữ
nghiêm giới luật. Giới luật này là ngũ giới của Phật pháp, Linh
Tiên Chân Phật Tông của chúng ta là chính tông, là chính pháp của
Phật pháp, cho nên phải giữ ngũ giới của chánh pháp. Ngũ giới này
là:
1. Không sát sinh: có tấm lòng từ bi thương yêu mọi vật, không
được giết hại sinh vật, tích cực thực hiện phóng sinh.
2. Không uống rượu: không uống rượu đây là chỉ không say
rượu, không vì rượu mà loạn tính.
118
3. Không tà dâm: Ngoài chuyện ân ái giữa vợ chồng ra thì tất cả
đều là tà dâm.
4. Không được hai lưỡi: Không gây chuyện thị phi, phạm phải
khẩu nghiệp, phỉ báng chính nhân chính pháp, tất cả đều là
phạm tội nghiệt này.
5. Không trộm cắp: Đồ vật không phải của mình thì không được
ăn cắp, ăn trộm.
Đây là những giới luật căn bản nhất của Linh Tiên Chân Phật Tông
và cũng là giới luật căn bản nhất của Phật pháp, đệ tử Linh Tiên
cũng là đệ tử của Phật thì tất nhiên phải giữ ngũ giới này. Ngoài ra,
tu hành chính pháp của Phật môn, hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ,
kính trọng lễ phép với sư trưởng, tôn trọng đồng môn, đây là
những điều căn bản làm người, các điều này đương nhiên phải làm
được, nếu như những chuyện này mà làm cũng không được thì xin
hãy gửi trả “Giấy chứng nhận quy y” lại cho Thượng sư. Bởi vì
những đệ tử không tuân giữ luật giới này thì cho dù là quy y Linh
Tiên chân Phật Tông nhưng không phụng pháp trì giới cũng xem
như vô dụng, giữ trong tay một tờ “Giấy chứng nhận quy y” cũng
giống như tờ giấy vứt đi mà thôi.
Phàm là những đệ tử Linh Tiên tuân thủ ngũ giới, thực hành Thập
thiện thì tôi xin chúc phúc cho họ, thứ nhất sẽ không có kẻ thù oan
gia, rời xa mọi bệnh tật, tuổi thọ kéo dài cát tường an lạc. Thứ hai,
cả gia đình hoà thuận vui vẻ không tranh cãi, tránh mọi sự nịnh bợ,
nhận được sự tôn trọng của thế nhân. Thứ ba, những đệ tử giữ giới
hành thiện sẽ không gặp tai nạn ngoài ý muốn và không có chết
oan. Thứ tư, phàm là người giữ giới hành thiện thì chư thiên
thường gia hộ, chúng đệ tử đều quy kính tam bảo, đều nguyện tu
tập Bồ đề. Thứ năm, phúc điền viên mãn.
Do thế nhân chưa hẳn toàn là thánh hiền, do đó sẽ có người phạm
giới, người phạm giới nếu có lòng sám hối thì cần phải tu sám hối
pháp. Ở trước mặt Chư Phật thượng sư thành tâm phát nguyện sám
hối về những tội nghiệt đã làm trước kia.
119
Tội lỗi của con người có rất nhiều, không thể nào đếm hết được,
thí dụ là rất nhiều người không tin “nhân quả”, cũng không tin báo
ứng, vừa mở miệng là “Tôi không tin gì cả”, những người mà
không tin gì cả này chính là “tự cho mình cao sang” nên rất dễ
phóng dật, từ đó tạo ra tội nghiệt. Nguyên nhân mà có rất nhiều
người không tin gì cả là do bởi “kiêu ngạo”, bởi vì “tự bản thân
quá đức độ tôn cao”, “tự bản thân có tài lực”, “bản thân giữ vị trí
cao”, bản thân “trường thọ” thậm chí là “vô bệnh”. Phật đã từng
khuyến cáo chúng ta là: chúng ta không thể kiêu ngạo, bởi vì kiêu
ngạo sẽ đi sai khuôn phép, từ đó tạo ra ác nghiệp.
Trong thế gian này Thánh hiền thì ít, người ngu muội thì lại nhiều,
mọi hành vi đều chịu sự ràng buộc của vô minh, một khi quen bạn
xấu thì rất dễ theo đó bị ảnh hưởng xấu xuống, cho nên thế nhân
khi kết bạn phải đặc biệt cẩn thận, bạn bè nào có nhiều tật xấu thì
nên ít qua lại với hắn, bởi vì chỉ cần một lần thuận theo anh ta tức
là đã gieo xuống mầm mống cho nhiều lần thuận theo về sau, như
vậy sẽ rất dễ tạo ra ác nghiệp.
Lòng tham cũng là một trong bản tính của loài người, tham lam là
cám dỗ nhất mà ảnh hưởng loài người hướng đến tội lỗi, thí dụ
tham sắc là mỹ sắc mà mọi người đều thích, không nên đi ham mà
cũng muốn hưởng lợi, hạt giống tham lam này chính là loại mê
hoặc đầu tiên làm ảnh hưởng đến con người, đẩy con người vào
đường tội nghiệt, thí dụ như tham sắc, đối với mỹ sắc thì người nào
cũng mê luyến cả, thứ không nên tham lam nhưng lại muốn chiếm
lấy, loại mầm mống tham lam này sẽ quấn lấy con người, người tu
hành nên dùng phương pháp “quán không” và “quán bất tịnh” để
chuyển dời ý niệm tham sắc. Nếu không tu luyện như thế thì cả lão
hoà thượng, lão đạo sĩ cũng sẽ mỗi đêm mơ giấc xuân tiêu, tối tối
âm thầm tiểu tiện cả thôi. Đối với hai chữ “mỹ sắc” này người nào
có thể không tham lam thì mới được xem là tu sĩ thật sự có đức độ,
nếu có hành vi tham sắc thì đã tạo ra tội nghiệt lớn rồi. Tham tài
cũng giống như vậy, người vì tài mà chết, điểu vì thực mà vong,
ngoài những gì bản thân xứng đáng có được ra thì tham tài cũng là
mầm mống của sự phiền não, người tu hành phải hiểu được “tri túc
120
thường lạc”, có “tri túc thường lạc” thì mới không có dục vọng
tham tài, đây chính là vô tham phẩm tự cao.
Người vì đố kỵ mà hãm hại người khác thì trong lòng cũng thường
phiền não.
Ngoài ra còn có tội nghiệp nặng hơn nữa là Ngũ nghịch tội. Giống
như là phá hoại Phật tháp hoặc là chùa chiền, thiêu hủy Kinh thư
Phật điển, hủy hoại tượng Phật, lấy trộm tài vật của tam bảo, phỉ
báng Phật pháp, lăng mạ thánh giáo, hãm hại người tu hành chính
pháp. Sát hại cha mẹ, xuất Phật thân huyết, phá hoà hợp tăng, sát A
La Hán. Vứt bỏ nhân quả, thường hành thập bất thiện nghiệp, đây
chính là “Ngũ nghịch tội” rất nghiêm trọng.
Người phạm phải những tội lỗi này hãy nhanh nhanh sám hối,
quảng thuyết chính pháp, tạo lợi ích cho thiên hạ chúng sinh, dùng
chính pháp để hàng phục tâm ma, chuyển đại pháp luân, dùng Lục
Ba La Mật Pháp để tiêu trừ đi Thập bất thiện nghiệp, chế ngự dục
vọng tham sân si, như thế thì những phiền não và đau khổ sẽ đều
tan biến, giúp cho tự tính phát quang đạt được viên mãn.
Đệ tử Linh Tiên khi đắc được đại trí tuệ về túc mệnh, có thể đắc
chứng được trăm ngàn kiếp, có thể ngày ngày tu luyện chính giáo
chính pháp của Như Lai truyền lại, làm tất cả tuỳ duyên thiện
nghiệp, phụng sự Thượng sư tôn kính nhất, xa rời mọi bất thiện,
mãi mãi tu luyện diệu pháp chân chính, như vậy sẽ tự nhiên “thân
tâm an lạc”, thân tướng đều viên mãn, dùng những điều tốt đẹp để
cứu hộ tội khổ chúng sinh, nhanh chóng chứng vô thượng đại Bồ
Đề.
Khi tu luyện Sám hối pháp có 5 điểm quan trọng sau:
1. Thỉnh Phật chứng – cần phải phụng mời “Vô Lượng Thọ Phật”,
“Thắng Quang Phật”, “Diệu Quang Phật”, “A Phật”, “Công Đức
Thiện Quang Phật”, “Sư Tử Quang Minh Phật”, “Nhật Quang
Minh Phật”, “Võng Quang Minh Phật”, “Bảo Tướng Phật”, “Bảo
Diệm Phật”, “Diệm Minh Phật”, “Diệm Thịnh Minh Quang Phật”,
“Cát Tường Thượng Vương Phật”, “Vi Diệu Thanh Phật”, “Diệu
Trang Nghiêm Phật”, “Pháp Tràng Phật”, “Thượng Thắng Thân
121
Phật”, “Khả Ái Sắc Thân Phật”, “Quang Minh Biên Chiếu Phật”,
“Phạm Tĩnh Vương Phật”, “Thượng Tính Phật”. Ở Tây phương
mời Tam tôn, Đông phương mời Ngũ Phật, Nam phương mời Ngũ
Phật, Bắc phương mời Bát Phật. 21 vị Phật này đều phải cung kính
phụng mời đến quán tưởng, để làm chứng tri sám hối của chúng ta
trong không trung.
2. Phát quang tiêu trừ trở ngại: Uy lực của 21 vị Phật này có thể
giúp cho người tạo ác nghiệp được diệt tội đắc phúc, đây là công
đức chân thực của 21 vị Phật này. Người tu hành tĩnh tâm suy nghĩ
đến 21 vị Phật này đang giáng lâm trong không trung, mỗi vị Phật
đều phát ra quang minh vô lượng từ các lỗ chân lông, có muôn
ngàn màu sắc của các loại quanh minh. Ánh sáng trước tiên phát ra
từ lỗ chân lông sau đó phóng ra đại quang minh, cả hai đan vào
nhau trở thành vô lượng sắc. Tia sáng này vừa chiếu rọi thì tất cả
Sát thổ của thập phương thế giới đều biến thành Phật quốc, bản
thân cũng được an bình trú trong thế giới quang minh. Tất cả ngũ
trược ác thế đều được Phật quang soi sáng. 21 vị Phật này phát ra
ánh sáng soi rọi khắp nơi, khi chiếu đến uế quốc lập tức hoá thành
Phật quốc. Kế đó chiếu đến chúng sinh, giúp cho thập đại ác
nghiệp, ngũ vô gián tội, phỉ báng Tam Bảo, bất kính Thượng sư,
không hiếu thuận với cha mẹ của chúng sinh, những kẻ phải sa địa
ngục làm ác quỷ, súc sinh đều được giải thoát nhờ quang minh soi
sáng của 21 vị Phật này. Thứ ba chiếu đỉnh bản thân, giúp tiêu trừ
ác nghiệp của bản thân, nhờ có lực bảo hộ của Phật quang mà tất
cả đều được an lạc, đoan trang, tất cả hạnh phúc trí tuệ đều có đủ,
được trang nghiêm như Phật vậy, đắc kiến tất cả chư Phật của thập
phương tam thế.
3. Xưng tên và đọc chú – Nếu người tu hành thấy được ánh sáng
thì phải thành tâm tụng niệm tên của 21 vị Phật này ba lần, tiếp đó
tụng chân ngôn xóa tội của bảy vị Phật: “Li Ba Li Ba Đế. Cầu ha
Cầu ha Đế. Đà La Ni Đế. Ni La Lạp Đế. Tì Li Ni Đế. Ma ha Già
Đế. Chân Ninh Can Đế. Sa Bà hạ.” Chú này phải niệm tổng cộng
108 lần cho đến 1080 lần
122
4. Thủ ấn khi quán tưởng, tay trái nắm lại quyền đặt ở thắt lưng,
tay phải xòe ra, 5 ngón duỗi thẳng, giống như năm đạo sắc quang
tự nhiên phát ra soi sáng chiếu rọi vậy, lòng bàn tay đặt ở tâm khẩu.
5. Hồi hướng sám hối – tất cả những nghiệp chướng do bản thân
tạo ra trong nhiều kiếp, đáng phải chịu sa vào ác đạo, địa ngục, làm
súc sinh, ác quỷ hoặc đọa thân nơi A Tu La, thậm chí rơi vào nơi
bát nạn, tất cả đều có thể nhờ bản thân tu tập chánh pháp sám hối
để tiêu trừ đi những nghiệp chướng này, sẽ tránh được hứng chịu
mọi ác báo trong tương lai. Cũng giống như chư đại Bồ Tát khi tu
Bồ đề hành trong quá khứ cũng đã sám hối tất cả các nghiệp
chướng, nghiệp chướng của bản thân cũng phát lộ sám hối toàn bộ,
cầu nguyện tất cả tội ác hiện tại đều được tiêu trừ, về sau sẽ không
tiếp tục gây ra ác nghiệp nữa. Cung thỉnh 21 vị Phật làm chứng tri
chứng giám.
Những người tu luyện pháp này và Linh Tiên Căn bản sám hối
pháp cũng sẽ được gia trì “Tứ Gia hành pháp” và “Thượng sư
tương ứng pháp”, tất cả đều chiếu theo nghi lễ tiến hành thì có thể
tiêu trừ tội nghiệp, đắc được vô lượng phúc.
123
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
25.Chuyện cũ Đại Uy Đức Kim Cương Pháp hội
Khi tôi ở Philippin có thu được một đệ tử tên là cư sĩ Liêu Hiền An,
lấy pháp hiệu là Liên Thủ. Về sau trong lúc thiền định tôi đã quan
sát anh ta thì nhận ra anh ta là đại đệ tử đầu tiên của Đại Bảo Pháp
Vương và cũng là đại đệ tử của Pháp Hiền Kim Cương thượng sư,
vai vế anh ta rất cao, bởi thế từ khi anh ta quy y, tôi nghĩ là sẽ giao
phó trọng trách cho anh ta, hi vọng đệ tử Liên Thủ này sẽ lo liệu
việc thành lập phân đường của Linh Tiên Tịnh Xá ở Philippin. Thế
là Linh Tiên Chân Phật Tông đã có một phân đường tại Philippin,
phân đường này chính là Linh Tiên Tịnh Xá Liên Quang đường.
Địa chỉ của “ đường Linh Tiên Tinh Xá Liên Quang” là:
“Room 404, CrystalMansion 372, MuelledeBinondo, Manila,
Philppines.”
Tôi hi vọng đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông ở Philippin sau khi
đọc được bài viết này sẽ chủ động liên lạc với Liên Thủ, qua đó sẽ
phát triển pháp vụ của Linh Tiên Chân Phật Tông ở Philippin.
Bản thân tôi biết Liêu Hiền An học Mật giáo đã nhiều năm, đã lễ
bái qua rất nhiều Thượng sư, lúc Ấn Thuận đạo sư sang Philippin
để phát triển đạo pháp cũng là do Liêu Hiền An cư sĩ đảm nhiệm
công tác phiên dịch, phàm là tất cả những nghi lễ tu luyện Mật
pháp lớn nhỏ anh ta đều biết cả. Do vậy người mới học Linh Tiên
Chân Phật Tông pháp đều do anh ta truyền thụ “Tứ gia hành” và
“Thượng sư tương ứng”.
Tôi đã ưng thuận trong tương lai không xa, tôi sẽ truyền đạo khắp
toàn cầu, khi đến Philippin sẽ đem “Linh Tiên Địa lý pháp” và
“Nội Hoả Minh Điểm pháp” cùng với “Vô Thượng Mật” truyền
thụ cho anh ta.
Từ nơi Liên Thủ tôi đã biết được một chuyện quan trọng của Đại
Uy Đức Kim Cương pháp hội ngày trước. Đại Uy Đức Kim Cương
124
pháp này có hai bộ, một bộ tên là: “Đại Uy Đức Kim Cương Bố
Uý Bản Tôn Độc Dũng Thành Tựu Nghi Trục Thắng Ma Tràng
Kinh”, bộ kia là: “Đại Uy Đức Kim Cương Bố Uý Thập Tam Tôn
Thành Tựu Nghi Trục Bảo Kiếp Hối Dịch Tri Quan Tụng Văn Thù
Chân Nghiêm Kinh”. Vào những năm 30, Pháp Hiền Kim Cương
thượng sư (tức là Thượng sư Khuất Ánh Quang) ở Thượng Hải,
được Tự Tiền Ban Thiền Lạt Ma truyền thụ. Lúc đó ở Thượng Hải
trong khung cảnh trang nghiêm đã tu trì Đại Uy Đức Kim Cương
Hộ Quốc Tịch Tai Pháp hội, đến tham dự pháp hội đều là các Đại
Đức Thượng sư của Mật Tông trong nước như là: Trần Viên Bạch,
Hàn Đại Đới, Chu Đồng Sinh (Từ Uy Thượng sư), Tôn Cảnh
Phong. Pháp nguyên thù thắng có thể nói là rầm rộ chưa từng thấy.
Nay tôi viết bài kệ tụng của Đại Uy Đức Kim Cương như sau:
Nhất thiết Phật phụ chí tôn diệu cát tường.
Tồi hoại nội ngoại ma quân ngục chủ tôn.
Tức bỉ hoá nhân thân dung Tôn Lạc Ba.
Bất nhị Thượng sư Kim Cương kim kính lễ.
Văn Thù Phẫn Nộ Kim Cương Đại Uy Đức.
Đại Mật nhị cấp thành tựu tu chí pháp.
Y tục Thượng sư vô cấu chi chân nghĩa.
Minh giảng sự nghiệp ngục chủ kỳ hộ trì.
Đại Uy Đức Kim Cương chính là hóa thân Kim Cương của Văn
Thù Bồ Tát, muốn tu pháp này trước hết nên tu tập Văn Thù Bồ
Tát pháp, đồng thời niệm Văn Thù Bồ Tát Tâm chú ít nhất 10 vạn
lần, nghiêm khắc hơn thì phải niệm 100 vạn lần. Tất cả đệ tử của
Đại Bảo Pháp Vương đều phải niệm tâm chú Văn Thù 100 vạn lần
thì mới có tư cách tu tập mật pháp “Đại Uy Đức Kim Cương”. Mật
pháp này là một trong Ngũ Đại Kim Cương pháp.
Dưới đây là thư gửi của đệ tử Liên Thủ:
Kính gửi Lư Thượng sư:
125
Vào năm 1957 đệ tử quy y Khai Sơn Tổ Sư Phật giáo của Philipin
thừa nguyện làm hoà thượng, sau khi quy y thì chủ nhật mỗi tuần
đều đến chùa Hoa Tạng, ngày thường cùng với tiến sĩ Tô Hành
Tam sống ở gần đó cùng nghiên cứu Phật pháp. Tiến sĩ Tô là thầy
của đệ tử thời trung học, do vốn dĩ là thầy trò với nhau nên khi gặp
lại tình cảm lại càng thân thiết hơn. Tiến sĩ Tô vốn là tín đồ Cơ
Đốc, vào thời Nhật trị ( năm 1941) mới chuyên nghiên cứu Phật
học và gia nhập vào Phật môn, trong mỗi buổi thuyết giảng kinh
của ông ấy các chỗ ngồi đều chật kín, thính giả phần lớn là thanh
thiếu niên và phần tử trí thức, pháp duyên rất là tốt đẹp.
Tiến sĩ Tô kiêm tu cả Hiển Mật, Đông mật mà ông ấy tu tập là dựa
vào Trì Tùng A Xà Lê ở Thượng Hải. Trong thời gian đó đã truyền
lại Đông mật cho đệ tử. Về sau giới thiệu tôi muốn học Tạng Mật
có thể tới chùa Tín Nguyện để bái kiến Pháp sư Thiện Khế, do sư
đệ của pháp sư Thiện Khế (pháp sư Thiện Kiến chùa Nam Phổ Đà
ở Hạ Môn) dựa theo Thượng sư Từ Uy Kim Cương ở Nam Kinh
để học Tạng Mật, mà Thượng sư Từ Uy Kim Cương thuộc Hồng
giáo (đệ tử của Thương sư Nặc Na Hô Đồ Khắc Đồ và Thượng sư
Cống Cát), sau khi quy y Từ Uy Kim Cương thượng sư, thì lại quy
y Khuất Ánh Quang Kim Cương thượng sư, Cách Lai Đạt Cát Lạt
Ma và Cam Châu Phật Ông.
Vào năm 1970, do đệ tử bế quan ở Gia Lâm Bàng Ấn Độ được
Thượng sư Trần Kiến Dân giới thiệu quy y theo Thập Lục Đại Bảo
Pháp vương tại Sikkim (Karama Choemilleye) là người đầu tiên ở
Philippin quen biết và quy y theo pháp vương. Đại Bảo Pháp
Vương vào năm 1975 trong khoảng thời gian này một vị đại đức
Lý Dư Thuỵ Bình, lần đầu tiên phát tâm kính mời đến Phi Đảo
phát dương đạo pháp, đồng thời còn ủy quyền cho năm nhánh tổ
chứ ở nơi này là: Quảng Giác tịnh xá, Nặc Na tịnh xá, Từ Uy Pháp
Uyển, Kim Cương Thừa hiệp hội, Cát Ma Ba Mật viện. Đệ tử
chính thức phụ trách Mật viện Cát Ma Ba (Karmapa).
Đại Bảo Pháp Vương đời thứ 16 ghé đến Phi Đảo hoằng pháp hai
lần, lần thứ nhất là năm 1975, lần thứ hai là năm 1978, hai lần này
đều tổ chức Kim Cương Bảo Quán Đại pháp hội. Vào 1981 Pháp
126
vương đã viên tịch tại Chicago nước Mỹ. Từ sau khi Đại Bảo Pháp
Vương đời thứ 16 đến Phi Đảo truyền pháp ba trong bốn Tứ Đại
Kim cương thuộc hạ của ông ta là: SituRinpose-hei, Jamgm và
Shurmar đều lần lượt đến Phi Đảo truyền pháp quán đảnh, đặc biệt
là đại Kim Cương lớn tuổi đã sống ở đây đến 14 tháng, tất cả các
pháp hội truyền pháp quán đảnh, chúng đệ tử đều tham dự đầy đủ,
đáng tiếc là tất cả các pháp bổn truyền pháp phần lớn đều là chữ
Tạng và tiếng Anh, pháp vương phái xuống đa phần đều ủng hộ tu
luyện Tạng âm, Từ Uy Pháp Uyển được thành lập vào năm 1967,
trước khi chưa thành lập đều do đệ tử chủ trì tu Mật Pháp vụ.
Thắng Lạc Kim Cương Pháp là một trong Ngũ Đại Kim Cương
pháp, pháp danh là “Cụ Đức Tổng Tập Luân Tu Niệm Nghi Trục”,
đây chính là đại pháp huyền diệu nhất của Bạch giáo, là lễ pháp
hợp tu của Thắng Lạc Kim Cương và Kim Cương Hợi Mẫu. Còn ở
Phi Đảo vẫn chưa có Thời Luân Kim Cương pháp hội, là vì Thời
Luân Kim Cương quán tưởng rất phức tạp, diện tích đàn tràng phải
cần rất lớn, thời gian pháp hội truyền pháp phải dài và không được
đứt quãng, pháp hội truyền pháp phải cần mười vị Lạt Ma trở lên,
thời gian này vẫn chưa có nhân duyên như vậy. Tháng tư năm
1983, “KaluRin-Poehes” của Bạch giáo đã từng truyền thụ qua một
lần ở trung tâm NewYork nước Mỹ.
Cát Tường Liên Thủ đệ tử Liêu Hiền An đảnh lễ.
Đối với đệ tử Liên Thủ quy y Linh Tiên Chân Phật Tông, tôi
đương nhiên rất là vui mừng, vì là anh ta đệ tử số một của Đại Bảo
Pháp Vương đời thừ 16 tại Phi Đảo, cũng là đệ tử của Pháp Hiền
Kim Cương Thượng sư, đồng thời còn là đệ tử của nhiều vị Mật
Tông Thượng sư, thời gian anh ta học Mật giáo dài hơn tôi, có
nhân duyên với tôi rất sâu nặng. Theo lý mà nói, Đại Bảo pháp
vương đời thứ 16 là Thượng sư của tôi, Pháp Hiền Kim Cương
Thượng sư là tiền bối của tôi, tôi không thể thu nhận đệ tử như vậy.
Nhưng kế thừa của tôi không giống như người khác, Linh Tiên
Chân Phật Tông là do tôi sáng tạo ra. Tôi đã được Liên Hoa Sinh
tổ sư của Tạng mật quán đảnh và ban tặng “Hồng Quán Thánh
127
Miện”, là một vị Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng sư,
Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đích thân trong lúc thiền định ban cho vinh
dự lớn được quán đảnh, là Đại Trì Minh Kim Cương A Xà Lê, kể
cả một số Hắc giáo hắc pháp đều do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đích
thân truyền thụ, đại viên mãn Vô Thượng Mật của Hồng giáo cũng
do Ngài truyền thụ
Tôi được Thích Ca Mâu Ni Phật xoa đỉnh thụ ký, ban cho “đỉnh
thượng hoá Phật thủ”, từ trên đỉnh đầu bản thân mọc ra cánh tay,
Thích Ca Mâu Ni Phật ban cho tôi một pho “Vô Thượng Mâu Ni
Phật” đặt trong lòng bàn tay, sau đó cánh tay của tôi thu về từ đỉnh
môn, “Vô Thượng Mâu Ni Phật” cùng tôi hợp nhất lại, tôi nhận
được sự tán thán của Thập phương Phật và Tam Thế Bồ Tát, đại
thiền định đại ngộ cảnh như vậy khi mọi thứ đều viên mãn, tôi cảm
nhận được nhất thông tức bách thông, thập phương thượng hạ,
trăm năm ngàn năm tất cả đều thông tỏ, chân tánh hiện rõ, thập
phương pháp tánh đều kết thành một, tôi tự biết trách phận to lớn,
ghi chép Linh thư từ đơn giản đến cao thâm, có một số đại pháp đã
truyền ra ngoài từ tay tôi, nếu tôi không truyền thì há có người
truyền ra? Cho nên Mật pháp của tôi là Vô Thượng Mật, là hoàn
toàn chân thực không có chút giả dối nào cả, không phải như
phương thầy thuốc giang hồ chỉ chuyên bán thuốc giả, Lư Thắng
Ngạn tôi dám cam đoan như thế, nếu như thật sự “kính sư, trọng
pháp, thực tu” mà đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông vẫn chưa thành
Phật thì Lư Thắng Ngạn tôi sẽ chịu trách nhiệm.
Đệ tử Liên Thủ tu Mật pháp đã nhiều năm, hiện nay quy y theo
Linh Tiên Chân Phật Tông, đây là một niềm vinh dự cho tôn phái
này, tôi sẽ truyền thụ “Địa lý pháp nhập thế” và “Vô Thượng Mật
xuất thế” cho anh ta. Một số Đại Pháp Hiển mật của tôi, tất cả đều
sẽ được truyền ra, người có duyên xin nhanh chóng cầu quy y quán
đảnh.
Mật pháp của tôi là đại năng tự do tự tại của Đại Nhật Như Lai, tôi
đã có “Phật nhãn” có thể tự do điều khiển thủy hoả, tu hành mật
pháp không có tận cùng, cảnh giới của tôi đã nhập vào trung ương
của Thần hội căn bản, vị trí ở trung ương của cửu hội Mạn Đà La,
128
tâm và đại năng của vũ trụ đã hợp thành một, thân đã nhập vào
cảnh giới Niết bàn như Phật vậy, tự do tự tại như không. “Linh
Tiên Mật pháp là Mật pháp của toàn thế giới”.
129
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
26. Đại Uy Đức Kim Cương Giáo Lịnh Luân Pháp – Một trong
ngũ đại Kim Cương pháp
Đại Uy Đức Kim Cương chính là một vị tổ sư vì muốn độ hoá
những tín đồ mê tín của Hắc giáo nên đã nhập vào Tam Ma địa của
Văn Thù Bồ Tát, hoá sinh làm một vị Đại Kim Cương thần. Đại
Uy Đức Kim Cương này chính là hình tướng Kim Cương phẫn nộ
của Văn Thù Bồ Tát. Đệ tử Mật giáo muốn tu được Đại Uy Đắc
Kim Cương Pháp thì nhất định phải tu tập Văn Thù Bồ Tát pháp
trước, niệm Văn Thù Bồ Tát tâm chú 10 vạn lần hoặc là 100 vạn
lần thì mới có thể tu trì Đại Kim Cương pháp này.
Hôm nay tôi viết ra bí mật “Đại Uy Đức Kim Cương Giáo Lệnh
Luân Pháp” của Ngũ Đại Kim Cương pháp này vốn dĩ là một đại
sự chưa từng phổ biến trong thiên hạ, bởi vì Đại Uy Đức Kim
Cương này chính là bí mật trong bí mật, pháp trong pháp, người tu
luyện Đại Uy Đức Kim Cương Giáo Lệnh thì yêu ma quỷ quái
trong thiên hạ khi gặp phải đều kinh sợ, bất cứ thần thánh nào trên
trời khi gặp mặt đều cung kính chắp tay để nghe lời chỉ dạy. Pháp
này tuy là một trong ngũ đại Kim Cương Pháp nhưng lại có đại
pháp lực không thể tưởng tượng được.
Đại Uy Đức Kim Cương vì muốn độ hóa tín chúng Hắc giáo nên
đã hóa ra hai pháp tướng, một tướng có đại đầu trâu, Hoàng giáo
tôn thờ đại Kim Cương thần có hình đầu trâu này. Ở Đông Mật thì
hình tướng ngài có cưỡi con trâu nước lớn. Do bởi Hắc giáo vốn là
tà giáo của những thầy mo thờ bái trâu, ngày nay Hắc giáo sau khi
bị đào thải cũng sớm đã bị chôn vùi. Người nào mà tự xưng “Hắc
giáo” nữa thì chính là kẻ không biết nhục nhã gì cả nhất trên đời
này. Nếu có người vẫn tín ngưỡng Hắc giáo nữa thì đây chính là
thế nhân vô tri, thật đáng thương thay!
Tôi đặc biệt kể ra các điểm trọng yếu khi tu tập pháp này như sau:
130
Tứ quy y, đại lễ bái, tứ vô lượng tâm, đại cúng dường.
Cầu thỉnh Đại Uy Đức Kim Cương (thuật lại như sau)
Nhất thiết Phật phụ chí tôn diệu cát tường.
Tồi hoại nội ngoại ma quân ngục chủ tôn.
Tức bỉ hoá nhân thân dung Tôn Lạc Ba.
Bất nhị Thượng sư Kim Cương kim kính lễ.
Văn Thù Phẫn nộ Kim Cương Đại Uy Đức.
Đại Mật nhị cấp thành tựu tu chí pháp.
Y tục Thượng sư vô cấu chi chân nghĩa.
Minh giảng sự nghiệp ngục chủ kỳ hộ trì.
Tụng tiếp như sau:
Diêm Man Đức Ca Minh Vương lệnh tại.
Luân chuyển giáo chủ tối đại thắng tôn.
Chư Ma bố uý tật giai quy y.
Kỳ trừ ma sự đại thùy gia hộ.
Quán tưởng: Tu tập pháp này, trước tiên quán tưởng Văn Thù Bồ
Tát, trong không trung mọi thứ đều vô hữu, từ một chữ “Đê” (DHI)
của Phạn ngữ, từ từ biến thành một pho Văn Thù Bồ Tát trong
không trung, Văn Thù Bồ Tát này có màu vàng đỏ, đầu đội Ngũ
Phật quán nhỏ, tóc búi cao, một đầu hai cánh tay, hiện theo hình
tướng đồng tử, tay phải cầm bảo kiếm, tay trái là Thuyết pháp ấn,
ngồi trên một con sư tử, khắp người của Văn Thù Bồ Tát đeo chuỗi
ngọc, dáng vẻ vô cùng trang nghiêm.
Kế đó Văn Thù Bồ Tát sẽ từ đỉnh môn phóng ra một tia sáng màu
đen, trong ánh sáng đen này sẽ hiện lên một pho tượng Đại Uy
Đức Minh Vương, tôi sẽ kể về hình tướng Đại Uy Đức Minh
Vương của Đông Mật trước. Hình tướng của Đại Uy Đức Minh
Vương của Đông mật như sau: gồm có 6 mặt, 6 cánh tay, 6 chân,
131
bụng của Minh Vương có màu đen, toàn thân mang đầy khô lâu,
thân vận quần áo da hổ, tóc búi dựng đứng lên, sắc mắt đỏ ngầu, có
một mặt có 3 con mắt, mặt chính há miệng lớn với dáng vẻ phẫn
nộ, răng nhọn lộ ra ngoài, lưỡi thò ra như điện chớp, trên đỉnh đầu
là Văn Thù Bồ Tát, đầu bên mặt phải đều thè lưỡi dài, đầu bên mặt
trái thì khép miệng lại ngậm chặt môi làm vẻ phẫn nộ, đầu của mặt
phía sau với khuôn mặt cười thịnh nộ, bốn đầu ở trên có một đầu
quỷ vương, trên đầu quỷ vương là đầu của Văn Thù Bồ Tát, chỉ có
đầu của Văn Thù mới có diện tướng hiền từ, ngoài ra đều là những
hình tướng phẫn nộ. 6 tay của Minh Vương đều cầm pháp khí. Tay
thứ nhất bên phải cầm lợi kiếm, tay thứ hai cầm Kim Cương chử,
tay thứ ba cầm cung tên, tay thứ nhất bên trái cầm giải lụa hoặc Kỳ
khắc ấn, tay thứ hai cầm Ban nhược kinh, tay thứ ba cầm cung,
toàn thân phần lớn là màu đen, ngồi trên một con trâu nước bảy
màu, dưới chân của con trâu nước là tòa sen lớn.
Còn hình tướng Đại Uy Đức Kim Cương của Tạng Mật thì lại có
chỗ không giống, trên cao nhất là hình tướng Văn Thù Bồ Tát, ở
dưới là quỷ vương, bên dưới có bốn mặt, chính diện là hình đầu
trâu phẫn nộ, răng thì lộ ra, lưỡi như điện chớp, có hai sừng trâu
lớn, ba con mắt trâu, có 18 cánh tay, ngoài những tay cầm pháp khí
ra thì những tay còn lại đều kết phẫn nộ ấn, 2 chân to, giẫm lên 2
con thú lớn, toàn thân đeo đầu lâu với dạng tướng trang nghiêm,
thân trên là màu vàng, thân dưới là màu đen. Ngoài những điểm
này ra thì đa phần còn lại đều tương đồng với hình tướng Đông
mật.
Thủ ấn: Lúc quán tưởng phải kết “Đại Uy Đức Kim Cương căn
bản ấn”, 2 tay hướng vào trong với dạng quyền thức, 2 ngón giữa
dựng đứng hướng lên trời tựa vào nhau. Đây là hình tướng Đại Uy
Đức căn bản ấn. Cũng tức là 2 tay nắm lại trước thành quyền, sau
đó duỗi thẳng 2 ngón giữa tựa vào nhau.
Sau khi kết tướng quán tưởng xong hãy tưởng niệm đến pháp thân
của Đại Uy Đức Kim Cương, bắt đầu xoay chuyển biến thành một
luồng ánh sáng tím có đại pháp lực, sau đó từ đỉnh môn từ từ tiến
132
nhập vào trong thân của người tu hành, quán tưởng bản thân trở
thành Đại Uy Đức Kim Cương Minh Vương.
Nhập định Tam Ma địa.
Sau khi xuất định thì niệm lại tâm chú Đại Uy Đức Kim Cương:
“Ông. Sắt Chí Li. Già La Lỗ Bà Hồng. Khiếm Sa Bà Hạ”, căn bản
tâm chú niệm tổng cộng 108 lần.
Đại Uy Đức Kim Cương Pháp này có lễ pháp giống với Phật Mẫu
hợp tu, cho nên cũng có Phật Mẫu Chú, sách này không nói đến
hãy đợi khi có duyên vậy. Ngoài ra Đại Uy Đức Kim Cương Pháp
cũng có Minh chú, cũng có Hành nghiệp chú, cũng như có Tâm
chú, do tu pháp phức tạp, không thích hợp với cá nhân tu luyện,
cho nên mới giản lược mà không nhắc tới. Người tu luyện pháp
này thì những ác quả báo ứng của Tam Thế Nhân Quả đều được
tiêu tan, không sinh ra nữa, mọi oan gia kẻ xấu đều không thể khi
hiếp, thậm chí ngay cả quỷ thần nào cũng đều phải nghe giáo lệnh
của Đại Uy Đức Kim Cương, dùng Đại Uy Đức Kim Cương Căn
bản thủ ấn ném vào bất cứ hướng nào thì người nào ở hướng nào
cũng đều phải nghe giáo lệnh Đại Uy Đức Kim Cương do Thượng
Sư hóa thân, bởi vì là một pháp lớn như thế nên mới gọi là đại mật
pháp của Đại Uy Đức Kim Cương.
Mật đàn để tu luyện pháp này, phía trên có thể thờ cúng Tam Bảo
Như Lai, ở giữa có thể thờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, ở phía dưới
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì thờ Đại Uy Đức Kim Cương. Theo lý
mà nói, tượng Tam Bảo Như Lai rất dễ tìm được, tượng Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát cỡi Sư Tử cũng rất dễ tìm được, nhưng tượng Đại
Uy Đức Kim Cương thì phải vào chùa của Mật Tông thì mới dễ
phụng thỉnh về được. Đại Uy Đức Kim Cương cũng có pháp tướng
song thân, tôi trước đây có đến xem qua một tiệm đồ cổ và cũng
đến qua một tiệm chuyên bán pháp khi Phật giáo, đây là tượng
cùng ôm nhau ngộ đạo của Đại Uy Đức Kim Cương và Phật mẫu,
người ngoài gọi vui là “Hoan Hỷ Phật”.
Mật Tông tu pháp đích thực là có hai cách tu, tuy nhiên số người
nhập vào ma vọng rất nhiều, cho nên từ sau Tôn Lạc Ba của Hoàng
133
giáo thì đã cấm các tăng nhân Hoàng giáo tu song thân pháp, chỉ
có thể xem mà không thể làm theo. Tu pháp của mật đàn Đại Uy
Đức Kim Cương tất nhiên không thể thờ cúng tượng song thân
được, thế nhưng các Mo Sư tà đạo của Hắc giáo Tây Tạng từ trước
giờ phần nhiều đều thờ cúng tượng song thân.
Ở Beverly Hills nước Mỹ có một vị nữ Hoa kiều người Thái, tuổi
đã hơn 40, do nhà có nhiều tiền lại thành tâm tin Phật pháp, bị
người dẫn dụ vào Hắc giáo và bị mê hoặc, mỗi ngày đều cùng với
Mo sư của Hắc giáo, nghe đâu là đệ tử của một người nào đó, chạy
đông chạy tây, về sau khi đọc được quyển “Hắc giáo Hắc pháp” thì
bỗng nhiên tỉnh ngộ, hiểu ra Hắc giáo vốn dĩ là Ngưu giáo Tà thần
của Tây Tạng, tức thì tự động rời xa Mo sư của Hắc giáo.
Không ngờ rằng Mo sư Hắc giáo ngày thường dẫn cô này đi nơi
này nơi nọ, tất cả đều xài tiền của cô này, ăn ở cũng trông cậy vào,
bỗng chốc mất đi chỗ dựa liền thẹn quá hoá giận bèn sử dụng Mo
thuật của Hắc đạo làm cho đôi chân của cô Hoa Kiều đó không còn
sức lực, chỉ ngồi trên xe lăn, Mo sư Hắc giáo đó còn doạ dẫm cô ta
là: “nếu như không ngoan ngoãn nghe lời thì chẳng những có thể
làm cho cô ngồi xe lăn, mà còn có thể khiến cho cô chết trên
giường cũng được, mãi mãi không thể tái thế làm người.”
Vị nữ Hoa Kiều này bị Mo sư Hắc giáo đe dọa vô cùng hoảng sợ,
đi khắp nơi tìm bác sĩ chữa trị, nhưng tất cả đều nói là không có
bệnh, tìm mãi không ra nguyên nhân bệnh, tìm tăng sư Ấn Độ để
thí pháp cũng không có hiệu quả, đến cầu cứu Mo sư của nước Mỹ,
Mo sư chỉ nhìn thuỷ tinh cầu chỉ biết được là đã trúng phải tà thuật,
kế đó thi hành pháp thuật cũng không có hiệu quả gì.
Sau đó, nữ Hoa Kiều không còn cách nào nữa bèn viết thư cầu cứu
tôi, trong thư cô ấy nói rõ bản thân vốn là tín đồ thành tâm của
Phật giáo bị người dẫn dụ vào Hắc giáo, đi khắp nơi để nghe
thuyết giảng, sau đó cùng với đệ tử của một người nào đó đi đây
đó xem phong thuỷ, trong nhà bản thân cũng mời người nào đó đến
xem qua, chị em của cô ấy cũng rất nhiều, cô ấy cũng giới thiệu chị
em mình tin tưởng Hắc giáo, cả nhà đều tin mê vào Hắc giáo, 2
134
đứa em gái thì càng tin mê hơn, việc chính không làm mà làm tuỳ
tùng cho người nào đó đi khắp nơi xem phong thuỷ, làm cả gia
đình xào xáo không yên, nhưng trước sau vẫn không có cách gì
thức tỉnh được.
Gần đây, có người giới thiệu cho quyển sách “Hắc giáo Hắc pháp”
thì mới hiểu ra Hắc giáo là tà giáo tà pháp, bèn mới quyết định
thoát khỏi Mo sư họ Hạ của Hắc giáo, tuy nhiên quyết định này bị
Mo sư họ Hạ kia biết được bèn thi hành Mo thuật của Hắc đạo, thế
là cô ấy không bao lâu sau phải ngồi xe lăn, bây giờ không còn
đường nào để cầu cứu, chỉ còn cách cầu cứu tôi, hi vọng tôi giải trừ
Hắc giáo Hắc pháp.
Tôi vốn dĩ không muốn lo những chuyện tầm phào, việc thi hành
ma thuật của Mo Sư Hắc giáo để trừng phạt tín đồ của Hắc giáo,
đây là chuyện xấu của hắc giáo. Nhưng vị nữ Hoa Kiều này nói là
đã xem qua quyển Hắc giáo Hắc pháp của tôi nên mới tỉnh ngộ,
như thế tuy là tôi không giết Bá Nhân nhưng xem như cũng là tôi
đã hại cô ấy, tôi suy nghĩ rất lâu mới quyết định thi pháp cứu cô ấy.
Vào ngày 15 tháng 10 năm 1983, ở nhà tôi dựng lên Đại Uy Đức
Kim Cương Gíao Lệnh Luân Đàn, lấy ra Kim Cương chử và Kim
Cương linh để gia trì Mật pháp, chuông và chày này xuất xứ từ Lạt
Ma Tây Tạng mang đến từ Nepal, sau đó do các thương nhân bán
đến Hồng Kông, các lão hữu Mật Tôn lại gia trì thêm, về sau đó
chuyển tặng cho tôi, tôi cầm Kim Cương chử chỉ về phía Nam,
dùng chuông phụng thỉnh chư Đại Uy Đức Kim Cương. Tôi lại
dùng Độc cổ Kim Cương chử bằng thủy tinh chế thành, Độc cổ
Kim Cương chử này chính là Kim Cương châm của Kiên cố kết tại
trung tâm của Đại Uy Đức Kim Cương căn bản thủ ấn, sau đó thi
hành quán tưởng Đại Uy Đức Kim Cương. Đợi khi tôi với Đại Uy
Đức Kim Cương cùng hợp nhất, tôi lại niệm Đại Uy Đức Kim
Cương căn bản tâm chú, sau cùng tôi mới ném ra thủ ấn ra. Lần
đầu tiên tung thủ ấn ra tôi nhìn thấy hoả tinh xẹt ra tứ phía, tôi
dùng lửa đốt đi khí đen, nhưng lửa của các ngôi sao kia không thể
tụ lại được nên không thể thiêu huỷ luồng khí đen đó được, đây là
do tinh thần tôi chưa thể tập trung.
135
Thế là vào ngày 16, cách đó một ngày, tôi tĩnh toạ trước, dùng
Tiên tu thân tâm thanh tịnh pháp để xử lý sạch sẽ toàn bộ lỗ chân
lông trên mình trước, sau đó tiếp tục trừ đi dục niệm trong tâm của
mình, sau cùng mới tu pháp. Cách thức tiến hành Đại Uy Đức Kim
Cương pháp của đàn hôm nay cũng giống như hôm trước, chỉ có
khác là có một loại cảm giác rất kiên cố và thâm sâu, song thủ ấn
của tôi từ đầu nhọn thuỷ tinh của Độc cổ Kim cương chử phóng
thẳng ra một vòng lửa rất tập trung và sáng tỏ, cứ thế đốt đến
Berevel Hills, đốt luồng khí đen kia đến đỏ rực, rồi cháy thiêu sạch
sẽ. Lúc tôi ném ra Đại Uy Đức Kim Cương giáo lệnh ấn thì nhận
thấy mình đã dùng hết toàn lực, ném ra như thế thật chẳng phải
tầm thường chút nào, tôi biết như thế là đã thành công rồi.
Ngày 21 tháng 10, nữ Hoa Kiều của Berevel Hills gửi thư đến nói
là cô ấy đã có thể rời khỏi xe lăn đi bộ rồi, cô ấy cùng với người
nhà cô ấy rất là vui mừng, song trong thư lại đề cập đến Mo sư Hắc
giáo kia cũng biết chuyện cô ấy có thể rời xe lăn đi bộ được, gần
đây mấy hôm, vị Mo sư đó cầm dầu vừng đến trước nhà cô ấy vừa
niệm chú vừa vái lạy một cách mãnh liệt. Cô ấy không biết thi
hành tà pháp gì đây, cô ấy hỏi tôi phương pháp nào để không bị
trúng tà thuật được thoải mái mãi.
Tôi nói với cô ấy là người học Mật pháp thì nhất định phải học
“khoác giáp hộ thân”, có người dùng Kim Cương Thủ Bồ Tát, có
người dùng Kim Cương hộ giáp, kể cả Thập Địa Bồ Tát cũng đều
dùng Kim Cương chú để hộ thân, huống chi là thế tục chúng sinh.
Cho nên tu tập được “khoác giáp hộ thân pháp” thì mới chính là
phương pháp thoải mái nhẹ nhàng suốt được. Phòng ma như thế
mới có hiệu quả.
Đại Uy Đức kim Cương Mật pháp là thần lực của Đại Uy Đức, tôi
không tự khen pháp lực bản thân mình cao thâm, nhưng những
người học mật pháp đều nên biết Đại Uy Đức Kim Cương Luân
Vương, phàm là sắc lệnh của ngài đến nơi nào thì quần ma nơi đó
đều hoảng vía, yêu ma quỷ quái nào cũng phải tháo chạy.
136
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
27.Tam luận “Song Thân pháp”
Sách của tôi không chỉ gây tiếng vang trong nước mà còn vang
động đến tận nước ngoài. Mấy hôm nay ở New York nước Mỹ có
người đề nghị là tổ chức thành đoàn thể hành hương đến Linh Tiên
Tịnh Xá ở Seattle. Sách của tôi ở khu vực Đông Nam Á rất có
tiếng vang, đệ tử quy y ở Malayxia lên đến ngàn người, thậm chí
Thượng sư Mật Tông của Malayxia cũng gửi thư đến để thảo luận
vấn đề “Song Thân Pháp”, bây giờ sẽ công bố 3 bức thư gửi đến
trước rồi bàn luận về vấn đề “Song Thân pháp” sau.
Bức thư thứ nhất là thư cầu xin quy y:
Kính gửi Thượng sư Lư Thắng Ngạn:
Chào Thượng sư, xin thứ lỗi cho tôi mạo muội, tôi và chồng tôi
đều là người Malaysia, từ khi có duyên đọc được Linh Thư xong
thật sự là giúp ích rất nhiều. Như hôm nay vợ chồng chúng tôi và
nhiều người nữa đều rất thành ý mong muốn quy y Linh Tiên Chân
Phật Tông. Hi vọng Lư Thương sư mở rộng cánh cửa phương tiện,
vui lòng chỉ giáo, xin tiếp nhận quy y của vợ chồng ngu muội này
để chúng tôi có thể được Phật pháp của Thượng sư và chư Phật Bồ
Tát phù hộ và được tu tập Vô Thượng Pháp Môn của Thượng sư.
Tôi định là tu tập Lục Độ Mẫu pháp, là vì năm ngoái tôi đã có cơ
hội tham gia Lục Độ Mẫu Hoả Cung pháp hội và được Phật sống
quán đảnh nhưng lúc đó tôi không hiểu rõ lắm về Lục Độ Mẫu
pháp cho nên không có tiến hành nghiên cứu tu tập, nay biết được
Thượng sư có Lục Độ Mẫu pháp nên tôi thành tâm xin theo học.
Ở bản địa có Ca Mã Già Như Phật giáo hội, hiện nay chúng tôi bắt
đầu tu tập Tạng Mật, học Kinh Chú cùng với Thủ ấn, chúng tôi
dùng ngôn ngữ Tạng để tụng niệm, mong Thượng sư gia trì, mong
mỏi sớm có được thành tựu trí tuệ. Địa chỉ chúng tôi là: Tân Sơn,
Nhu Phật Châu, Tây Mã, Malaysia.
137
Ngày 22 tháng 10 năm 1983
Đệ tử đảnh lễ.
Bức thư thứ hai cũng là thư cầu xin quy y :
Trước Liên toạ Thượng sư Kim Cương Lư Thắng Ngạn:
Xin đảnh lễ với Thượng sư trước, từ khi Thượng sư viết Linh thư
cho đến nay tôi đều đọc hết từng cuốn, thường thường tâm trạng
rất ư khẩn trương phấn khích, quên hết mọi thứ, sau cùng cảm thấy
vui tươi thoải mái, sách của ngài giúp tôi có nhiều thu hoạch lợi
ích, lòng cố chấp được giải phóng. Tôi cảm nhận rất sâu sắc lòng
của ngài như đại dương có thể dung nạp cả trăm sông tuôn chảy.
Pháp dược ngàn vàng khó mua được do ngài khai đơn kia đã giúp
chúng sinh chữa trị căn bệnh vô minh. Từ bi hiện ra trong mỗi
cuốn Linh thư, khiến cho người cảm động.
Gần đây tôi đọc tác phẩm mới do Thượng sư viết ở Mỹ, biết được
Thượng sư ở Mỹ yên tĩnh tu luyện và viết sách, đây là chúng sinh
có phúc, có được sự trợ ích nhiều hơn nữa, thật là quá tốt thay.
8 năm trước tôi quy y Hiển tông của Phật môn, thường được nghe
pháp sư khai thị Phật pháp và xem số kinh điển, thực hiện một số
bài tụng đơn giản. Năm ngoái thành phố nơi tôi ở thành lập trung
tâm Ca Mã Cát Cư của Bạch giáo Mật tông Tây tạng, vị Kim
Cương Thượng sư Sáng Cổ Nhân Ba Thiết đã giá lâm đến, trú ở
Thiếc một tuần lễ. Tôi đã quy y Thượng sư tiếp nhận quán đảnh,
tiếp theo Đại Thiếc Đỗ Ba Tôn giả đời thứ 12 tuần hành hoằng
pháp tại trung tâm, tôi đã tiếp nhận quán đảnh mấy lần. Tháng
trước Tát Mã Ba Thượng sư đến cũng tổ chức pháp hội quán đảnh
và khai thị Phật pháp.
Mấy vị Kim Cương Thượng Sư nói trên đều là những Nhân Ba
Thiết kế thừa Bạch giáo chuyển thế, tôi cung kính muôn phần và
tiếp thu chỉ đạo của họ, nhưng họ phần lớn chỉ biết tiếng Tạng và
tiếng Anh, do bởi ngăn cách về mặt ngôn ngữ nên không học được
trọng tâm chân chính, muốn hiểu rõ tường tận Mật pháp thật không
dễ dàng chút nào. Giờ đây tôi cầu cứu Thượng sư dùng tất cả thần
138
thông trí tuệ để khai thông bế tắc, chỉ dẫn tôi vào Mật Tông đạt
được thành tựu lớn. Khẩn cầu Thượng sư từ bi thu nhận môn đệ
này.
Địa chỉ tôi là: Thành phố Mã Lục Giáp, Mã Lục Giáp Châu,
Malaysia. Kính chúc
Huyền An đệ tử Lai Nam đảnh lễ. Ngày 21 tháng 10 năm 1983
Bức thư thứ ba thì bàn về “Song Thân pháp”:
Lư Thắng Ngạn Kim Cương Thượng sư nhã giám:
Thưa Thượng sư tôn kính, người cầm lái thuyền pháp dẫn độ loài
người thế giới vượt qua đến bờ bên kia, thiện tai!
Linh thư tác phẩm quý viết đến 46 quyển, đại pháp của Thượng sư
vừa xuất bản đã gây ra tiếng vang lớn, dưới thông đến chúng sinh,
trên vươn đến thượng nhân linh trí, mọi người đều hết lòng tuyên
dương, không có người nào không biết đến.
Tôi là hành giả Mật Tông của Tân Thành Năng Nhân Tịnh Xá.
Về chuyện Song thân pháp môn của Mật tông Hồng giáo, kiến giải
của chúng tôi là: “Song Tu pháp là khởi dụng thể trung, dụng trung
quy thể, âm dương hoà hợp một thể, là đại pháp vô hình. Phật phụ
Phật mẫu thân không vướng bận chi, ôm lấy nhau chính là tâm ý
pháp pháp đều vứt bỏ, không vướng không bận.” Thân chúc.
Hành giả Năng Nhân Tịnh Xá của Mật Tôn đang tiến bộ. Kính gửi
Ngày 25 tháng 10 năm 1983
“Song Tu pháp là khởi dụng thể trung, dụng trung quy thể, âm
dương hoà hợp một thể, là đại pháp vô hình. Phật phụ Phật mẫu
thân không vướng bận chi, ôm lấy nhau chính là tâm ý pháp pháp
đều vứt bỏ, không vướng không bận.” Câu này tôi cho rằng là rất
đúng, đây chính là đại pháp phi hữu phi không thành Phật. Tôi biết
Song Thân pháp là Vô Thượng Mật Tông đại pháp, Kim Cương là
“phi hữu”, Phật mẫu là “phi không”.
139
Pháp thân Phật lại không vướng bận chi cả, pháp thân Phật phía
dưới có y phục, ứng hóa Phật thì toàn thân có y phục.
Tuy nhiên lại có vấn đề, đại Mật Pháp như thế “nhìn tướng hiểu ý,
chỉ cần sai lệch một li thì đã đi đến nghìn dặm”. Chẳng trách chúng
sinh đối với pháp này có sự hoài nghi rất lớn, chỉ cần nghi ngờ thôi
là đã có rất nhiều phiền phức rồi. Nguyên nhân vì sao tôi không tán
thành tu luyện Song Tu pháp cũng là ở đây, bởi vì người đời phàm
tục không hiểu rõ nên gây nên kinh sợ hoảng loạn, vì vậy cho nên
tôi phản đối tu luyện Song Tu pháp.
Tôi cho rằng Song Tu pháp là chỉ có một loại người có thể tu luyện,
đó chính là người thực sự nhận thức Vô hình đại pháp này mới có
thể tu luyện, người biết “Vô Thượng Mật” có thể tu luyện được,
người thực sự không động lòng có thể tu luyện được. Ngoài những
người như vậy ra thì bất cứ ai cũng không thể tu luyện hay tiếp xúc,
nghĩ đến được, bởi vì đây là “vô thượng mật”, không thể giỡn chơi
được.
Thích Ca Mâu Ni Phật nếu như muốn truyền thụ Song Tu pháp thì
khi Ma Vương Tam Nữ thoát y để mê hoặc, Thích Ca Mâu Ni Phật
không cần dùng đến “Độc Địa Kỳ Khắc Ấn” để hàng ma làm cho
Ma Vương Tam Nữ từng tên ngã quỵ xuống hết. Thích Ca Mâu Ni
Phật có thể bên trái ôm lấy một đứa, bên phải cũng ôm một đứa, ở
giữa thì ngồi lên một đứa, nếu có người hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật
vì sao lại có thể bày ra trò chơi này thì Thích Ca Mâu Ni Phật có
thể nói lớn mà không thẹn rằng đây chính là Song Tu Pháp của
Phật pháp. Tu pháp kiểu này để người ngoài nhìn thấy thì còn ra
thể thống gì nữa. Nói rằng Phật phụ Phật mẫu thân không mảnh vải,
ôm nhau trong vòng tay chính là đang vứt bỏ tâm ý pháp pháp,
không vướng không bận, giải thích kiểu này thì sẽ có mấy người
hiểu được.
Năm đó bởi vì tăng lữ của Mật Tông Hồng giáo do có rất nhiều
người mượn mỹ danh của Song Tu pháp, lập ra pháp hội từ đó sinh
ra rất nhiều tật xấu, mọi người rơi vào dâm loạn, luồng yêu phong
này vừa thổi thì khiến cho người tu Phật đắc thành tựu chẳng có
140
đến nửa người, tất cả đều rơi vào trong địa ngục sắc ma. Hồng giáo
tăng nhân Tôn Lạt Ba Thượng sư vì kế thừa này nên mới chuyển
sang mặc áo vàng, trở thành Hoàng y Lạt Ma, về sau không đồng ý
cho môn nhân chơi trò “Song Tu pháp” này nữa, chỉ cho phép
dùng “Vô Hình Quán tưởng” chứ không được tiến hành thực tế.
Đây chính là tất cả đại công đức của Tôn Lạc Ba Đại sư.
Song Tu Pháp vốn là “Vô Hình”, không được sử dụng “Hữu Hình”
để tiến hành. Đây chính là nhận thức chân thực của tôi. Người đời
bây giờ không có Song Tu Pháp, còn chưa có cách chi để ngăn
chặn mỹ sắc mê hoặc, tai nghe âm thanh lã lướt, mắt thấy sắc đẹp
mê hồn, khi tiếp xúc với mỹ sắc thì mấy người có thể không thần
hồn điên đảo, ngay lão hoà thượng, lão tu sĩ còn mê đến sống chết
thì huống chi chúng sinh vốn chẳng có chút trang bị chi cả. Vốn là
có tâm ngộ đạo nhưng một khi gặp phải sắc mê thì há không điên
đảo. Quyển “Phục ma bình yêu truyện” của tôi hỏi khắp chúng
sinh mê luyến nữ sắc trong thiên hạ định lực của bản thân như thế
nào? Có qua được ải mỹ sắc này chăng? Ngọc Thông hoà thượng
đã tu hành 50 năm, chỉ khẽ mò bụng một cái thì đã không chịu nổi,
không đứng đắn rồi, huống chi là Song Tu pháp chứ? Tất cả chỉ
muốn tu vào địa ngục mà thôi. Do vậy nguyên nhân mà tôi không
tán thành pháp này cũng là ở đây. Trong Hồng giáo Mật pháp quả
là có “Song Thân Song Tu pháp”, tôi cũng hiểu đạo lý của nó.
Nhưng đối với loại pháp này thì tin hay không tin đều có nhân
duyên riêng cả, tin hay không tin đều có khả năng tu luyện thành
Phật cả. Loại pháp này là đạo pháp không thể dùng lời để diễn đạt.
Giả như mọi người vì đều không hiểu nên mù quáng tu luyện, Phật
Bồ Tát thì chẳng thể thành tựu, ngược lại còn bị đày xuống địa
ngục. Loại pháp này tốt hơn nhất là không nên tu luyện. Trong số
những đạo trưởng, thượng sư mà tôi quen biết cũng có người tu
luyện Song Thân pháp, chẳng những không đạt được thành tựu mà
ngược lại còn bị hại đời, bị mang thai. Hỡi ơi! Tu pháp đến nỗi
mang thai, đây gọi là “không phiền não lại rước phiền não”. Há
không phải khiến cho tất cả chư Phật Bồ Tát đều phải bi thương,
rơi lệ hay sao.
141
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
28.Biện Tài Thiên Nữ Kim Cương Pháp
Điều kỳ diệu của pháp này là ở chỗ là: “một là tăng biện tài, hai là
tăng y phục, ba là tăng ẩm thực, bốn là tăng trí tuệ”
Hình tượng của Biện Tài Thiên Nữ là: Tóc búi cao, hình dáng thiên
nữ, diện mạo dung nghi vừa đẹp vừa viên mãn, cặp mắt biểu lộ ánh
sáng trí tuệ, lông mày giống như lá liễu, thân tựa Liên Hoa, thần
sắc rất thanh tịnh, trên thân mình mang nhiều trang sức quý báu.
Toàn thân phát ra ánh sáng trí tuệ, có 8 cánh tay, gọi là Bát Tí
Trang Nghiêm Biện Tài Thiên Nữ, một tay cầm cung, một tay cầm
tên, một tay cầm đao, một tay cầm mâu, một tay cầm rìu, một tay
cầm chày dài, một tay cầm bánh xe, một tay cầm dây thừng. Hình
tướng của Biện Tài thiên Nữ đang đứng trên một đóa hoa sen tám
cánh màu xanh. Họa đồ chúng tôi vẽ ra để thờ phụng và quán
tưởng đều căn cứ theo những miêu tả bên trên để làm nền tảng.
Tu luyện Biện Tài Thiên Nữ Kim Cương Pháp sẽ đắc được “tài
biện luận”, đây gọi là “biện tài không trở ngại”. Thứ nhất, miệng
tựa như thác, mãi tuôn chảy không dứt, nhanh nhạy vô cùng. Thứ
hai là biện luận mau lẹ, ngôn ngữ có nội dung cụ thể, rất đỗi tuyệt
diệu. Thứ ba, có thể tùy theo thời cơ mà biện luận. Thứ tư, không
có lý lẽ sai trái. Thứ năm, ý biện mãi vô cùng tận. Thứ sáu, tất cả
biện luận đều có ý cảnh phong phú. Thứ bảy, biện Tài rất có đạo lý
thâm sâu.
Tôi cho rằng luật sư tu tập pháp này là thích hợp nhất, ngoài ra
những người tuy đầy bụng văn chương nhưng miệng lại không thể
thốt nên lời cũng có thể tu luyện pháp này. Pháp này với những lợi
ích ngày nay có thể giúp tăng tuổi thọ, tăng tài lợi, tăng trí tuệ,
giúp cho người tu pháp được viên mãn. Thành thật mà nói, bản
thân tôi cũng có một thời tu tập Biện Tài Thiên Nữ pháp, một khi
tu luyện pháp này thì viết sách có thể thao thao bất tuyệt, như dòng
chảy sông lớn mãi không có chỗ dừng, đặt bút xuống viết mà
142
không cần sửa một chữ nào, giống như nước chảy mây trôi vậy. Có
người hỏi tôi: Lư Thượng sư, suốt một đời của ông phải viết bao
nhiêu cuốn sách vậy? Tôi trả lời là: Tôi cũng không biết nữa, nói
chung là thuận theo tự nhiên thôi, khi tôi muốn viết thì tựa như mở
vòi nước ra văn tự sẽ xuất hiện, khi tôi muốn ngừng, vòi nước khoá
lại, văn tự cũng tự nhiên dừng lại.
Biện Tài Thiên Nữ ở nơi nào? Tên gọi của nơi Thiên giới này rất
dài, gọi là: “Đại Biện Thần Dụng Tự Tại Quang Khiết Danh
Thiên”, tương đương với quả vị Bồ Tát địa thứ 9, xét về thiên vị
thì là đệ nhất nghĩa thiên, cảm ứng giữa nhân gian và trời vô cùng
nhanh chóng, người tu pháp có thể nhìn thấy Biện Tài Thiên Nữ
giáng trần, vô cùng hiệu nghiệm.
Đối với người tu pháp này thì tất cả sao xấu xâm hại đến, mọi tai
nạn, đau khổ bệnh tật tựa như tranh đấu, chiến tranh, ác mộng, ác
thần hạ độc, phù chú mê hoặc…toàn bộ đều có thể hóa giải tiêu trừ.
Lập đàn tràng của Biện Tài Thiên Nữ so với Mật đàn thông thường
thì tương đối có chút phiền phức. Mật đàn phải có 4 cửa, mỗi một
cửa phải lập một vị đạo đồng, tay cầm một bình tịnh thuỷ. Nếu
không thì có thể vẽ 4 vị đạo đồng, tay cầm 4 bình tịnh thủy, treo ở
bên cạnh 4 cửa. Khi thờ cúng phải dùng dụng cụ kim ngân sạch sẽ,
thực phẩm mỹ vị phải đầy đủ lộng lẫy hoặc dùng nhũ mật cũng
được. Trong đàn phải thắp An Tức hương suốt, đồng thời phải mở
nhạc tụng niệm, phải phủ màn trang nghiêm, bên trên viết chữ
“Đại Biện Thần Dụng Tự Tại Quang Khiết Danh Thiên Nữ”, màn
treo này phải có cả bốn phía, kế đó trên đàn cúng bái phải đặt minh
kính, dao bén, bốn loại tiễn.
Sau khi bố trí đàn tràng xong, đặt một ly nước cúng phía trước Đại
Biện Thiên Nữ, niệm chú : “Đán chí tha. Hiệp lạp kế. Đãn dã ni.
Tứ lệ. Mễ lệ chỉ lệ xí xí lệ. Bà ha”. Chú này niệm tổng cộng 37 lần,
ném ra khắp bốn phía đàn trường. Đây chính là kết giới pháp của
mật đàn Đại Biện Thiên Nữ . Từ đây mật đàn này chính là mật đàn
của Đại Biện Thiên Nữ.
143
Cách sắp bài của của mật đàn này trên cùng là Tam Bảo Như Lai
và Bồ Tát Độc Giác Thanh Văn, chính giữa có thể đặt Đế Thích
(Ngọc Hoàng Đại Đế) và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, dưới cùng thì
đặt pháp tướng Đại Biện Thiên Nữ. Hoặc là ở trên đặt Tam Bảo
Như Lai, ở giữa đặt Đế Thích (Ngọc Hoàng Đại Đế), trái phải đặt
Tứ Đại Thiên Vương, ở giữa là Đại Biện Thiên Vương. Mỗi lần
bái lễ thì quy kính Tam Bảo trước, sau đó lễ bái Ngọc Hoàng Đại
Đế, Tứ Đại Thiên Vương, sau cùng thì bái lạy Đại Biện Thiên Nữ.
“Đại Biện Thiên Nữ tổng trì chú” như sau: Đán chí tha. Mộ lệ
chích lệ. A phạt đế. A phạt sá phạt đế. Hấn ngộ nô danh cụ nô.
Danh cụ La phạt đế. Ương cụ sư mạt lợi chích Tam Ma địa. Tì
Tam Ma địa ác cận. lợi mạc cận lợi. Đán Lạc chích. Đán Lạc giả
phạt đế. Chất chất lý thất lý mật lý. Mạt nan đế vân. Mạc lợi chích
bát lạc nã lợi duệ. Lư già thệ sắt thế. Lư già thất la sắt gia. Lư già
tất lợi duệ. Tất đoá bạt lợi đế. Tì ma mục xí. Thâu chích chiết lợi.
A lợi đế khát đế. A lợi đế khát đa bột đế. Nam mẫu chích nam mẫu
chích. Ma ha đế tỷ. Lợi đế cận. Lợi hôn. Nã thượng nam ma tắt ca
la. Ngã “mỗ mỗ mỗ” bát địa đạt sa tứ. Bát địa A la đế khát đa. Bà
bạt. Thị bà mê tì thâu chí. Xá tất đàn la thâu lộ ca. Man đan la tất
đắc ca. Ca tì gia địa số. Đan chí tha. Ma kha lạc bà tỳ. Tứ lý mật lý
tứ mật lý. Tỳ chiết la mê bát đế. Ngã “mỗ mỗ mỗ” bát địa thâu đế.
Bạc ca phiệt điểm đế tì diễm. Tát la toan điểm. Kiệt la đới kê do lệ.
Kế du la mạt đế, Tứ lý mật lý tứ lý mật lý. A bà kha gia mễ. Ma
kha đế tì, bạt đà tát đế đan. Đạt ma tát đế đan. Tăng ca thích đế đan.
Nhân đạt la tát đế đan. Bạt lâu nã tát đế đan. Duệ lữ kê tát đế bà địa
đán. Duệ lữ kê tát đế bà địa đán. Chỉ binh tát đế đãn. Tát đế phiệt
giả Ni đán. A bà kha gia mễ. Ma kha đế tỳ. Tứ lý mật lý tứ lý mật
lý. Tì chiết la. Ngã “mỗ mỗ mỗ”bát đế. Nam ma bạc ca phiệt đế.
Ma kha đế tỳ tát la toan đế. Tất tuần. Man đan la đà di. Liệt hạ.
Thủ ấn của Đại Biện Thiên Nữ: Tay bên trái duỗi thẳng 5 ngón,
lòng bàn tay hướng lên trời, đặt ở trước ngực. Lòng bàn tay phải
hướng xuống dưới. Ngón cái và ngón trỏ hợp lại thành vòng tròn, 3
ngón còn lại duỗi bằng, lòng bàn tay phải hướng xuống, cách lòng
144
bàn tay trái phía trên cao khoảng 5cm. Đây chính là thủ ấn của Đại
Biện Thiên Nữ.
Phương pháp tu luyện như sau:
Đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy y, tứ vô lượng tâm.
Tụng thỉnh mời là:
Tối thượng trí giả Biện Tài Thiên.
Cầu kiến thiên thân giai toại nguyện.
Tịnh y tịnh xứ tịnh cung dưỡng.
Tự lập lợi tha vô cùng tận.
Thiện giải chúng luận pháp nghĩa biện.
Diệu pháp vô cùng bất tư nghị.
Quán tưởng: Hình tượng Biện Tài Thiên Nữ (như kể ở trên)
Thủ ấn: Kết Biện Tài Thiên ấn (như kể ở trên)
Niệm chú: Trì chú tổng cộng 3 lần. Mặc dù lời chú khá dài nhưng
cũng phải học thuộc. Lúc niệm phải niệm thành tiếng, khác với
cách niệm Kim Cương pháp. Trong lời chú có “mỗ mỗ mỗ“ hành
giả phải niệm tính danh của bản thân.
Thông thường người tu pháp này phải mất 3 tháng mới có cảm ứng,
hoặc mất 6 tháng, 9 tháng, dài nhất là 1 năm thì mới có thể đắc
được thần thông của “Thiên nhãn thông” hoặc “Tha tâm thông”.
Mỗi ngày tu pháp một lần, không được sinh lòng lười biếng, người
thường thiết tha cầu thỉnh, lòng không nghi ngờ thì tự nhiên sẽ cảm
thông.
Chú này quan trọng nhất là niệm chú, câu chú ngữ này là thanh âm
mỹ diệu nhất của chư Phật, cho nên niệm chú phải phát ra âm
thanh, chú này là lời tuyên thuyết không thể lý giải được, tuy dài
nhưng tương đương với tất cả âm thanh của chư Phật trên không
trung rộng lớn, có thể đắc được viên mãn và thành quả diệu kỳ.
Năm đó người viết tu pháp, Thượng sư đã đặc biệt truyền thụ Mật
145
pháp này để bản thân trong tương lai có thể hoằng pháp khắp nơi
về diệu dụng của pháp, có được công đức vô lượng vô biên.
Hồi hướng ca tụng như sau:
Như Lai kim khẩu diễn thuyết như thử diệu pháp.
Điều phục nhân thiên âm hưởng thiên thiệt chi thanh.
Tuỳ duyên tuỳ hiện Biện Tài Thiên Nữ dung nghi.
Viên mãn ý nguyện năng phục Tam thiên thế giới
Nhất tâm chính niệm tức đắc diệu trí đại nguyện.
Niệm khởi nhân thiên vô thượng tối thắng Đà ni.
Thịnh cầu gia hộ tuỳ tâm lễ kính chư Phật.
Thần thông trí tuệ nhất thiết tốc chứng Bồ Đề.
Cát tường viên mãn. Cát tường viên mãn. Cát tường viên mãn.
146
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
29. “Quán tưởng” mật yếu
“Quán tưởng” chính là “Minh tưởng”, cũng chính là “tưởng niệm”.
Tu trì chân ngôn Mật giáo thì điều này là quan trọng thứ nhất. Bài
viết này sẽ giải thích bí quyết của “Quán tưởng”.
Quán tưởng có tác dụng gì? Kỳ thực quán tưởng chính là “niệm
lực”, người tập luyện niệm lực trở nên mãnh liệt có được sức mạnh
vô song tựa như nước suối tuôn chảy không dứt. Từ việc tu luyện
niệm lực sẽ có thể thu được siêu năng lực vô tận. Có thể dự báo
được chuyện sẽ xảy ra trong tương lai, mọi chuyện đều có thể tất
thắng, có thể thay đổi vận mệnh không tốt của bản thân, tạo ra rất
nhiều thần tích và kỳ tích, có thể chứng đắc được Lục đại thần
thông, “Quán tưởng thâm sâu”, quán tưởng đến trình độ cao nhất
chính là “thành Phật” tuyệt đối.
Khi chúng ta tĩnh toạ, dùng sức lực mà Quán tưởng sinh ra, đó
chính là Thiền định lực. Chúng ta phải tu luyện sâu hơn, tinh tiến
hơn, bền chí không ngừng nghỉ thì nhất định sẽ có được sức mạnh
khác với người thường. Muốn thành Phật, muốn cứu thế thì bất cứ
vị Thượng sư nào cũng phải có loại năng lực này.
Về sức mạnh của Quán tưởng, có người hình dung là “lửa”, “lửa”
này bốc cháy từ một điểm lửa sáng sau đó thiêu rụi cả toàn bộ thần
kinh cơ thể bản thân. Loại Minh điểm hỏa này là thắp lên từ niệm
lực, kế đó tuần hành qua các bộ phận của cơ thể, lúc này đây người
này mới được xem là có được “tương ứng” chân chính. Niệm lực
có được tương ứng, chính là bắt đầu từ một điểm lửa. Chân lý nói
cho tôi biết, người có được một điểm nội hoả này thì mới thật sự là
người đắc chứng trong vũ trụ này. Gỉa sử có vị pháp sư nào tu
luyện được trình độ như tôi đã nói ở trên, họ ắt sẽ biết được chính
xác những lời Lư Thắng Ngạn thượng sư nói là không chút giả dối,
hơn nữa những vị pháp sư, thượng sư này cũng là những người tu
hành đã đắc chứng được “Nội hoả minh điểm”. Ngoài ra, tôi bạo
147
gan dám nói là những kẻ khác đều chưa đắc chứng được, vẫn chỉ
ngừng lại ở mức tăng tục đạo mà thôi, vẫn chưa có tư cách gọi là
pháp sư, không có pháp lực thì sao có thể tự xưng pháp sư chứ?
Quán tưởng trước tiên phải tập trung niệm lực, đây là sự tập luyện
đầu tiên, về mặt này có 2 bí quyết:
Thứ nhất, tập trung vào một sự vật, giả sử như mắt nhìn thấy đầu
mũi thì tập trung trên đầu mũi. Hoặc là tập trung niệm lực trên
dung mạo của vị tôn Phật, chúng ta là người mới tu luyện nên tìm
mặt của Bồ Tát quán tưởng, nghĩ về lông mày của Phật, lỗ mũi của
Phật, tai của Phật, miệng của Phật, mắt của Phật, tất cả diện mạo
của Phật. Sau đó tổ hợp lại toàn bộ dung nhan, sắp xếp lại một
cách cẩn thận và tỉ mỉ. Sau đó tưởng niệm nơi Thiên Tâm có một
điểm quang minh, phát ra mãnh liệt vào bộ phận Thiên Tâm của
bản thân. Kiểu tưởng niệm này là sự tập luyện lúc đầu giúp cho
niệm lực của bản thân không bị phân tán, vì thế không thể không
mượn dung mạo Phật để quán tưởng, tìm một đối tượng nào đó,
giữ cố định trong lòng, nâng cao sức tập trung của não bộ. Kiểu tu
luyện này lâu dần về sau, đại năng ý thức trong không trung sẽ
phát ra ánh sáng chiếu vào bộ vị Thiên Tâm của bạn, đến khi bộ vị
Thiên tâm của bản thân cũng có thể phát ra ánh sáng thì mới gọi là
thành công.
Thứ hai là “Quán không”, để tu luyện “Quán không” thì tương đối
khó, “Quán không” tức là suy nghĩ mọi thứ thành hư không, bầu
trời này là không có, mặt đất cũng không, núi cũng không, biển
cũng không, con người cũng không, vũ trụ cũng là không, kể cả
bản thân cũng không, phàm là vạn vật vạn tượng trên đời này thì
tất cả đều là hư không. Nếu người có khả năng nhìn mọi thứ là
không thì đại năng của vũ trụ thì tràn đầy trong tâm của anh ta. Để
tôi nói cho mọi người biết về điểm bên trong của “đại thiên cơ cứu
thế” này. Một người tu luyện có thể “quán không”, đây là thế giới
“ánh sáng chói lọi”. Quán không trong một sát na này thôi thì đã là
vĩnh hằng, cũng chính là “vô trú vô niệm” mà Phật nói đến, tất cả
pháp đều là vô pháp. Nhưng phải tu luyện thực sự đạt đến “Quán
không” là đều không dễ dàng, người có năng lực “Quán không”,
148
đại năng của vũ trụ tràn ngập khắp trong lòng anh ta, có điện ở
trong lòng, tâm của anh ta có thể chạm được vào vũ trụ, cũng lĩnh
ngộ được năng lực một cách chân chính. Người mặc tưởng tĩnh toạ,
người “quán không “ có thể trong phút chốc tiến nhập vào trong
cảnh giới minh tưởng đều đã trải qua tu luyện lâu dài.
Hôm nay, tôi đặc biệt giải thích rõ như vậy là: “Quán Không”
chính là cơ sở của mọi lực Mật pháp, bất kỳ một Mật pháp nào
cũng đều phải xây dựng trên “Quán không”. Cho dù chúng ta tu
luyện pháp nào, trước tiên phải có cảnh giới Quán không trước thì
đại năng lực tràn ngập trong vũ trụ rộng lớn kia mới có thể dung
nhập vào trong cơ thể chúng ta, có được sự hòa nhập của đại năng
lực thì chúng ta mới có thể sinh ra “biến thân” để trở thành “bản
tôn” của Mật pháp, từ đó đạt được mọi biến thân pháp của “dung
nhập”. Đây chính là Đại Mật yếu của Quán tưởng.
Liên Hàn, người phụ trách Linh Tiên Tịnh Xá Tín Pháp đường của
tôi tại HongKong, địa chỉ là: “ Flat 2405 SunhingBLDG 24/F607
Nathan Road Mong kokkowLoon Hong Kong”. Vào tháng 10 năm
1983, anh ta đến Seattle Hoa Kỳ để cầu pháp, tôi đã đặc biệt chỉ
dẫn anh ta về “Quán không” và “Dung nhập”.
Sau khi Liên Hàn tu luyện đã nói như sau: “Đệ tử may mắn được
Thượng sư truyền thụ cho diệu quyết “Dung nhập”, sau đó nhập
đàn tụng kinh, thu được pháp ích rất lớn, sau khi phụng thỉnh, tán
tụng, đảnh lễ xong, đệ tử quán tưởng Phật Bồ Tát ở trên đỉnh đầu
trước, ngồi nghiêm trang trên Liên Hoa phát sáng, tường quang
tươi đẹp soi rọi trong hư không, hoa bảo tuôn rơi như mưa, tất cả
chư Phật Bồ Tát đều phát đại quang minh, phổ chiếu bản thân và
vô lượng chúng sinh. Sau đó khi “Quán không”, khi vừa quán
không thì cảm giác là toàn thân phủ đầy “Linh khí”, sau khi Quán
không xong thì thấy xuất hiện Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát từ
trên đỉnh đầu nhập vào tâm, ngài ngồi trên Liên Hoa toạ, Liên toạ
rất lộng lẫy, phát quang lóng lánh, hợp nhất cùng bản thân, con tức
thì biến thành Quán Thế Âm Bồ Tát, có ngàn tay ngàn mắt, chân
đại từ bi, hướng ra thập phương pháp giới, hướng về vô lượng
chúng sinh, hướng đến Tam đồ ác đạo tuyên thuyết Đại bi thần chú,
149
đồng thời phát ra quang minh soi chiếu mọi nơi, một khi quán
tưởng như vậy, toàn bộ bản thân đều nhập vào trong cảnh giới
Quán tưởng. Tiếng tụng Phạn kinh bên tai không phải ở đàn tràng
mà tràn ngập khắp không trung, trước mắt là một vùng ánh sáng,
đệ tử bỗng chốc quên đi bản thân, buông rơi đàn tràng. Sự huyền
diệu của “Dung nhập” này thật không có cách chi để hình dung
được”.
“Trong pháp hội, đệ tử đột nhiên có cảm giác trên trán dường như
có người vỗ thật mạnh, trong lòng bỗng nhiên hiểu ra rằng là
Thượng sư Linh Thân Linh Quang đến, trong lòng rất vui mừng.
Nhìn đồng hồ là 1 giờ 35 phút (Thời gian ở Seattle là vào ban đêm
khoảng hơn 10 giờ rưỡi). Pháp hội lần này, Thượng sư Linh Quang
giá đáo xin chỉ dạy thành tích của lần pháp hội này như thế nào?
Và cách nhìn của Bồ Tát về pháp hội cùng với khai thị của người
cũng xin rõ? Đệ tử trong ý niệm luôn nghĩ về chuyến đi Seattle,
hồi tưởng nhớ lại mỗi một cảnh khi Thượng sư chỉ dẫn, muôn phần
cám ơn Thượng sư, chư Phật Bồ tát từ bi vĩ đại. Ngày đêm chí
thành đảnh lễ.”
Tôi chỉ dạy bí quyết cho “Liên Hàn” như sau:
“Tập trung tinh thần”
“Quán không”.
“Dung nhập”.
“Biến thân”.
Ngày nay có rất nhiều sách khuyến thiện của đủ loại tôn giáo, mỗi
loại đều thể hiện cao kiến giải thích riêng, đây là điều kiện căn bản
nhất tu dưỡng làm người, tuy nhiên phần lớn những sách này đều
là sách thuyết giáo, tuy là cũng có công đức rất lớn, nhưng rất
nhiều người trên thế giới hiện nay đã không còn tin vào những
sách này. Ngoài ra có rất nhiều Cao tăng đại đức viết rất nhiều
sách chỉ dẫn “thành Phật”, cũng có hiện tượng như thế này, muốn
mọi người hành thiện, tụng niệm kinh điển, nhưng lại không viết ra
phương pháp tu luyện chân chính. Bây giờ, Lư Thắng Ngạn
150
thượng sư tôi đã thấu hiểu triệt để. Tôi chẳng cần mọi người bàn
luận viễn vông, khua môi múa mép, viết ra một số sách không biết
nói gì, trống rỗng vô thực, tôi phải giảng giải toàn bộ đại mật pháp
chân chính, tôi có lực diệu pháp vô cùng vô tận, tôi có được chi
bảo vô giá của pháp lực, những điều tôi giảng giải tỉ mỉ từng li,
không chút thiếu sót. Người đời không nên chỉ nghe không mà
phải thực tu nữa, pháp lực là do tu luyện ra, không phải do “nghe”
mà ra.
Khi ngồi tĩnh toạ, trước tiên tập trung tinh thần quán tưởng Phật
Bồ Tát, đợi khi mọi thứ xuất hiện, tiếp đó nhìn lại mọi thứ đều là
không không vô hữu, đại năng vũ trụ tràn đầy trong bản thân mình,
tiếp đó quán tưởng từ trong chữ “không” xuất hiện ra chữ phạn, từ
chữ phạn này xuất hiện bản tôn, bản tôn từ đỉnh dung nhập vào,
bản thân “biến thân” thành Phật. Đây hoàn toàn là Đại mật pháp
quán tưởng tĩnh tọa thiền định. Cũng có thể một khi thiền định thì
“quán không”, sau đó “đại năng” dung nhập vào thân thể, hoặc là
thân thể dung nhập vào đại năng, đây chính là “nhập định Tam Ma
địa”, cũng tức là có thể tự chủ sinh tử rồi. Không có quán tưởng thì
không có niệm lực, không có niệm lực thì không thể thông cùng
thiên địa, những ai muốn dựa vào lý luận để thành Phật ắt hẳn là
không thể nào làm được.
“Quán tưởng” chính là đại bí quyết của Mật giáo, tu hành Mật giáo
lấy “quán tưởng, quán niệm, niệm lực” làm bí quyết hàng đầu, bất
kỳ một loại pháp nào cũng đều không thể rời khỏi quán tưởng. Có
người cho rằng quán tưởng rất thần bí, kỳ thực không thần bí chút
nào, chuyện phóng ra hào quang là hoàn toàn có thể, do niệm lực
của bản thân là một loại “sóng”, tập trung toàn bộ niệm lực lại sẽ
biến thành “điểm sóng”, có “điểm sóng” thì sẽ có ánh sáng, đây là
đại mật pháp và đại yếu quyết của tu hành.
Lư Thắng Ngạn thượng sư như tôi chính là đã học được cách khai
phát quán tưởng, có được sự “dung nhập” hoàn toàn, như thế bản
thân mới có thể đắc chứng được Hồng Quán Thánh Miện Kim
Cương Thượng Sư, không phải chỉ dựa vào lý luận mà là hoàn toàn
chân thực xác đáng.
151
(Vô thượng mật thủ ấn chú ngữ, do Thủ ấn chú ngữ đều ở trong
quán tưởng)
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
30. “Thủ ấn” mật yếu
“Thủ ấn” đại biểu cho gì vậy? Thủ ấn đại biểu cho bí mật của thân.
Tôi gọi là “giáo lệnh thanh tịnh của bản thân”. Lúc chúng ta kết
các loại thủ ấn, tức là biểu đạt thân ấn của bản tôn, tất cả chân
ngôn và thân ấn đều phù hợp với phương hướng của quán tưởng.
Thí dụ nhất ấn Mạn Đà La, ở Kim Cương giới Mạn Đà La dùng
Kim Cương Tát Đoá Ấn. Hàng tam thế thì dùng Kim Cương Chử
Ấn. Về phương diện điều phục thì dùng Liên Hoa ấn. Về phương
diện tất cả thành tựu thì dùng Bảo ấn.
Để tu được ngũ trí thông đạt, Phật thân viên mãn, thí dụ như Bồ Đề
tâm, Kim Cương tâm, Kim Cương thân thì dùng Đại trí ấn. Trong
số này lại có Tam muội gia ấn, Pháp trí ấn, Yết ma trí ấn. Có rất
nhiều loại ấn nhưng ý nghĩa quan trọng nhất chính là phương diện
phối hợp với quán tưởng để thi hành giáo lệnh thân ấn và thủ ấn.
Đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông khi tu hành nhập định, ngón
tay sẽ nương theo sóng linh của cơ thể khe khẽ rung động, tự động
kết rất nhiều thủ ấn. Thông thường mà nói thì kết thủ ấn như thế có
hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là bản thân người này hiểu
được thủ ấn, trí não bản thân khi vừa minh tưởng thì thủ ấn sẽ trở
nên bán tự động kết thành ấn, trong đầu quán tưởng về Bát cung
thì thủ ấn Bát cung sẽ xuất hiện, đây là dựa vào nội dung minh
tưởng để kết thủ ấn, tưởng niệm Văn Thù Bồ Tát thì kết ra thủ ấn
của Văn Thù Bồ Tát, tưởng niệm Tỳ Lô Giá Na Phật thì sẽ xuất
hiện thủ ấn của Tỳ Lô Giá Na Phật. Cho đến Thập bát đạo ấn khế,
Kim Cương giới ấn khế, Thai Tạng giới ấn khế đều có thể nhờ
quán tưởng để lần lượt kết ấn, diệu kỳ vô cùng.
152
Trường hợp thứ hai là không hiểu rõ thủ ấn, nhưng sau khi linh của
“Linh giới” tiến nhập vào khai phát tâm linh của bản thân thì thủ
ấn bắt đầu xuất hiện, người ngồi thiền vốn không hiểu kết thủ ấn,
nhưng thủ ấn lại tùy ý tự do phát huy, tự do tự tại, tuyệt diệu vô
cùng, có khi không chỉ là kết thủ ấn mà kể cả thân hình cũng rung
động lên, hóa thành thủ ấn, thân ấn đầy đủ cả. Người khởi động
Linh trước đây không hiểu thủ ấn nhưng lại có thể kết ra rất nhiều
thủ ấn tuyệt vời, người biết thủ ấn đứng bên cạnh xem sẽ biết được
thần thánh giáng lâm đến từ phương nào, bởi vì thần linh chính là
dùng dáng vẻ của thủ ấn để biểu thị giáo lệnh của họ.
Bản thân tôi lúc đầu cũng không hiểu thủ ấn, do Tam Sơn Cửu Hầu
tiên sinh chỉ dạy tôi kết tất cả thủ ấn, những thủ ấn này có phân
tích động tác, tư thế rất tuyệt diệu. Theo đó về sau, tôi đã hiểu
được Mật yếu của thủ ấn, thủ ấn có lúc là một loại “giáo lệnh”, một
loại “phương hướng”, một loại “thúc động”. Những thủ ấn này
phải đồng thời phối hợp mật thiết với quán tưởng thì những thủ ấn
này mới có thể sinh ra sức mạnh. Mật yếu của Thủ ấn là gì? Thủ ấn
có lúc đại biểu cho “dây trời”, là nguồn gốc thu phát, đại năng của
vũ trụ cũng có thể thông qua thủ ấn để tiến nhập vào. Năng lượng
trong bản thân chúng ta cũng có thể thông qua thủ ấn để phát tiết ra
ngoài. Đây là một đại bí mật mà người viết phát hiện được.
Thí dụ có người nào đó bệnh, chúng ta ngồi đối diện với người đó,
kết thủ ấn chỉ vào chỗ bệnh, đầu nhọn của ngón tay sẽ phát ra
“năng lượng” như thế có thể chữa lành bệnh tật cho họ.
Hiện nay phương pháp “Cách không Linh liệu” của tôi chính là
dùng năng lượng của cơ thể kết hợp với đại năng trong vũ trụ, thủ
ấn hướng về phương vị nhất định, tập trung tất cả năng lượng ở
đầu nhọn của thủ ấn rồi ném ra, cách “trị bệnh” như thế thật quá ư
là huyền bí, không thể nào tưởng tượng được. Đây chính là bí mật
thủ ấn cao nhất.
Tôi ở Seattle Hoa Kỳ có một bệnh nhân từ Los Angeles đến cầu
xin tôi chữa bệnh. Người đó họ Chu.
153
Khi tôi vừa nhìn anh ta thì linh năng trong không trung liền nói cho
tôi biết rằng cổ họng anh ta có bệnh. Bồ Tát yêu cầu tôi dùng thủ
ấn, đầu ngọn chỉ vào phần cổ họng anh ta.
Khi chỉ vào chỗ cổ họng, trong phút chốc tôi nhận ra tôi đã tiến
vào Tam Ma Địa của đại năng vũ trụ, năng lượng của bản thân tôi
cùng với đại năng vũ trụ kết hợp lại thành một, đột nhiên có một
loại “tinh lực” từ đầu ngón tay tôi phóng ra, tôi phát hiện nguồn
năng lượng này cứ ào ào tuôn ra vô cùng lớn, tôi rất đỗi kinh ngạc.
“Cổ họng của ông bị bệnh gì vậy?”, tôi hỏi.
“Ung thư”
“A! Ung thư” tôi ngẫn cả người ra, là bệnh nan y.
Vị Chu tiên sinh này sau khi về Los Angeles, hai tháng sau gửi đến
một lá thư cảm ơn, ông ta nói rằng, ông ta tiến hành kiểm tra sức
khỏe lần nữa thì thấy tế bào ung thư đều hoàn toàn biến mất. Ông
ta cho rằng là không thể có chuyện như thế được bèn kiểm tra tỉ mỉ
lần nữa thì vẫn được trả lời như cũ. Trời ạ, đây có phải là thật
không? Quả nhiên đây là sự thật. Bản thân tôi nghĩ rất là kỳ lạ, ông
ta cũng thấy thật là kỳ lạ, nhưng tôi biết rằng là Phật Bồ Tát đã cứu
người này, đã sử dụng thủ ấn để trị bệnh một cách kỳ tích. Tôi cho
rằng đây không phải là năng lực của tôi mà là cả đại năng vũ trụ
phối hợp cùng với thủ ấn của tôi thi pháp mà thôi. Năng lượng của
vũ trụ thông qua thủ ấn của tôi phát ra đã hóa thành sức mạnh cứu
người.
Thủ Ấn trong Phạn ngữ gọi là Mâu Đặc Lạp (Mudra). Tôi cho rằng
thuật Du Già sử dụng động tác của cơ thể hỗ trợ tu tập, đây chính
là một loại pháp của Thân ấn, tu pháp của Đông mật thiên về Thủ
ấn. Tu pháp của Tạng Mật lại nghiêng về bên Thân ấn.
Rốt cuộc có bao nhiêu thủ ấn?
Tôi trả lời là: Vô cùng tận. Đây là số lượng của đại bí mật, số
lượng hằng hà sa số. Như Phật thì có Phật ấn, Bồ Tát có Bồ Tát ấn,
Minh Vương có Minh Vương ấn, Kim Cương có Kim Cương ấn,
Chư Thiên có Chư Thiên ấn, Giáo sắc có Giáo sắc ấn, Thần có
154
Thần ấn. Có Gia trì ấn, Khoác giáp hộ thân ấn, Kết giới ấn, Quang
Minh ấn, Cúng dường ấn, Tịnh thân ấn, Nhiếp thụ ấn, Ngũ phương
ấn, Lục Ba La Mật ấn, Thuỷ ấn, Hoả ấn, Hàng phục, Kỳ phúc,
Tăng ích, Nhật nguyệt ấn, Căn bản ấn, Tuỳ tâm ấn, Chuyển pháp
luân ấn, Trừ tai ấn, Kính ấn, Trường thọ ấn, Thiên địa ấn, Tối
thắng ấn…
Thủ ấn hay gọi là Ấn khế, Ấn lý, Khế ấn. Chính là dùng ngón tay
kết thành các loại hình tượng để làm tiêu chí của pháp đức, phàm
là chân lý Phật pháp thì trước nay thường dùng Tam Pháp ấn và
Nhất Thực ấn để nhận xét, nếu như phù hợp mức đẳng ấn này thì
biết đích xác đó là Phật pháp chân chính.
Bản thân tôi đã từng kết Địa luân ấn, cứ thế trầm dần xuống đến
chỗ giao giới giữa giữa Kim Luân và Địa Luân, đã thấy được mọi
vật chất hiện tượng ngưng kết sơ khai nhất của địa giới vũ trụ, tôi
đã thấy được Kim Cương Luân. Trong cảnh giới này, tôi cảm phục
sự vĩ đại của đại năng vũ trụ, đại năng vũ trụ này không chỗ nào là
không biến hóa cả, ở nơi giao giới của Địa Luân và Kim Cương
Luân thì an nhẫn bất động, hoàn toàn tĩnh mật như bí mật Tạng
vậy. Tôi cuối cùng cũng hiểu được “ba nguyên nhân gây ra chấn
động mặt đất”: thì ra mặt đất rung động mạnh là do đất dựa vào
nước, nước dựa vào gió, gió dựa vào không khí, khi gió bão nổi lên
thì nước quấy động nên gây nên địa động. Thứ hai là các thánh
hiền tăng đắc đạo có cảm ứng dây trời thần diệu khi kết Địa luân
ấn vì thế mới gây ra địa động. Thứ ba là lúc Phật thành đạo, mặt
đất cảm nhận được uy lực của người nên mới chấn động. Khi tôi
đến Địa luân cũng từng cảm nhận được sự chấn động của Địa luân.
Tôi kết Địa Luân thủ ấn cảm động đến Địa luân chấn động là do
tôi đã hoàn toàn tu luyện xong “Cửu hồi đàn thành pháp”:
Hàng tam thế tam muội gia pháp, giúp tôi có được sức lực tinh
thần tôi vô tận.
Hàng tam thế yết ma pháp, giúp tôi trở nên cường tráng có đại
pháp lực.
Lý thú pháp đắc được trí tuệ tối cao.
155
Nhất ấn pháp chữa trị rất nhiều nghi nan tạp chứng.
Tứ ấn pháp đắc được tâm thông siêu cảm giác.
Cúng dường pháp đắc được phúc phần vô hạn và thiên nhĩ thông.
Vi tế pháp đắc được mắt thứ ba, Phật nhãn, pháp nhãn, thiên nhãn,
linh nhãn, tuệ nhãn.
Tam muội gia pháp phá bỏ mọi chướng ngại về thời gian không
gian, đạt được chân không đại định.
Căn bản thành thân pháp, hoàn toàn hợp nhất với Thập phương
chư Phật Như Lai, không phân khác biệt, tiến nhập Niết Bàn.
Với thành tựu này tôi không dám nói vô tiền khoáng hậu, bởi vì
mỗi người chỉ cần có tinh thần kiên nhẫn cầu tiến thì nhất định sẽ
đạt được những thành tựu này. Tôi là Hồng Quán Thánh Miện Kim
Cương Thượng Sư, tôi cũng có pháp, tôi sẽ truyền pháp lại cho
chúng sinh trong thiên hạ, giúp mọi người đều có thể trở thành
Hồng Quán Thánh Miễn Kim Cương Thượng sư. Hỡi những người
tu hành! Mọi người hãy hướng đến mục tiêu “thành Phật” để nỗ
lực cầu tiến, ai cũng có thể đội lên vòng nguyệt quế của bậc thánh
giả cả, làm cho cuộc đời trở nên có ý nghĩa hơn, có giá trị hơn,
cùng phát ra những đạo quang minh chói lòa.
156
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
31.“Chân ngôn” mật yếu
Vì sao “Phật nói là chân ngôn tối thắng” chứ? Do bởi “chân ngôn”
chính là âm thanh của sóng Linh, chúng ta tụng niệm âm thanh
sóng linh của Phật thì Phật sẽ biết được người này đang tưởng
niệm Phật, do thế nên có chuyện “tương ứng”. Chân ngôn còn gọi
là “ âm thanh của vũ trụ”, cũng chính là âm thanh tượng trưng cho
đại năng vũ trụ, cho nên niệm chân ngôn có thể giúp tiếp cận gần
hơn với “vũ trụ chi chủ”, cùng hòa hợp với nhau, có được năng lực
của vũ trụ. Những giáo pháp Phật truyền lại có rất nhiều, nhưng
duy chỉ có giáo của Mật giáo mới là vô thượng pháp, phải thực sự
hiểu rõ Mật pháp, phải tu học Thập Duyên Quán thì mới có thể
hiểu được đại bí mật của chân ngôn.
Điều tôi thực sự lĩnh ngộ được, chân ngôn chính là âm thanh của
Phật tâm phù hiệu biến hóa ra. Người có thể niệm chân ngôn là có
phúc rồi, do bởi niệm chân ngôn có thể tránh được ma kiếp, không
bị tổn hại, có được kỳ tích, có năng lực, đây chính là những diệu
dụng của chân ngôn. Trước đây có hành giả thanh tịnh trì chú tức
thì bệnh tật được tiêu trừ. Hành giả có tài lộc dồi dào khi niệm chú
sẽ không bị tổn hại. Có người tụng niệm Mật chú trong thời gian
dài lúc sắp hành hình thì xuất hiện kỳ tích đao gậy đều không thể
phạm vào người được.
Chữ “Ông” (OM) thường thường làm chữ đầu tiên của câu chú ngữ.
Bởi vì chữ “Ông” này là âm đầu tiên bao hàm cả vạn đức, vì vậy
chữ “Ông” này đứng ở vị trí thứ nhất, đồng thời cũng là chữ sau
cùng, có rất nhiều câu chú đều dùng chữ “hạ”, do chữ “hạ” có ý
nghĩa là kết thúc viên mãn, cho nên chữ “hạ” được dùng ở đuôi.
Chân ngôn chia ra có trường chú, đoản chú, tâm chú. Trường chú
có khi cũng thêm các lời ca tụng ngợi khen, đoản chú hoặc tâm chú
mới là chân ngôn trực tiếp, nhưng công đức thì giống nhau, không
vì ngắn hay dài mà bị ảnh hưởng. Trì chú phải hoàn toàn xem
157
duyên phận của mỗi người, xem bản tôn của bản thân là gì? Có
duyên với vị Bồ Tát nào thì niệm chú của vị đó. Tôi đã gặp rất
nhiều người niệm chú, chỉ trong một lần tu pháp niệm đến hơn
mười loại chú, cách niệm chú như vậy không đúng, do bởi không
thể chuyên tâm vận dụng lời chú, như thế pháp lực của chú sẽ bị
phân tán, xem như chẳng còn sức mạnh chi cả.
Tu pháp trì chú cũng có phân biệt, chú để tiêu tai thì ở đầu phải
dùng chữ “ông”, ở đuôi phần lớn dùng “Sa Bà Hạ”, tiêu tai như thế
thì công lực mới thật là mạnh nhất. Khi tu “Nhiếp Chiêu pháp” thì
ở đầu cũng là chữ “ông”, ở đuôi thêm chữ “phan”, như thế chú lực
sẽ càng thể hiện rõ hơn. Đối với “Điều phục pháp‟ thông thường
chú âm rất phẫn nộ cho nên cần thêm hai âm “hồng phan”. (HUM
PHAT). Tu tăng ích pháp đều dùng hai chữ “Nam Ma”.
“Nam Ma” là chỉ ý quy y từ bi.
“Hồng phan” chỉ ý phẫn nộ và uy nghiêm.
“Trá tá” chỉ ý gia trọng.
“Sa Bà Hạ” là âm cuối vô thanh của tiêu trừ tai kiếp.
Người tu luyện chân ngôn có thể diển giải ý nghĩa bí mật của Kim
Cương. Tu niệm chân ngôn, chúng ta đều hiểu rằng lực lượng đại
năng của âm vũ trụ, có thể tương ứng cùng thì sẽ có được pháp lực,
nếu có được pháp lực thì chúng sinh đều có ích lợi. Diệu pháp của
Như Lai tuy nhiều nhưng mật pháp chân ngôn cũng vẫn có thể đắc
chứng được diệu tâm Như lai, có thể đắc chứng được hết cả.
Khi tôi tu tập Chân ngôn mật pháp thì càng lĩnh hội được mỗi một
lời chú đều có chủng tử tự của lời chú, tất cả thánh hiền đều dựa
vào chủng tử tự của chú ngữ để từ đó sinh ra tất cả tự luân. Thí dụ
như sau khi tôi đắc chứng xong, chủng tử tự lời chú của tôi là sinh
ra từ chữ “hồng” (HUM). Tất cả quán tưởng và chữ ở giữa trung
tâm đóa hoa sen trong lòng chính là chủng tử (hạt giống) tự của lời
chú. Đây là đại bí mật của chân ngôn, do bởi có hạt giống của chân
ngôn nên mới là căn bản của mọi đắc chứng Liên hoa.
158
Dưới đây tôi sẽ nêu ra một số hạt giống chân ngôn của chư Phật
Bồ Tát như sau:
Hạt giống Chân ngôn của Thích Ca Mâu Ni Phật là: chữ “A”.
Hạt giống Chân ngôn của A Sơ Phật là: chữ “Hồng”.(HUM)
Hạt giống Chân ngôn của A Di Đà Phật là: chữ “Mật Lý” (HRIH).
Hạt giống Chân ngôn của Quan Thế Âm Bồ Tát là: chữ “Sa”.
Hạt giống Chân ngôn của Đại Thế Chí Bồ Tát là: chữ “Tam”.
Hạt giống Chân ngôn của Phổ Hiền Vương Bồ Tát là: chữ “Bà‟.
Sau khi tôi đắc chứng xong, trong lòng xuất hiện Liên Hoa, trong
Liên Hoa xuất hiện một chữ phạn, chính là “hạt giống chân ngôn”,
chữ phạn này chính là ý nghĩa bí mật của “hạt giống chân ngôn”,
chữ phạn này chiếu sáng vào không trung, thập phương Phật quán
đảnh theo vào, Linh thần của tôi tiến vào Phật bộ, đồng thời xây
dựng nên 3 đẳng thượng trung hạ, bản thân đến bất kỳ cảnh giới
nào cũng đều không có trở ngại, hoàn toàn hiểu rõ giáo lý trong
ngoài. Biết được Phật diễn giải tất cả diệu pháp hoàn toàn là vì cứu
độ muôn vàn chúng sinh, mà chân ngôn Mật pháp vốn là tổng trì
của chư diệu pháp, tất cả diệu pháp đều do chân ngôn hóa sinh ra,
mà từng loại chân ngôn lại do một hạt giống chân ngôn chữ phạn
sinh ra, đây chính là chỗ thiên cơ của nhất thừa diệu pháp, mọi
pháp hóa thành một pháp, tất cả tôn biến thành một tôn, cuối cùng
tôi cũng đã hiểu được thiên cơ mà trong thiên hạ khó được nghe
đến nhất.
Sau khi tôi đắc chứng Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương
Thượng Sư, bản thân là Thượng sư truyền pháp rồi và cũng chính
là “ A Xà Lê”. Thì ra A Xà Lê vốn đã hiểu rõ giáo lý trong ngoài,
đã đắc chứng được ngũ bộ, biết được Tam Mật Môn. Tôi truyền
dạy cho chúng sinh thiên hạ nếu như tụng niệm chân ngôn thì có
thể tiêu trừ đi những tội nghiệp nghiêm trọng. Nếu có người niệm
Tôn Thắng Đà La Ni pháp thì mãi mãi sẽ không đọa địa ngục. Nếu
có người trì Đại Phật Đỉnh Chân Ngôn thì sẽ có chư Thánh Thần
Thiên long bảo hộ cho họ. Nếu có người tụng Phật Đỉnh Đại Tuỳ
159
Cầu Chân Ngôn thì tự nhiên có đại pháp lực, đại thần thông, uy lực
vô cùng tận.
Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương Thượng Sư chính là được
Thích Ca Mâu Ni Phật, và Liên Hoa Sinh đại sĩ truyền ký quán
đảnh, là người truyền pháp và hộ trì của Đại Đà La Ni pháp môn
Vô thượng pháp vương, thánh danh này của tôi chính là từ hạt
giống chữ “Hồng” sinh ra, là Bồ đề đạo tâm viên giác tất cả thanh
tịnh chân như và tất cả Ba La Mật. Chân ngôn Mật pháp này chính
là Vô Thượng Đà La Ni, từ tất cả hạt giống chân ngôn sinh ra Thập
phương Tam Thế Phật, có thể hàng phục chư Ma, chế phục chư
ngoại đạo, ngồi trên Bảo Liên Hoa toạ cao nhất, trong tất cả đại
thiên thế giới chuyển pháp luân có thể nói là Vô Thượng pháp, có
thể đồng thời xuất hiện ở Thập phương quốc để thọ quán đảnh cho
nhân loại, tôi đã đắc được ngũ bí mật tâm có thể sinh ra mọi chân
ngôn.
Lúc tôi đến cảnh giới Đế Thích Võng Châu Quang Minh thì có Bí
Mật Chủ Kim Cương Thủ đến gặp:
“Liên Sinh Tất Địa đã hiện, không thể đoán biết được bờ bến.” Bí
mật chủ nói.
“Đây chính là pháp vô tướng hạt giống Kim Cương của tôi, tất cả
hộ ma quán đảnh đều đã dung hợp vào trong mật thừa này. Tất cả
Mật ấn, Mật hành, Mật quan mà tôi tu luyện đều có thành tựu, đã
đốn siêu thành tựu, nhân thâm quả viễn”. Tôi trả lời.
“Thật là vi diệu Bồ Đề. Đã chứng được tứ thân”.
“Tự tánh thân, thụ dụng thân, biến hoá thân, đẳng lưu thân.” Tôi
trả lời.
Kim Cương Bí Mật Chủ khen rằng: “Liên Sinh Tôn giả đã dựng
lên Liên Sinh Tất Địa. Đây là sự thật Liên Sinh Tôn giả đã tu luyện
được Tam Mật Môn, thu được tốc chứng pháp môn. Dựa vào mật
pháp thâm sâu và vô tướng đã đắc chứng được sẽ tự nhiên có thể
phá bỏ nghiệp chướng tích lũy nhiều đời, khiến cho tà ma thiên hạ
đều khiếp sợ mà sinh lòng sinh kính trọng, chủ nhân của chân ngôn
160
Đà La Ni này uy lực không ai có thể sánh được. Thật khó mà xét
đoán, khó thể biết được. Một hạt cải nhỏ mà có thể dung nhập toàn
bộ vào Tu Di Sơn, một cái hồ lô nhỏ lại có thể chứa được hết nước
biển rộng lớn, Liên Sinh Tôn giả của ngày hôm nay chính là một
người như vậy.”
“Chỉ mong cho tất cả những tu pháp, truyền pháp của tôi có thể lợi
lạc tất cả hữu tình thành chánh giác”. Tôi chấp hai tay lại cung
kính nói với Kim Cương Bí Mật Chủ.
Tôi đã viết ra tất cả mật yếu của hạt giống chân ngôn trong Linh
Tiên Kim Cương Đại Pháp, nếu có chúng sinh mong muốn sinh ở
Liên Sinh Tất Địa Phật Quốc thì hãy quán tưởng về Liên Hoa
Đồng Tử, tay trái cầm Liên ấn, tay phải giữ Thuyết pháp ấn, niệm
Liên Hoa đồng tử Căn bản tâm chú là: “Ông Á hồng. Cổ Lỗ Bố. Á
ha Tát Sa Ma hợp. Liên Sinh Tất Địa Hồng”. Tam Mật hợp nhất
này, hạt giống chữ “Hồng” sẽ phát quang, biến Vãng sanh Sinh
Liên Sinh Phật Quốc.
Kiểu tu hành này chính là dựa vào Bồ Đề tâm của Liên Hoa Đồng
tử làm nhân, lấy đại từ bi làm gốc, phương tiện pháp chính là pháp
cứu cánh, xây dựng nên Mạn Đà La của pháp thân. Tam Ma Địa
này ở trên đóa hoa sen trắng tám cánh, là một Như Lai Đại Mạn
Đà La, mà Liên Sinh Tôn giả đã là Bí mật chủ của tất cả Như Lai
Kim Cương Tam Mật tối thượng bí mật của Linh Tiên đại giáo.
Tăng ích, kính ái, hàng phục, tiêu tai…tất cả đều thành tựu. Ngũ trí
nghĩa, Thập Ba La Mật, Kim Cương trí, Đại Luân Kim Cương, Vô
Thượng Bồ Đề tất cả đều đắc được thành tựu.
Linh thư truyền pháp của tôi trong thời gian tới sẽ nói về đại thiên
cơ Vô thượng mật mà người đời trong thế gian khó được nghe nói
đến.
161
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
32.Ý nghĩa thực sự của “Dao quán”
Ở trang 197 của quyển Hắc giáo hắc pháp, tôi có viết một bài kệ là:
Bách giới thiên như.
Vạn pháp nhất tâm.
Mật chú chân giới.
Quảng độ nhân thiên.
Người trên toàn thế giới quy y theo tôi học pháp, bái nhận tôi làm
Thượng sư, tôi đã sử dụng một bài kệ của cảnh giới chân thực về
“Thông tín quy y” và “Cách Không Dao quán”, cũng giống như
một hạt cải nhỏ xíu có thể che giấu cả tòa Tu Di sơn, hay một cái
hồ lô nhỏ có thể hút cạn hết nước biển của thế giới vậy.
Tôi nói rằng lúc tôi thi hành “Dao quán” thì trái đất chỉ bằng kích
thước một hạt gạo vậy, trong mắt tôi thật sự chỉ giống như là một
hạt gạo nho nhỏ vậy. Tôi hướng về khắp trái đất, toàn thể nhân loại
thế giới thi hành đại quán đảnh của Mật tông, tôi niệm đại quán
đảnh chân ngôn, dùng Tam Hồng thủy rải về trái đất nhỏ như hạt
gạo kia, há có nơi nào không thể rải đến chứ? Có người nào lại
không thể tiếp nhận quán đảnh của tôi chứ?
Một số Thượng sư tôi được biết cũng có dùng “Cách không Dao
quán” để thi hành quán đảnh, pháp thủy quán đảnh của Thượng sư
rải vào trong hư không, Không Hành Mẫu trong không trung sẽ
đón nhận lấy rồi tiếp đó đến trước mặt quy y đệ tử, sẽ quán nhập
vào từ đỉnh, sau đó thì cát tường viên mãn, cát tường đại viên mãn
rồi.
“Cách không Dao quán” vốn dĩ là phương tiện pháp của quán đảnh,
có ý nghĩa chân thực, một bên là do Thượng sư có tánh linh thi
hành, một bên là đệ tử quy y tiếp nhận, người thi hành phải có
công lực thật sự và người tiếp nhận cũng phải thành kính. Ý nghĩa
162
chân thực của loại hình này luôn lớn hơn hẳn so với tự thân được
nhận quán đảnh, đương nhiên nếu Thượng sư là thượng sư giả,
người tiếp nhận cũng thất kính lễ nghi, quán đảnh như thế cũng
xem như là giội nước lã xuống đầu mà thôi, bất kể là tự thân tiếp
nhận hay “Cách không dao quán”, cũng chỉ đều là không phải chân
chính.
Ý nghĩa của quán đảnh cũng gần giống như rửa tội của tín đồ Cơ
Đốc, đều là một kiểu nghi thức. Quán đảnh là cổ pháp của Ấn Độ,
lấy nước bốn biển tưới từ trên đỉnh đầu xuống, biểu thị ý nghĩa
chúc mừng. Quán đảnh của Mật giáo cũng dựa theo pháp này,
chính là Kim cương pháp thủy từ đỉnh nhập vào thân, giúp cho
hành giả và Phật có thể tương ứng lẫn nhau, hợp thành một thể.
Người nhận quán đảnh từ đây thường xuyên tu luyện chân ngôn sẽ
nhập định Tam ma địa, kiếp này chứng đắc Vô Lượng Tam Ma
Địa có thể trở thành thân Bản Tôn, đạt đến thành tựu cao nhất.
Nếu là bậc Chân Thượng sư thì do bởi Long Thiên Hộ Pháp vẫn
luôn tồn tại, Không Hành Mẫu luôn vây quanh nên khi nước pháp
rải lên không trung, Không hành mẫu và Long thiên sẽ y theo pháp
chỉ để tiến hành nghi lễ quán đảnh. Đây là do Thượng sư đã thi
hành Cách không dao quán của Như Lai chân thực tối thượng tất
địa. Người bi bệnh còn còn có thể dùng “cách trị bệnh từ xa” thì
huống chi là “tưới nước từ xa”. Tỳ Lô Già Na Đại Nhật Như Lai là
Pháp Vương đại tự tại, từ bi Tam Muội pháp thủy cũng như là ánh
sáng đại nhật vậy, há có nơi nào không thể soi rọi đến chứ?
Đặc biệt tôi là bậc Chân Thượng sư, trên đỉnh đầu tôi có Tỳ Lô Giá
Na Phật, nước cam lộ sẽ xuất hiện từ các lỗ chân lông trên thân
Phật, nước cam lộ chẳng những tưới xuống đỉnh đầu tôi mà còn
xoay chuyển khắp thân thể, cách không quán đảnh cho đệ tử khắp
toàn thế giới. Do nguyên nhân Cách Không quán đảnh nên có được
thân Kim Cương bất hoại, tránh được mọi tai nạn, có được đại cát
tường, có thể thành tựu mọi thứ, viên mãn tất cả, tốc thành nhiều
bộ phần huyền diệu đến không tưởng, có thể đảm trách tất cả mọi
chuyện nan giải, uy lực của pháp chỉ trong phút chốc đều đồng loạt
thể hiện.
163
Tôi nói với những người tiếp nhận Cách không Dao quán, khi đã
tắm gội toàn thân thanh tịnh thì vào buổi sáng sớm hãy thành kính
hướng về phương vị của Thượng sư, trước hết niệm Tứ quy y chú,
sau đó cung kính lạy ba lạy, bản thân an tọa cát tường dao tưởng
về Thượng sư ở nơi xa xôi kia đang hành pháp quán đảnh thì cũng
giống như bản thân đang tiếp nhận quán đảnh vậy, chỉ cần lễ nghi
tôn kính như thế tự khắc sẽ tương ứng với từ tâm của Thượng sư.
Có được từ tâm của Thượng sư tương ứng thì tự nhiên sẽ tăng phúc
đức, tất cả chư pháp tu luyện cũng đều được tương ứng.
Kỳ diệu của Phật pháp đều nằm ở ứng dụng chuyên tâm. Mật pháp
Đại giáo của Tỳ Lô Giá Na Phật vốn là thượng pháp của Thánh
Chúng tu hành tự tính đạt thành tựu, hành giả của Phật pháp chỉ
cần tiếp nhận quán đảnh, giữ Bồ Đề tâm, thi hành ý chí đại từ bi,
không được từ bỏ chúng sinh, tất cả đều không vi phạm pháp
tương ứng thì tự nhiên sẽ có tương ứng. Tôi cho rằng thi hành
Cách không dao quán không phải không hợp lễ nghi, mà là phương
tiện hiện thế không chấp chước.
Thượng sư thi hành Cách Không Dao Quán nhất định phải là bậc
Chân Thượng sư, phải đạt được ba thành tựu lớn thì mới có thể thi
hành:
Thành tựu thứ nhất là: Chứng đắc thành tựu Thừa không du hành,
tự mình đắc được pháp “Linh Tính Phi Hành”, bản thân có thể
“Linh Tính Phi Hành” thì mới có Mật pháp để khiến cho pháp thuỷ
“Linh Tính Phi Hành”, dựa vào pháp lực Không Hành Mẫu để
mang đến cảnh giới quán đảnh chân thật cho đệ tử quy y khắp toàn
thế giới.
Thành tựu thứ hai là: Chứng đắc thành tựu Nhiếp chiêu tàng hình.
Bản thân có thể thu hút địa cầu đến trước mặt, chỉ nhỏ bằng kích
thước của một hạt gạo, địa cầu tàng hình thành kích thước một hạt
gạo, pháp thủy của thượng sư rải về trái đất để quán đảnh cho toàn
nhân loại, việc này có thể làm không được sao? Ánh sáng mặt trời
chiếu sáng khắp thế giới, ánh sáng mặt trăng soi rọi khắp thế giới,
pháp thủy quán đảnh toàn thế giới, nước pháp này tràn khắp trong
164
hư không, đắc được Mạn Đà La pháp trong không trung là Tam
Ma Địa. Bậc Thượng sư đã đắc được thành tựu Nhiếp Chiêu Tàng
Hình này ắt sẽ có thể thi hành cảnh giới Cách không quán đảnh mà
không cần nghi ngờ gì cả.
Thành tựu thứ ba là: Chứng đắc thành tựu Bản Tôn Đại Quang
Minh. Thượng sư giúp cho tất cả phức tạp hữu tình đều có thể tốc
chứng Bồ Đề, sau đó dựa vào quy tắc lễ pháp trật tự để sắp xếp tự
pháp. Làm cho bản thân trở thành Bản Tôn Tam Ma Địa, khi Bản
Tôn có đầy đủ đại quang minh có thể soi chiếu khắp Thập phương
thế giới, có thể chiếu khắp mọi thế giới, thậm chí soi chiếu cả thế
giới vô biên, bản tôn mật hợp thành một, tự bản thân biến hoá
thành bản tôn, có đủ pháp lực của đại quang minh, trí tuệ trong
sáng, có thể chuyên chú nhất một nhân duyên ở viên minh, tức đã
thành bình đẳng chân như. Chứng đắc được thành tựu Đại quang
minh bình đẳng như thế cũng có thể thi hành Cách không dao quán
pháp.
165
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
33. Đại học Washington mời giảng dạy
Đại học Washington nước Mỹ là trường đại học nổi tiếng ở miền
Tây Bắc nước Mỹ nằm ở góc Đông Bắc Seattle thuộc tiểu bang
Washington, các khoa tương đối nổi tiếng trong trường gồm có y
học, nông lâm…Ngày 31 tháng 10 năm 1983, Hội Học sinh Trung
Quốc và học sinh Đài Loan của trường đại học Washington đã liên
lạc mời tôi đến trường đại học Washington để giảng dạy. Thế là tôi
vào ngày 4 tháng 11 năm 1983, ở phòng 200 của trung tâm hoạt
động học sinh, chủ đề thuyết giảng là: “Ngồi thiền và siêu giác
lực”. Bài thuyết giảng này đã gây tiếng vang trong toàn trường Đại
Học Washington, phía nhà trường đã yêu cầu tôi chính thức mở
lớp giảng dạy ở trường Đại Học Washington, dưới đây là thư mời
tiếng Anh của hai hiệp hội học sinh trên thuộc trường Đại học
Washington:
Chinese Student Assn.
Taiwanese Student Assn.
HUB,Univ. of Washington
Seattle,WA.98195
Oct.31,1983
Dear Mr.Lu:
Recently your name has been referred tous with regard
To your preaching Ling-Sien religion in Seattle area. As we
know,Ling-Sien religion has not only created a great sensation here
but attracted many pilgrams from Taiwan.The interest in this wide-
spread religion encourages us to invite you to give a seminar in
The University of Washington to interpretits belief and philophy
which, we believe,will improve our understanding of Ling-Sien
166
religion.
We here by sincerely request your presence to share your idea
And experience with us.Thank you for your time.
Truly yours,
Chinese Student Assn.
Taiwanese Student Assn.
Ngoài thư mời tiếng Anh ra, họ còn viết thư mời bằng tiếng Hoa:
Kính gửi Lư tiên sinh:
Đã từ rất lâu rồi nghe nói ngài chuyên tâm đi sâu nghiên cứu về
Nho, Đạo, Thích, Mật tông…, đồng thời ở Đài Loan còn sáng lập
phái Linh Tiên Chân Phật tông. Hiện nay được biết ngài đang ở
Seattle tuyên dương giáo nghĩa, tín giả vô số. Chúng tôi rất là hiếu
kỳ nên kính mời ngài đến trường Đại học Washington thuyết giảng,
trình bày những triết lý nhập môn của Tông phái. Cầu mong Tiên
sinh rộng lòng chỉ bảo, vô cùng cảm kích.
Chúc phúc bình an
Hội Học sinh Trung Quốc trường đại học Wanshington – Học trò
Lầu Thuỵ Liên
Hội Học sinh Đài Loan trường đại học Wanshington – Học trò Hứa
Quang Hùng Thuỵ Liên
Ngày 31 tháng 10 năm 1983
Hiện nay ngoài Trường Đại học Washington mời tôi mở lớp giảng
thuyết ra, còn có Trường Đại học Anh Quốc (Malet) Anh cũng gửi
thư mời đến, thư mời này là do giáo sư của trường cùng ký tên.
Bên cạnh đó, giáo sư Dương Hoằng Tán của Trường Đại học Bỉ
thuộc Âu Châu (ANTWERPEN) cũng đã nhiều lần đến mời tôi
thuyết giảng. Thế nhưng tôi chỉ nhận lời mời đến Trường Đại học
167
Wanshington thuyết giảng ở phòng 200 với chủ đề là “Ngồi thiền
và siêu giác lực”, còn nếu như bảo tôi suốt năm phải bôn ba đây đó
để diễn thuyết thì đây thực sự không phải nguyện vọng của tôi.
Tôi cảm nhận được một cách sâu sắc rằng tôi là kiểu người ẩn sĩ tu
đạo, cuộc sống của tôi không thể rời khỏi “tĩnh tọa tu luyện”, nếu
như ở ngoài bôn ba, đi khắp nơi giảng thuyết, tất nhiên là dễ gây
tiếng vang và càng nổi tiếng hơn nữa, cũng có thể “tài lộc đến ào
ạt”, thế nhưng động vẫn không bằng tĩnh, tôi đã quen sống một
mình, nay phải thuyết giảng trước hàng trăm ngàn người, với
những tràng vỗ tay này thật sự không thể nào tác động được đến
tâm nhập thế của tôi, tôi không phải giảng thuyết là để được nổi
tiếng.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu chỉ ẩn dật tu đạo, viết sách mà
không thuyết giảng công khai, truyền bá chân lý của bản thân thì
càng không thể đi sâu vào lòng người, như vậy cũng không thành
công, cho nên nếu mời đi giảng thuyết thì chỉ cần là thời gian
không quá dài, thuộc trong phạm vi năng lực của tôi thì tôi nhất
định sẽ nhận lời thuyết giảng mà thôi.
Ngày 4 tháng 11 năm 1983 là ngày đầu tiên tôi phát biểu diễn
thuyết ở Trường Đại học Washington, đến tham dự có đến hơn
trăm người, trong đó có vài người vượt đường xá xa xôi để đến, có
người đến từ bang Ohio, cũng có người đến từ bang Oregon, khi
tôi biết được những người này đã nhiệt tình như thế trong lòng
không nén được nỗi xúc động. Lúc diễn thuyết tôi cố gắng dùng lời
lẽ dễ hiểu, diễn giải tường tận. Bản thân tôi do đã chứng đắc được
tọa thiền tam muội, đã trải qua tu luyện thực tế, hơn nữa khi còn đi
học tôi đã được giải nhất về diễn thuyết cho nên việc diễn thuyết
đối với tôi mà nói không phải là chuyện khó. Đây là lần đầu tiên
tôi diễn thuyết ở nước Mỹ, đã tạo ra tiếng vang toàn trường Đại
học Washington, vừa diễn thuyết xong thì tiếng vỗ tay vang lên
như sấm.
Diễn thuyết lần thứ nhất, tôi giải thích về thực tiễn của “thiên nhân
hợp nhất”, đây không phải là dựa vào thành ngữ hư vô, mà có
168
phương pháp thực tu hẳn hoi, dùng nguyên lực của vũ trụ để phối
hợp với cái lợi ích tiểu ngã của nhân loại, đó chính là một loại tu
luyện lực tinh thần, tập trung-quán tưởng-quán không-dung nhập.
tôi giải thích rõ phương pháp ngưng thần nhập vào thiên tâm và
nói rõ về “vô vi nhi vi” của đạo gia, đồng thời nói rõ làm sao để
lực của bản thân có thể cùng “nguyên lực của trời” hợp thành một
thể để thành tựu mọi thứ.
Có một vị học tử sau khi nghe tôi diễn thuyết đã viết cho tôi mấy
bài kệ khen tặng, hơn nữa về sau tất cả người nhà đều đến chỗ tôi
để cầu xin quy y quán đảnh. Đây cũng chính là chứng minh cho
việc diễn thuyết thành công của tôi. Những bài kệ khen tặng như
sau:
(1)
Thính sư kính sư bồi thiện căn.
Liễu ngã đa niên khán thư ân.
Quy y quán đảnh học Phật bổn.
Khuynh thính pháp ngữ thiện tâm sinh.
(2)
Thính sư vĩnh trú nhân gian gia.
Thỉnh dụng pháp nhãn đa quan sát.
Thị hữu đệ tử nguyện ý tác.
Giáo hoá chúng sinh bình đẳng đạt.
(3)
Ngã môn quân thị đại chí thành.
Đa nhân nguyện tuỳ thượng sư thành.
Phổ lễ ứng chân đại pháp vương.
Cứu cánh thành tựu Liên Hoa Sinh.
169
(4)
Chí tôn thánh giả thuyết pháp tiền.
Nhất tâm tế thính hữu huyền thiên.
Hoa đại giảng học truyền pháp diệu.
Nhất cú nhất cú lộ chân quyền.
(5)
Thượng sư bổn tại bạch vân trú.
Pháp diệc vô pháp cánh hà ngôn
Chỉ nhân chúng sinh Ba La Mật.
Tài đáo nhân gian liễu nhân duyên.
Nhận được lời khen tặng của vị học tử trường Đại học Washington,
trong lòng tôi bồi hồi xúc động. Ngoài ra còn có một bạn học nữ
tên Hứa Linh Chi ở trường đại học Washington đã vẽ cho tôi một
bức hình, phía sau có viết: “Tri thế như mộng vô sở cầu, vô sở cầu
tâm phổ không tịch, hoàn tự mộng trung tuỳ mộng cảnh, thành tựu
hà sa mộng công đức”. Ý nghĩa của bức hoạ này thật thâm sâu,
khiến cho tôi phải bồi hồi cảm nhận về “Không vô”. Bức hoạ này
vẽ tôi ngồi trên Liên Hoa, phát ra đại quang minh tỏa chiếu khắp
thế gian.
Tôi đang nghĩ về cuộc đời thật kỳ diệu lắm thay! Một trái đất nho
nhỏ đã dung nạp rất nhiều sinh vật có tình, tôi đến nhân gian, qua
lại giữa người với người không có gì trở ngại gì, tôi đang làm
chuyện gì vậy? Là giúp người đi đường dựng lên những cọc tiêu
“đường đạo”, giúp cho chúng sinh một số chỉ dẫn, là vì người khác
chứ không phải vì bản thân. Diễn thuyết giảng giải phải chăng là
mang thêm một bộ xiềng xích cho bản thân mình? Hay là có thể
giúp cho giới trí thức và Linh giác hợp lại thành một. Rất nhiều
tiến sĩ khoa học của Trường đại học Washington mở rộng hai tay
chào đón tôi, nhưng tôi có thể thật sự viên mãn hoàn thành sứ
mệnh hoằng pháp chăng?
170
Tôi không cầu pháp ở ngoài tâm, cũng không cầu vật ở ngoài tâm,
chỉ thực hiện cuộc đời trung đạo của bản thân, ở trong trần tục
nhưng không cảm nhiễm những tục khí của trần thế, thuận theo
dòng chảy thế tục nhưng vẫn kiên cường tự chủ, tôi phải “vào bùn
mà không hôi tanh mùi bùn”. Mọi thứ đều thuận theo tự nhiên. Tôi
thuyết giảng không phải vì cầu danh cầu lợi, phẩm hạnh bên trong
sẽ có thể biểu hiện qua hành động bên ngoài. Tuy vậy tôi vẫn giữ
một trái tim cổ xưa thuần túy.
Tôi đã từng diễn thuyết ở Viện Lập Pháp và đến diễn thuyết qua ở
các trường đại học trong nước, từng diễn thuyết ở Phù Luân Xã,
hiện tại diễn thuyết ở Trường đại học Washington, tất cả không
phải vì lợi vì danh mà là chỉ trong những trường hợp bắt buộc,
những điều kiện không thể thiếu thì tôi mới đồng ý xuất hiện
thuyết giảng. Đây gọi là: “Thủy giác Phật thuyết pháp, thiên địa
hữu minh chứng”.
171
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
34.Ý kiến của Liên Văn
Đây là bức thư của đệ tử Liên Văn ở Brunei thuộc Đông Nam Á,
cách kiến giải của anh ta rất tốt, nay đặc biệt chia sẻ như sau:
Kính thưa Lư Thượng sư:
Khi đọc “Tọa thiền thông minh pháp” biết được thượng sư có một
tấm ảnh bảo tướng trên trán xuất hiện đạo ánh sáng Kim Hoa,
khiến cho đệ tử rất là ngưỡng mộ, trong lòng rất mong muốn
Thượng sư có thể tặng cho đệ tử một tấm ảnh để đánh thức chúng
sinh đang trong mộng ảo, vào lúc thích hợp sẽ thể hiện “thực tu
chứng pháp”, đây là chứng minh tốt nhất cho việc chỉ nói bằng lời
không có ích lợi, trong lòng đang suy nghĩ vậy thì đúng vào ngày 4
tháng 10 nhận được thư của Thượng sư, trong thư có gửi kèm một
bức bảo tướng trang nghiêm có ánh sáng của mắt thứ ba, thật vô
vàn cảm tạ thượng sư.
Căn cứ theo thư gửi đến của sư huynh Kính Nguyên nói là trong
giới Phật giáo có rất nhiều ý kiến về tông phái, các bên đều không
dung hòa với nhau. Tôi nhận thấy tác phẩm “Tọa thiền thông minh
pháp” của Thượng Sư có thể tiêu trừ đi những cố chấp và ngoan cố
của những người này, hy vọng trong tâm họ sẽ dần dần ngộ được
đạo lý thật sự của đời người, hiểu được nỗi khổ tâm của Thượng sư,
vì hoằng dương chính pháp, dẫn dắt Mạt pháp chúng sinh thoát
khỏi khổ não, dám đối diện với hiện thực, nhận lấy khổ nạn của cái
chết, mãi tinh tiến không lùi bước, không chấp nhặt mọi sự phỉ
báng. Nói chung, những gì Thượng sư đã trải qua là dùng sự từ bi,
nhẫn nhịn của Đại Bồ Tát để diễn giảng về những chân lý vô cùng
vô tận, chỉ đạo chúng sinh tín Phật đạt được cái nhìn bình đẳng của
“hữu giáo vô loại”, gọi Thượng sư là hóa thân của Thích Ca Mâu
Ni Phật ngày nay có thể nói là thật xứng đáng không hổ thẹn.
172
Brunei cũng là một nơi có Phật duyên, vào ngày 17 tháng 9 có một
vị Văn Kiến Pháp sư từ Malaysia đến bản địa để hoằng pháp kết
duyên.Văn Kiến Pháp đã quá trưa rồi nhưng vẫn chưa ăn, một lòng
tu trì nghiêm túc, xuất gia đã 10 năm, năm nay 45 tuổi, theo học
nền giáo dục Anh ngữ, nhưng tiếng Hoa cũng rất tốt, khi hoằng
dương Phật pháp đều dùng một số câu chuyện rõ ràng dễ hiểu để
khởi phát trí tuệ của tín đồ, các đệ tử Linh Tiên Chân Phật Tông
của chúng ta cũng đi thính pháp, hơn nữa còn tuỳ duyên quy y theo.
Trong pháp hội này, “Khuyến tín Phật văn” của sư huynh Kính
Nguyên là nổi trội nhất, hỉ pháp tràn đầy, mọi người đều xin một
quyển để đọc, tôi cũng đã tặng một bộ sách cho Văn Kiến pháp sư.
Tu tập “Toạ thiền thông minh pháp” đệ tử bắt đầu từ công phu cơ
bản nhất, từ phương pháp Tứ gia hành lấy hấp thụ ánh sáng để diệt
trừ hắc khí, kế đó nghiên cứu tập luyện về phương diện quán tưởng.
Sau đó tiếp tục tu tập “Thượng sư tương ứng pháp”, với lòng cầu
tiến cầu xin Linh Quang của Thượng sư bảo hộ và tương ứng, đích
thân thực hiện những pháp mà Thượng sư truyền thụ. Hiện nay đệ
tử biết rằng bộ não của con người rất phức tạp, là một bộ máy vi
tính vạn năng đầy đủ tinh tế, chỉ cần có được pháp của Thượng sư,
chiếu theo đó luyện tập chính xác sẽ được tinh tiến, trên trán cũng
có thể xuất hiện đạo ánh sáng Kim Hoa, đây không phải là chuyện
khó khăn gì, quan trọng nhất như Thượng sư đã nói là phải bền
lòng, nếu trong lòng cứ phập phồng không yên thì e rằng suốt đời
cũng không thể phát huy hết toàn bộ bộ máy vi tính vạn năng này.
Nhớ có lần tôi xem được một quyển sách nói rằng sóng điện não
nhanh hơn tốc độ ánh sáng đến mấy trăm tỉ lần. Điều này có lẽ ứng
chứng cho triết học vượt thời đại về tu luyện Phật Đạo Mật tam
hợp của Thượng sư. Loại thần thông này thực ra người thường thật
không thể nào tiếp nhận được, ngay cả một số Thượng sư Phật
giáo cũng cho rằng không thể, tuy nhiên từ sóng điện não và những
điều “Toạ thiền thông minh pháp” nói đến thì hoàn toàn là có thể,
minh tâm kiến tính của Toạ thiền thông minh pháp này công bố ra,
tôi cho rằng đây cũng chính là sự công bố về Thiên cơ, là sự khởi
bước của hòa bình thế giới, việc thực hiện thế giới đại đồng không
173
phải là là chuyện trong tương lai xa xôi, cũng giống như là tâm chí
của Thượng sư vậy: “Tương lai tôi thực hiện truyền đạo khắp thế
giới, chỉ mong rằng chúng sinh toàn thế giới, mọi người đều có
duyên, mọi người đều được độ, mọi người đều thành Phật.”
Khi Thượng sư còn ở trong nước đã dùng Bồ Đề tâm và Nhẫn
nhục tâm để phổ độ chúng sinh, đã từng dùng tay vẽ một đường
chỉ đen để cho Đại sư Phật giáo đích thân ấn chứng, về sau Đại sư
đã tin rồi nhưng vẫn khó tránh khỏi nói là: “Làm sao có thể được,
làm sao có thể được chứ ?”. Từ đây có thể thấy rằng “cái thật” quả
là khó khiến cho người ta tin tưởng, ngược lại “cái giả”, những cầu
giải thế tục thì mọi người đều theo đuổi, nỗi khổ tâm của Thượng
sư có thể nhìn thấy như vậy. Tôi biết rằng sau khi Thượng sư đến
Mỹ thì bắt đầu dùng cách “đánh mắng” để phổ độ chúng sinh, đối
với một số trẻ con không ngoan, phương pháp trách mắng này có
khi lại hiệu quả, có tác dụng khuyên răn. Thượng sư từ trước đến
nay dám nói ra những điều mà người khác không dám nói, bản
thân cũng không có bí mật gì, ngay cả đời tư của mình cũng viết
công khai trong sách cả, đây là hành động của bậc đại trượng phu
quang minh lỗi lạc. Thượng sư đã đắc chứng nên Thượng sư không
sợ kẻ tiểu nhân, Thượng sư phục ma trừ yêu, vì thế không thể
không dùng phương pháp “đánh mắng”.
Còn nhớ cách đây trên 20 năm, đệ tử đã từng nghe kể một câu
chuyện nhỏ, nhưng trong câu chuyện nhỏ này lại chứa đựng một
đại đạo lý. Có một vị bệnh nhân trên cơ thể có một ác bướu, kết
quả kiểm tra của bác sĩ cho biết ác bướu đã di căn vào các bộ phận
quan trọng nên đành bó tay chịu thua. Nói quả quyết là trong vòng
một tháng sẽ chết cho nên không cần chữa trị, cũng không cần làm
phẫu thuật, bảo bệnh nhân về nhà để chuẩn bị hậu sự. Tuy nhiên
bệnh nhân lại nghe nhầm, cho là bác sĩ nói không sao cả, không có
chuyện gì, ông ta tin vào lời bác sĩ nói, vui vẻ trở về nhà vẫn làm
việc như mọi ngày, thế là sống được đầy đủ ba năm. Trong một dịp
ngẫu nhiên bác sĩ và bệnh nhân đó gặp nhau, vị bác sĩ đó giật mình
kinh ngạc khi biết được người này vẫn chưa chết , thế là ông ta làm
thêm một cuộc xét nghiệm tường tận thì phát hiện ra huyết quản
174
của bệnh nhân sớm đã bị tắc nghẹn, nhưng vẫn sống được thật là
kỳ tích, thì ra đây chính do “quán tưởng không còn bệnh” nên đã
tạo ra kỳ tích. Giúp cho máu huyết được lưu thông tuần hoàn qua
đường bên. Vị bác sĩ đó nói cho bệnh nhân nghe về chân tướng sự
việc này. Bệnh nhân liền mất đi lòng tin, chỉ 2 ngày sau đó thì qua
đời. Câu chuyện này đã giải thích tầm quan trọng của “Tự lực quán
tưởng” .
Đệ tử tu luyện Mật pháp, trước tiên hãy tu luyện Tứ gia hành, sau
đó tu đến Thượng sư tương ứng pháp, rồi tu Bản Tôn pháp, tu hành
Tứ quán tưởng của Bản Tôn pháp, mỗi lần quán tưởng niệm 108
lần Bản Tôn tâm chú, thứ tự như thế không biết có thích hợp chăng?
Xin cung thỉnh Thượng sư bảo hộ gia trì. Kính chúc
Phật an
Giới đệ tử Liên Văn đảnh lễ
Ngày 8 tháng 10 năm 1983
Hiện nay ở mọi ngõ góc trên thế giới đều có đệ tử của Linh Tiên
Chân Phật Tông, ở Hồng Kông có Tín Pháp đường, ở Philippin có
Liên Quang đường, ở ANTWERPEN nước Bỉ thuộc Âu châu có
rất nhiều tín đồ, ở Hà Lan có Vi Lâm tiên sinh, ở Sydney của
Australia có Phương Hào Đẳng, ở Osaka Nhật bản có Huỳnh Bá
Quyền. Ngoài ra còn có ở khu vực nước Mỹ - Canada, khu vực
Đông Nam Á, Arab Saudi đều có rất nhiều rất nhiều đệ tử, phân
đường được thành lập trên toàn thế giới, như đệ tử Liên Văn ở
Brunei và đệ tử Hứa Mộc Linh của đảo Sumatra đều là những đệ tử
ở những khu vực xa xôi. Đây chính là do Liên Tiên Mật pháp đã
phóng ra ánh sáng mênh mông.
Đệ tử Liên Văn nói rằng tôi “đánh mắng” để độ chúng sinh, tôi
không phủ nhận điều này, nên biết rằng Phật lý “đánh mắng” để độ
chúng sinh của tôi là như thế, phương pháp đánh mắng của tôi là
dùng “bình đẳng tâm” để trách mắng, đánh mắng một cách chí
công vô tư. Nói một cách đơn giản là tôi trách mắng người làm
175
chuyện xấu, vì người làm chuyện xấu, thì tính linh của họ sẽ giảm
xuống, bị giảm xuống thì có thể rơi vào trong địa ngục, tôi trách
mắng anh ta là muốn giúp anh ta ngừng lại, nâng đẩy anh ta lên
Phật thổ. Vì vậy “đánh mắng” của tôi chính là làm việc thiện. Nói
tóm lại, đánh mắng xuất phát từ thiện tâm, trách mắng một cách
chí công vô tư, có tri kiến, trí tuệ, tánh đức của Phật thì mới có thể
quảng lợi vô biên, lợi ích cho chúng sinh trong tương lai. Tất cả
những gì chúng ta làm đều phải phát tâm hộ trì Phật pháp này, giúp
cho mọi chúng sinh trong tương lai đều được đắc độ, cách tùy lúc
“trách mắng” này cũng là một pháp vậy.
“Đánh mắng” là gì? Ví như là một người thông minh biết được
Mật pháp của Phật môn có thể giúp cho chúng sinh thu được thắng
lợi, nhưng đối với một số Tà ma yêu quái và Tăng lữ ngoan cố,
thậm chí là một số tà thuật ngoại đạo, trong lòng những người này
đều có vọng tưởng, cố chấp (Phái hệ ngoan cố quan niệm làm
chuyện xấu) cho nên không thể đắc chứng, trong tâm họ luôn
không dứt cuồng tâm, luôn điên điên đảo đảo, “đánh” của tôi chính
là quét sạch mọi vọng tưởng trong lòng họ, “mắng” của tôi chính
là muốn họ phát “tận hết Bồ Đề”, mắng cho đến khi Bồ Đề chân
tính của họ lộ ra ngoài, mong muốn mọi người ai cũng có thể
thông đạt nguồn gốc thiên lý, nhân tâm, ai ai cũng có thể nhập
được tri kiến của Phật. Công đức của việc “đánh mắng” này là vô
cùng lớn!
Còn về sức mạnh của “Quán tưởng” chính là “Bồ tát” có thành tựu
tinh thần tương đối cao. Bên trong não bộ của con người dùng
“định lực” và “tuệ lực” có thể tiến nhập tu luyện từ tầng này cho
đến tầng khác cao thâm hơn. Xét về nguyên tắc thì vụ trũ quan của
Phật chính là một hình thức kết cấu của lực, do trường lực không
giống nhau nên đã hình thành vụ trũ. Muốn đắc chứng “Minh tâm
kiến tánh” thì phải dùng lực lượng của “định tuệ” để tiến vào trung
tâm của trường lực, “năng lực” chí cao vô thượng chính là đại năng
vũ trũ, có thể cùng đại năng hợp thành một là đã thành Phật “minh
tâm kiến tánh”.
176
Quán tưởng là minh tưởng một cách trừu tượng, nhưng có thể phát
triển thành lực ý chí mãnh liệt, loại lực ý chí mãnh liệt này sẽ là
một đột phá lớn của khoa học nhân loại trong tương lai.
Năng lực tinh thần của nhân loại chính là dùng “Quán tưởng” để
khai phát, sẽ có thể làm cho cao tri giác và lực sáng tạo xuất hiện
ra, cái gọi là cao tri giác chính là “thần thông” và “siêu năng”.
Phương pháp tu luyện của Mật giáo là mượn lực của Tôn giáo để
tu luyện, Linh Tiên Mật pháp là một loại đại pháp khai phát vô
thượng mật, giá trị và ý nghĩa của cuộc đời đều bao hàm ở trong đó,
nếu năng lực của con người có thể điều khiển hay đóng lại, bản
thân tự do tự tại thì đây mới chính là giá trị và ý nghĩa lớn nhất của
cuộc đời. Về phương diện này tôi chính là bậc Thượng sư chân
chính.
177
(Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
35. Ý kiến của Liên Trúc
Đây là một bức thư của đệ tử gửi từ Gia Nghĩa ở trong nước, tôi
đặt cho anh ta pháp hiệu là “Liên Trúc”, trong thư bàn về vấn đế
“Địa Linh”, nay đặc biệt tiết lộ như sau:
Lư thượng sư kính mến:
Chào tất cả mọi người! Kể từ lần trước nhận được thư của Thượng
sư, chớp mắt đã qua hơn 10 tháng rồi, thật sự thời gian khiến cho
con người ta già nhanh thật, con gái của con cũng đã biết đứng bò,
còn biết kêu “wa wa” nữa rồi. Quả đúng như lời dự đoán của
Thượng sư, đứa con gái này tính khí như con trai vậy, hễ gặp
người là cười ha hả, người khác vừa nhìn đều nói là con trai, tôi
hiểu ý cười cho qua chuyện, đáp lại là con gái. Thật là cám ơn lời
dự báo của Thượng sư, nhân đây xin cho tôi cung kính đảnh lễ với
Thượng sư.
Thành tựu về tu luyện của Thượng sư ở Hoa Kỳ thật đáng kinh
ngạc, Linh thư được xuất bản hết cuốn này đến cuốn khác (Kinh
động vạn giáo, tạo nên tiếng vang trong chính quyền), Phật quang
phổ chiếu khắp mọi ngóc ngách của thế giới, thời gian gần đây tại
pháp hội ở Hoa Kỳ, Phật Bồ Tát xuất hiện trên không trung, trăm
người đều nhìn thấy, tất cả đều là sự chiêu cảm với đầy đủ từ bi
công đức của Thượng sư từ bi công đức, đây thật sự là may mắn
cho chúng sinh, người có duyên mong chờ được Linh quang bảo
hộ của Thượng sư, chư Phật độ trì, những mong rằng người trên
thế gian này ai nấy đều có thể thấm nhuần Phật quang, không đánh
mất đạo pháp, thật may mắn lắm thay!
Sư huynh Mông Hoàng Minh đã tặng con một cuộn băng ghi âm
Thượng sư thuyết pháp, truyền pháp về chú ngữ chân ngôn, giảng
giải Mật pháp, cảm nhận tâm linh con thật không thể dùng lời diễn
giảng! Đáng tiếc, thiên sơn vạn thuỷ cách trở, không thể lúc nào
178
cũng được lắng nghe pháp âm của Thượng sư, những mong
Thượng sư khi cơ duyên thích hợp thực hiện thuyết pháp trên toàn
cầu, ngày này cũng sẽ không còn xa nữa.
Liên Trúc xin báo cáo với Thượng sư vài chuyện nhỏ, những
chuyện này vẫn cũng nhắm đến những tác phẩm (nổi tiếng) của
Thượng sư. Đây không phải là lời nói của bậc quân tử, vốn chỉ là
những con rối nhảy múa vòng quanh mà thôi, nay để Thượng sư
xem một vở kịch hay xin gửi kèm theo một số bài luận thuyết.
Có một người tự xưng là Dư Phi Sư, tên thật là Đinh xx, là người ở
Đại Lâm, Gia Nghĩa (cư trú ở số nhà 23/x, đường Bình Hoà, thị
trấn Đại Lâm), năm 64 nhân dân Trung Hoa đã xuất bản một quyển
“Bí mật vô hình”, hiện nay đang theo nghề thuốc tây và xem địa lý,
những bài viết đăng tải ở mục diễn đàn Phong thủy trên tờ “Chư
La Tuần san” ở Gia Nghĩa không có gì là cao minh cả, về địa lý
học cũng không có gì cao siêu, nếu dựa vào những phương pháp
của ông ta để xem địa lý thì chỉ sợ rằng sẽ làm hỏng việc lớn của
người. Những thầy địa lý của Linh tiên chân Phật tông chúng ta chỉ
cần tùy tiện tìm một người thôi cũng đã giỏi hơn ông ta nhiều.
Sau đó những bài viết của ông ta thường hay đề tên của Thượng sư,
làm tôi sinh lòng hứng thú nên cùng bạn bè thảo luận, nhưng có
một người bạn lại là học viên lớp Phong thủy của ông ta, nhưng
người bạn này lại cho rằng tôi khoác lác cuồng ngôn mà thôi. Vì
tôi muốn biết chân tướng sự việc nên đã đăng ký làm học viên, học
phí là 20 ngàn, tôi vẫn đi học với lòng thành khẩn và lễ phép, một
tháng trôi qua. Ngôn hành của ông ta nếu không phải là nói chuyện
thị phi địa lý này thì là Tam hợp bất hành, Cửu tinh nhất điểm hữu
dụng nọ kia, những bài giảng phát ra đều là photo của những tác
giả đi trước, nhấn mạnh cần học hết các môn các phái, nhưng bản
thân lại thiên về các thuật như Tam nguyên ải tinh, quẻ vận, lục
vận, thất vận… Học sinh có khoảng chừng mười người ngay từ
đầu đều bị hù dọa nên cứ tin là thật. Ngoài ra ông ta cũng nói bản
thân từng khiêu chiến tỉ thí công phu với Trương x Lượng, Tăng x
Nam, ông ta không tôn trọng họ, nói chuyện thị phi về họ rất nhiều!
Phần lớn đều là tự quảng cáo cho bản thân mình mà thôi. Về học
179
thuật học giáo của giáo phái này cũng có học viên hỏi ông ta rằng:
Có thực dụng hay không? Trả lời rằng: Không thể ứng nghiệm
được, lại hỏi tiếp: Học mà không ứng nghiệm thì học có tác dụng
gì chứ? Trả lời rằng: Để đối phó mà thôi. Người này còn nói, Ngày
La Hầu Nhật không thể mở la bàn sợ làm tổn thương đến địa sư,
người này vào tháng quỷ (tháng 7) cũng không dám ra khỏi cửa
giúp người xem địa lý, thấy ông ta tự mâu thuẫn như thế, trình độ
chẳng đến đâu cả, coi như lãng phí 20 ngàn vậy, bỏ đi cho xong
quách. Chẳng trách học viên của ông ta từng người từng người bỏ
đi quay lại, thật đáng cảm thán cho những lời cuồng ngôn.
Đinh x Thôn này, thân hình gầy bé, mặt hình tam giác, đường cánh
mũi bên trái có một nốt ruồi lớn, đuôi mắt có nhiều nếp nhăn,
người này như thế nào? Chỉ cần suy nghĩ qua là biết. Ngoài ra ông
ta cũng có một mảnh đất, chuyên giúp người ta làm sinh cơ, theo
nghề xem địa lý, cũng không khác gì lắm so với Tăng x Nam.
Người này viết sách cũng giống như một vị tiên sinh nào không ăn
cá ở Cao Hùng vậy, chỉ muốn tìm người thảo luận để đề cao bản
thân, dùng một câu nói để hình dung là “bới lông tìm vết”, để
người ta xem sách của ông ta sẽ sinh lòng khiếp sợ, tất cả chỉ là tự
đề cao bản thân mà thôi, tên thật của người này không tiện viết ra,
biệt hiệu là Nhất Đại Đôi, là cái gì Vô cư sĩ, Dư Phi Sư đó, chỉ cần
nhìn qua cũng thừa biết là mượn danh Thượng sư để nâng cao bản
thân. Đương nhiên Thượng sư là quân tử khí phách lẫm liệt, thành
tựu cực cao, chẳng trách khiến cho nhiều người đố kỵ, nghĩ năm
xưa Phật tổ, tổ sư và các vị tiền bối chân nhân người nào không bị
ma đạo gièm pha, phỉ báng, nhưng tin rằng một khi kiếm chính
nghĩa của Thượng sư rút ra thì lũ ma sẽ kinh sợ cong đuôi chạy
như chuột.
Ngoài ra, ở Cao Hùng có một căn Hoà Thiện đường, địa điểm là:
số xx hẻm xxx đường Nam Đài khu Tân Hưng thành phố Cao
Hùng. Hoà Thiện đường là tiệm của bọn thần côn mở, dùng Tử Vi
Đẩu Số luận đoạn cát hung, lấy bác hào giảng giải, nói Phật tổ mới
ở cảnh giới đệ tứ hào, hoàn toàn là nói xằng bậy, là bọn giang hồ
thuật sĩ nếu muốn bái sư phải tốn 100 ngàn, Phật pháp viên mãn
180
của Phật tổ há để cho một tên bói toán tầm thường nhỏ bé có thể
suy đoán hồ đồ cảnh giới của ngài hay sao. Những bọn đệ tử đều là
phường không biết đạo lý, không có tu dưỡng. Ngoài ra còn nói cái
gì là toạ thiền xem được ngày thiên địa giao hợp, dùng một lu nước
úp ngược lại hấp khí, người ngồi ở trên được bổ sung thêm điện
lực rất mạnh, tốt hơn so với tĩnh toạ bình thường, xem hắn ta
miệng ngậm một điếu thuốc, sắc mặt bất chính, chỉ là một kẻ lừa
gạt mà thôi.
Gần đây ở Gia Nghĩa có thành lập Côn Luân Tiên Tông Phân xã,
sách ở đấy có thể xem để nhập môn, cũng lên Đài Bắc tham bái
quy y kết duyên, trong sách Thượng sư có nhắc đến Linh Tiên
Chân Phật Tông và Côn Luân Tiên Tôn có nhân duyên với nhau,
hơn nữa còn khen tặng thầy Lư, đạo công của ông ta và phương
pháp tu luyện Linh Tiên chân Phật Tông đều có sự kỳ diệu tuy là
đường lối khác nhau nhưng lại cùng chung hiệu quả, trong số các
đệ tử yết kiến có rất nhiều người là do Thượng sư khởi phát đạo
tâm nên mới quy y, đây lại là một đại công đức.
Nhớ là Thượng sư đã từng nói qua Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sư
không phải một người, tuy nhiên có một số người vẫn kiên trì nói
là một người, tranh luận vô ích, hãy tin rằng rồi sẽ có một ngày
được công bố. Bài viết “Thế nào là Dã Hồ Thiền”, đây là đòn cảnh
tỉnh kêu gọi thức tỉnh những đệ tử cố chấp. Ngày nay nào là Bát tự,
Tử Vi Đẩu Số, Tánh danh học đầy rẫy cả thành phố, nhưng tất cả
chỉ toàn là lý luận, hoàn toàn chẳng chút linh nghiệm, làm mê hoặc
nhiều người, trong khi đó pháp của Thượng sư linh nghiệm đệ nhất,
khẩn cầu từ bi, viết loại văn chương này để lợi ích chúng sinh, tiêu
trừ đi một số Giang Hồ thuật sĩ bẩn thỉu. Với những văn chương
được viết từ đức độ và năng lực của Thượng sư đã làm cho nhiều
người tiếp nhận một cách dễ dàng, đây chính thực là thực hành đại
đạo. Thiên hạ vi công, chúng sinh bất ngộ thì còn phải chờ đợi đến
khi nào nữa? Xin dừng bút tại đây. Kính chúc
Phật pháp Hoằng Dương Linh Tiên Chân Phật Tông đệ tử Liên
Trúc bái thượng sư
181
Ngày 3 tháng 10 năm 1983
Đệ tử Linh Trúc đưa ra lời bình luận về “Đinh x Thôn” (Dư Phi Sư)
như sau:
(1) Người này thường đề tên Thượng sư, phải chăng là để
đề cao sự nổi tiếng của bản thân? Lòng dạ hiểm ác khó lường,
còn thổi phồng bản thân mình là một nhà học vấn.
(2) Người này nói rằng đã từng gặp mặt Thượng sư và nói
chuyện với nhau, thời gian đó có lẽ là Thượng sư ở khu cư xá
Nghi Hân Đại Bình, lúc mà bế môn tạ khách thì ông ta thay
mặt người khác đến cầu xin giải thích, người này đức hạnh
quá tệ, vừa nhìn được mặt Thượng sư liền mang ra tuyên
truyền hù người.
(3) Người này bản thân không có công phu thật, sở trường
là vạch lông tìm vết, đi mời thầy địa lý đến nhưng toàn là
xưng mình muốn thí công phu với người khác, người như
vậy, tâm địa như vậy, thật là kẻ tiểu nhân.
(4) Địa lý của người này chỉ toàn là lý luận, trên phố có rất
nhiều, rất nhiều thầy địa lý đều giỏi hơn ông ta nhiều, trên
lớp học ông ta cũng nói về Kê Đồng, đều bắt chước theo
những phát biểu của Thượng sư, Thực Vô Ngư tiên sinh cũng
là phường bắt chước Thượng sư, sau đó lại phủ nhận do
Thượng sư nói, cho rằng là sáng kiến của bản thân, những
người này thật rất là tệ.
(5) Người này trong quảng cáo nói là “chịu trách nhiệm”,
kết cuộc là ở trên giảng đường học viên hỏi có thực dụng hay
không? Liền trả lời là không. Nhấn mạnh phong thủy của
mình là chính thống nhưng lại hoàn toàn vô dụng, thể nghiệm
không nhiều, bản thân đầy mâu thuẫn, thật khiến người ta
cười đến chết mất. Nhớ thượng sư đã từng nói là: “Một ít là
Khí học, học địa lý mà không hiệu nghiệm thì học có tác
dụng gì? Những thầy địa lý của Linh Tiên Chân Phật Tông
giỏi hơn người này có rất nhiều.”
182
(6) Lại nói đến chuyện đại danh của Thượng sư, một lần
nữa nói về “linh nghiệm phái”, có thể là bộ sách “Địa Linh
Tiên Tông” này đã khích lệ ông ta, lúc trước tôi cùng Thượng
sư ra ngoài xem đất, đều dựa vào hình thế tạo thành để đưa ra
nhận xét, phân tích rõ ràng, tất cả đều linh nghiệm, thật là
khó lý giải. Tuy nhiên người này tùy tiện buông lời thị phi,
có thể thấy rằng đây là phường ăn nói bừa bãi.
(7) Người này nói rất dễ nghe, là Giang Hồ thuật sĩ lừa gạt
tiền bạc người khác, tôi nộp 20 ngàn, kết quả là không học
được gì. Những gì ông ta biết chỉ là “Dạ Lang tự đại, tự tâng
bốc mình, chuyên lừa một số người không biết nội tình”, 20
ngàn của tôi xem như là bỏ phí rồi.
Nhận được thư này, tôi cũng có 2 điểm cảm xúc nhỏ:
Thứ nhất là Địa Linh học, vốn là một học lý cao thâm nhất, sách
phong thuỷ, văn tự sâu sắc, nếu không là đại học vấn gia thì không
thể đi sâu vào, thế nhưng phong thuỷ địa lý trở thành công cụ mưu
sinh của phường giang hồ thuật sĩ cũng có nguyên nhân của nó.
Trong số những người này thì ai cũng tự xưng là số một, không có
ai tự nhận mình là số hai, mắt cá và trân châu vốn khó phân biệt,
do đó phải cần xem có linh nghiệm hay không. Độc giả muốn tìm
một vị thầy địa lý tạo phúc, cũng cần phải xem ông ta trong quá
khứ có linh nghiệm hay không, nếu không linh nghiệm thì chúng ta
tìm ông ta có tác dụng gì chứ? Biết rõ là không linh nghiệm, lại tìm
ông ta, không phải là vừa mất tiền vừa gánh thêm tật sao. Cho nên
những danh gia địa lý của Linh Tiên Chân Phật Tông đều linh
nghiệm và tương ứng.
Thứ hai: Còn về người tên là Đinh x Thôn, đệ tử Liên Trúc của tôi
đã phê bình ông ta rồi, nói văn của ông ta không có giá trị cũng đã
đủ tội nghiệp rồi. Tôi cần gì phải nói thêm nữa chứ! Để ông ta tắm
một bồn nước lạnh xem có thức tỉnh không? Thật đáng thương
thay cho “kẻ tội nghiệp” này.
183
“Lư Thắng Ngạn Văn Tập 049 – Linh Tiên Kim Cương Đại
pháp)
36. Đệ tử Kim Cương Cát Cử Ba đến quy y
Mật giáo là Đại thừa giáo, là một tông giáo đã viên giác, Tây Tạng
Mật Tông là Mật giáo phát triển ở Tây Tạng, hiện nay có Hồng
giáo (Ninh Ma Ba - Nyingmapa), Hoàng giáo (Cách Lỗ Ba -
Gelugpa), Bạch giáo (Cát Cử Ba - Kagyupa), Hoa giáo (Tát Ca Ba
- Sakyapa). Nhằm giúp cho chúng nhân sĩ tam giáo Đạo, Hiển, Mật
có thể tu hành thuận tiện hơn, Linh Tiên Chân Phật tông chính là
phương pháp tu luyện mới do tôi đề xướng ra.
Số đệ tử tu tập Tạng Mật trước rồi sau đó xin quy y Linh Tiên
Chân Phật Tông có rất nhiều, họ rất là ưu tú, do bởi đã tu tập Tạng
Mật, lại được học Vô Thượng Mật pháp của Linh Tiên Chân Phật
Tông, vì thế số người “tương ứng” rất là nhiều, do vậy một truyền
mười, mười truyền trăm, đệ tử đến cầu quy y đông vố số kể. Có thể
dự đoán được rằng trong tương lai Linh Tiên Chân Phật Tông sẽ
vô cùng hưng thịnh, vượt hơn cả Đài Mật ở Thiên Đài sơn vào thời
nhà Đường và hơn cả Đông Mật được hoằng dương ở Nhật Bản,
pháp duyên này thật sự vô cùng tốt đẹp.
Pháp của Như Lai xây dựng nên Mạn Đà La trong không trung,
đây là một đại trí tuệ rất thâm sâu. Ngày nay, Linh Tiên Mật pháp
đắc được trí tuệ Như Lai bí mật này, dùng pháp môn đại từ bi độ
hóa chúng sinh, ngoài ra còn có Phương tiện pháp, Bồ Đề pháp.
Linh Tiên mật pháp này là chính đại pháp lôi, đại pháp cổ có thể
giúp cho chúng sinh nhanh chóng nảy mầm. Linh Tiên Mật môn
này của tôi chính là pháp môn thực sư bao hàm Vô Lượng môn,
cho nên tu pháp này cũng xem như là tu Vô Lượng môn vậy.
Tôi nói rằng sau khi tu xong Linh Tiên Mật môn thì phúc đức trí
tuệ không ai có thể bì được, siêu phàm nhập thánh, lập tức đắc
được tương ứng thành Phật, tu trì của người tu lập tức vượt hơn
hẳn Thập địa, thân tâm và pháp giới cùng như nhau, đây là thắng
lợi tốt đẹp vô cùng.
184
Dưới đây là lá thư của đệ tử Kim Cương Cát Cử Ba gửi đến cầu
quy y:
Kính gửi Lư thượng sư:
Chào Ngài!. Trước tiên cám ơn Ngài trong thời gian qua ở trong
nước đã thường xuyên chỉ dạy con. Bây giờ Thượng sư đến Bắc
Mỹ Seattle để tu tập Mật pháp, đạt được thành tựu lớn, được Thích
Ca Mâu Ni Phật xoa đỉnh thụ ký, lại được Tạng Mật tổ sư Liên
Hoa Sinh đại sĩ quán đảnh, ngoài ra còn các vị Hoạt Phật như Đại
Bảo pháp vương, Đại Thiếc Độ Ba Nhân Ba Thiết… quán đảnh,
thật sự là thắng lợi to lớn vô cùng. Đặc biệt là được Thích Ca Mâu
Ni Phật thọ ký, theo như Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết
Nghi Kinh ghi chép thì cũng như: Lúc đó “Thích ca niêm hoa, Ca
Diệp vi tiếu” sau khi đã truyền tâm ấn, đã 5 lần 500 năm trở lại đây
thành tựu của Thượng Sư đạt thắng lợi cao nhất như thế là lần đầu
tiên. Liên Hoa Sinh đại sĩ cũng đích thân giáng hạ đàn thành quán
đảnh cho Thượng sư, ngoài Liên Sư Ngũ vị Phật Mẫu và chúng đệ
tử đương thời đắc được đai thành tựu ra, từ cổ chí kim chưa có
người thứ hai được làm lễ gia miện là “Hồng Quán Thắng Miện
Kim Cương Thượng Sư”. Trong sử sách Phật giáo và Phật giáo
Tây Tạng đều không thể tìm Thánh nhân có vinh dự to lớn này,
đây là một chuyện đại sự, đại thịnh sự trước đây chưa từng có
trong Mật giáo, có thể gọi là “đặc biệt trong đặc biệt”, “Thượng sư
trong Thượng sư”. Thân phận chúng ta là đệ tử Kim Cương nên
cảm tạ đại từ bi của ngã Phật đã giáng lâm một vị thượng sư vĩ đại
và hiền từ như thế, đại diện cho Phật đến dân gian, được xem như
là trời giáng chân Phật để truyền dạy mật pháp, tựa hồ như ứng hóa
của Phật Như Lai đang truyền đại pháp, đại chuyển pháp luân, phổ
độ chúng sinh toàn thế giới.
Ngày nay Thượng Sư với tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh,
phổ độ chúng sinh, cùng tinh thần xả thân vì nghĩa của Địa Tạng,
ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục, địa ngục nếu không sạch
không thề quyết không thành Phật, thật khiến người cảm phục,
thân là đệ tử Mật thừa như tôi đây thật hổ thẹn vô cùng. Từ trong u
mê được học Phật giáo cho đến nay nhưng vẫn ngu muội vô tri,
185
nay gặp được cơ duyên này ngoài tấm lòng thành kính quy y theo
Thượng sư xin cung kính đảnh lễ Nhị túc tôn. Ngã nguyện sau khi
Như Lai nhập Niết bàn thề độ hóa chúng sinh Mật sĩ, giúp cho
Phật pháp bất diệt, hộ trì Linh Tiên Chân Phật tông phát dương
quang đại, mãi trường tồn trong thế gian, mong Thượng sư từ bi
gia hộ.
Nam Vô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Ma ha Tát.
Nam Vô Tây Phương Đại Thánh A Di Đà Phật Ma ha Tát.
Nam Vô Phật Mẫu tiêu đề Đại Bồ Tát Ma ha Tát
Nam Vô đông phương dược sư Lưu Ly Vương Thất Phật như lai
Ma ha Tát.
Nam Vô đại bi thắng hải Quan Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát.
Nam Vô Hồng Quán Thánh Miện Liên Sinh Kim Cương A Xà Lê
Maha Tát
Nam Vô Thập phương pháp giới vô lượng tận Phật Bồ Tát Ma ha
Tát
Nam Vô Thập phương hộ pháp Long Thiên Thánh Chúng Ma ha
Tát
Cát Cử Ba Kim Cương đệ tử Lâm Lân Hoàng khấu đầu đảnh lễ.
Ngày 5 tháng 10 năm 1983
Bức thư này chỉ là một trong nhiều bức thư gửi của chúng đệ tử
Mật thừa gửi đến xin quy y. Linh Tiên Mật Thừa chính là vì một
đại nhân duyên nên mới xuất hiện ở thế gian này, đại nhân duyên
này là “khai Phật tri kiến”, mở rộng kiến thức của Phật pháp, tiêu
trừ đi tham sân si của chúng sinh, đạt được bản thể thanh tịnh, khôi
phục được quang minh diệu tánh thanh tịnh vốn có. “Khai Phật tri
kiến” của Linh Tiên Chân Phật tông chính là tất tri tất kiến của
Như Lai, chúng sinh nhập được vào tất tri tất kiến của Như Lai thì
sẽ đắc được đại trí tuệ của Như Lai.
Linh Tiên Mật Môn này kêu gọi người đời phải có lòng tin, có tin
tưởng mới có thể hiểu được, có hiểu được mới dựa vào pháp để tu
186
hành, tu hành sẽ rất nhanh tương ứng và khai ngộ, khai ngộ chính
là hiểu tất cả, thuận theo mọi cảnh giới như lai, có đủ tất cả Bồ Đề
pháp, giữ vững mọi trí tuệ, xa rời tất cả thế gian, tự đắc tất cả pháp
tính, tự tại như Phật.
Tôi muốn mọi người lĩnh hội bản như chân tâm của đại pháp
vương Thích Ca Mâu Ni Phật, bất kể là ngoại cầu hay nội chứng
đều là do tu trì thực tế để đắc được, nỗ lực để thân tâm tinh tiến,
phát Bồ Đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Linh Tiên
Mật thừa chúng ta quả địa đại Bồ tát, là chân đắc giả của Vô
Thượng Mật.
Tôi viết một bài kệ như sau:
Thập phương Trần Sát như lai giáo
Nhất nhất tận quy Linh Tiên Mật
Nhược năng thực tu đắc pháp
Đốn siêu Bồ Tát Thập giác địa
187
(Lư Thắng Ngạn Văn tập 049 – Linh Tiên Kim Cương đại
pháp)
37. Nhân duyên viết sách
Lúc tôi viết xong bản thảo “Linh Tiên Kim Cương Đại Pháp” thì
tôi đặt ở trên bàn học, lúc ngủ say giữa đêm thì bỗng nhiên tỉnh
dậy, mũi đột nhiên ngửi được một luồng hương hoa, hương hoa
này tràn ngập trong phòng ngủ tôi. Tôi nhìn về hướng phòng sách
thấy trong phòng sách có một luồng ánh sáng, ánh sáng chiếu ra
ngoài có màu vàng chói lọi, tôi liền thức dậy đi đến phòng sách. Ái
chà, cả phòng sách hương quang tràn ngập khắp nơi, số hương hoa
đó đến từ thế giới vô hình vô danh, chính là từ trên thượng giới bay
xuống đây. Còn ánh sáng thì sao? Tôi tận mắt nhìn thấy “Linh Tiên
Kim Cương Đại Pháp” do tôi viết đã biến thành từng chiếc lá vàng,
phát ra ánh hoàng kim lấp lánh. Lúc đó trong lòng tôi nhiều cảm
xúc đan xen, đây là điềm lành, đây là điềm lành của quyển sách,
sách của tôi viết đã phát ra ánh kim quang.
Thẳng thắn mà nói thì tôi chưa xuất gia thọ giới, chỉ thọ Bồ Tát
giới ở nhà, thích Tam Tạng Kinh Điển, 10 năm trước gặp được kỳ
duyên biết được tiền thế nhân quả nên bắt đầu tu pháp, nhận được
sự dẫn dắt của Đại Tôn trưởng, lại được Linh quang của Phật Bồ
Tát bảo hộ. Lúc tôi sinh ra, gia cảnh nghèo túng, thuở thiếu thời
khốn khó cực khổ, chí thanh niên chưa thể vươn lên đã phải chịu
đủ sự giày vò, thực sự không biết khi nào mới có những chuyện lạ
kỳ xuất hiện, cũng không biết cái gì gọi là thừa nguyện tái lai. Sau
đó nhận được sự chỉ dẫn của Linh Sư vô hình Tam Sơn Cửu Hầu
tiên sinh, tôi nhiều lần hỏi về đại chỉ của Phật pháp, người trả lời
rất đỗi tường tận, phân tích thấu đáo, Tiệm Đốn Viên giáo đều có
cả, đến lúc này đây tôi mới đại ngộ triệt để.
Sau khi có được sự thấu hiểu triệt để, tôi bèn bắt đầu viết Linh thư,
cũng thực hiện một lần pháp vụ cứu độ, mỗi lần trước khi viết sách
tôi đều cầu nguyện linh quang của chư Phật Bồ Tát bảo hộ, đã hình
thành nên trạng thái “cảm ứng đạo giao”. Một khi đặt bút xuống,
188
linh cảm liền tuôn trào như suối chảy, từ trước đến giờ không cần
phải sửa đổi lại câu cú, chỉ đặt bút xuống thì muôn vạn ngôn từ bao
la bát ngát. Theo sự chỉ thỉ của Phật Bồ Tát, hiện nay vào thời cuối,
Phật pháp suy thoái, một số đại Pháp sư, đại Tôn sư chỉ vì là danh
lợi mà bôn ba không nghỉ, giữ khăng khăng thiên kiến tông phái,
không biết hoằng dương Phật pháp, nối tiếp tuệ mệnh của Phật,
bên ngoài là Phật nhưng lại chưa đạt chính pháp. Đồng thời Tà
thuyết Tà giáo lại hưng thịnh, gây trở ngại cho huyền nghĩa của
Phật pháp, dị luận dị đoan xuất hiện vô số, cho nên có ngòi bút của
tác giả phê phán, từ đó phát dương chính nghĩa của Phật pháp, đây
là Phật Bồ Tát cho tôi “nhân duyên viết sách”, lấy khôi phục chính
pháp làm nhiệm vụ của bản thân.
Một điểm chân thật nhất là: “Hồng Quán Thánh Miện Kim Cương
Thượng Sư” tôi là một vị hành giả không thiên kiến bè phái, Cơ
Đốc cũng biết, Đạo cũng biết, Hiển giáo cũng biết, Mật giáo cũng
biết, Chính pháp cũng biết, Thiên pháp cũng biết. Đơn cử Mật giáo
thôi, tôi cũng đã học được pháp của Đường Mật, học được pháp
của Hồng giáo (Liên Hoa Sinh đại sĩ truyền thị), học được pháp
của Hoàng giáo (Thổ Đăng Đạt Cát Thượng Sư truyền thị), học
được pháp Bạch giáo (Đại Bảo Pháp Vương truyền thị), học được
pháp của Hoa giáo (Tát Ba Chứng Không thượng Sư truyền thị).
Còn về Ấn Độ giáo và Thiếc Khắc giáo thì vào khoảng thời gian
này tôi đang ở Mỹ, cũng có trực tiếp cùng với Tăng lữ Ấn Độ
nghiên cứu nên cũng biết được một ít.
Bản thân tôi tu pháp không ngưng nghỉ một ngày, tôi là một người
“kính sư, trọng pháp, thực tu”, tôi nghe nhiều, về phương diện
thông hiểu Phật lý, đã tham gia nghiên cứu pháp mạch của nhiều
môn phái. Về mặt thực tu: Tôi quyết tâm nỗ lực tinh tiến, không
chỉ nghe nhiều mà còn phải chú trọng tu pháp, không chỉ tập hợp
được những đại thành của mọi pháp mà còn chuyên tâm tu trì
những tư tưởng tinh hoa nhất của các pháp, có như thế Tam tu
“Đạo, Hiển, Mật” của Linh Tiên Chân Phật Tông ngày nay mới có
thể phù hợp với yêu cầu của thời đại.
189
Trong quá trình tu pháp, tôi lần lượt đạt rất nhiều ấn chứng, về lịch
trình sáng tác trong tương lai, tôi sẽ lần lượt viết ra rất nhiều rất
nhiều đại thiên cơ, vô số đại Mật pháp sẽ được lần lượt công khai
truyền thị. Tôi đã chứng minh bản thân đã đắc được sự hoan hỉ
“Nhập Tam Ma Địa”, được tự do tự tại, sau khi tôi qua đời sẽ
chứng minh được những sách tôi viết đều hoàn toàn phù hợp với
chân thực nghĩa của chư Phật.
Khi viết quyển “Linh Tiên Kim Cương Đại Pháp” này hương
quang tràn đầy phòng, đây chính là sự chứng minh lớn nhất duy
chỉ tôi đắc được diệu pháp, sau này sứ mệnh của Linh Tiên Chân
Phật Tông là gieo hạt giống Phật pháp khắp mọi nơi trên thế giới,
phàm là nơi có con người thì nơi đó sẽ có Phật pháp, sẽ phát dương
chư đại mật pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông, giúp cho mọi
người đều có thể đắc chứng.
Chúng ta phải giữ giới luật, giới luật cần giữ chính là “Ngũ giới
Thập thiện”. Bởi vì Ngũ giới Thập thiện này chính là căn bản làm
người, do bởi là người tu pháp lúc ban đầu nếu như không thủ giới
thì tâm sẽ không thể định, trí tuệ sẽ không sinh, cho nên Giới định
tuệ tam học là có liên quan với nhau, dùng giới có thể trị tham,
dùng định để trị sân, dùng tuệ để trị si. Có được Giới định tuệ mới
có thể tu pháp, đây là yêu cầu cơ bản duy nhất của Phật pháp, là
nền tảng cho tất cả.
Chúng ta phải “nghe nhiều”, nghe nhiều cần biết cách dung hoà
quán thông chứ không phải mâu thuẫn lẫn nhau, lợi ích của việc
nghe nhiều sẽ giúp chúng ta phân rõ thị phi, có thể nhận ra đâu là
thật, đâu là giả, thế nào là Phật, thế nào là ma, cái gì là chánh, cái
gì là tà. “Nghe nhiều” giúp chúng ta tránh được sự lừa gạt của
những “pháp sư giả hiệu”, không bị những “pháp sư giả kế truyền”
lừa gạt”, không chịu sự hạn chế của những kẻ môn phái “luôn tự
cho mình là chánh, kẻ khác là tà”. “Nghe nhiều nhưng luôn quán
thông” mới chính là người tự tại chân chính. Ngày nay những kẻ tu
hành giả mạo có rất nhiều, mọi người cần phải nhận biết cho rõ.
190
Mọi người chúng ta cần phải phát “Bồ Đề tâm”, đệ tử Linh Tiên
Chân Tông ai nấy cũng đều mong muốn trên cầu Phật đạo, dưới độ
hóa chúng sinh, biết rõ mục đích tu hành là để thoát khỏi sinh tử,
chứng nhập cảnh giới thành Phật bất sinh bất diệt, đây mới gọi là
“viên mãn”. Đây mới chính thực là người nhất đẳng, là đại sự lớn
nhất, lúc nào cũng cần phải tuyên thuyết những đạo lý này với
chúng sinh, để giúp chúng sinh phát khởi Bồ đề tâm, người nào
cũng có thể tu thành Phật. Đạt được như thế mới là đệ tử chân
chính, mới có tư cách gánh vác trọng trách lớn.
Chúng ta cần phải “thực tu”, tôi viết sách là muốn mọi người
“nghe nhiều”, nhưng sau khi “nghe nhiều” cũng cần phải trải qua
thực tế tu luyện, bản thân tôi rất chú trọng “thực tu”, không có
“thực tu” thì “nghe nhiều” cũng vô dụng, “thực tu” mới có thể có
đắc chứng, diệu pháp chân chính cần phải tu luyện tinh tiến đặc
biệt thì mới có được thành tựu, chứng đắc được quả, chứ không
phải là đến từ việc “nghe nhiều”, mà chỉ có “thực tu” mới chứng
đắc được mà thôi. Ngày nay tôi hôm nay chuyển đại pháp luân của
Linh Tiên Chân Phật Tông chính là muốn mọi người “thực tu”,
giúp cho mọi chúng sinh phản bổn quy chân, trở nguồn cội của bản
tính ban đầu.
Linh Tiên Kim Cương Pháp là pháp môn huyền diệu Nhất thừa,
bên trong có pháp vị vô cùng tận, phóng quang minh vô tận, bởi vì
pháp giới vô lượng đều có thể phổ chiếu, vì thế nên hương quang
mới tràn ngập phòng. Đây chính là mối nhân duyên mà tôi cứ liên
tục viết sách, là một đại cảm ứng kỳ lạ không thể nào lý giải được.
Tháng 1 năm 1984 Sheng YenLu ở Linh Tiên Các, Seattle, Hoa Kỳ.
(049 – Linh Tiên Kim Cương đại pháp)