k3pr1.files.wordpress.com€¦ · Web viewChỉ ra bản chất của vấn đề, Ông đưa ra...
Transcript of k3pr1.files.wordpress.com€¦ · Web viewChỉ ra bản chất của vấn đề, Ông đưa ra...
TỰ DO BÁO CHÍ
Các nhà báo trong hoạt động chuyên môn của mình luôn bị dằn vặt bởi các
vấn đề: Được tự do hoạt động như thế nào? Điều kiện của tự do báo chí là gì?
Danh giới và phạm vi của tự do hoạt động đến đâu? Yêu cầu của tự do hoạt động
như thế nào? Quyền hạn và trách nhiệm của mình được tự do đến mức nào? ...
Những nhà lý luận và tư tưởng của giai cấp tư sản đã làm tất cả những gì có
thể làm được để chứng minh rằng chỉ có dưới chế độ Tư bản mới đảm bảo đầy đủ
quyền tự do, trong đó có tự do báo chí cho mọi thành viên trong xã hội, còn dưới
chế độ XHCN thì quyền tự do của con người bị bóp ngẹt. Bởi vậy, họ gọi CNTB là
thế giới tự do, còn CNXH là thế giới cực quyền ...
V.I.Lê nin đã nhìn thấy trước rằng đằng sau vấn đề tự do báo chí là vấn đề
đấu tranh tư tưởng gay gắt. Năm 1919 Ông đã chỉ ra rằng: "Chủ nghĩa tư bản
chống lại chúng ta bằng ngọn cờ tự do". Chỉ ra bản chất của vấn đề, Ông đưa ra
khẳng định: "Mọi thứ tự do sẽ là lừa bịp nếu như nó chống lại việc gải phóng lao
động khỏi tư bản" .
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải thích một cách sâu sắc và toàn diện thuật ngữ
này xuất phát từ khái niệm cơ bản về bản chất của chính thuật ngữ tự do.
I. KHÁI NIỆM
1. Tự do hành vi, tự do hoạt động.
Thuật ngữ tự do là một phạm trù triết học được đại diện của các giai cấp, các
trào lưu, các trường phái triết học khác nhau giải thích theo các cách khác nhau (và
đương nhiên là theo quan điểm của mình và xuất phát từ lợi ích của mình). Suy
cho cùng thì lập trường của mọi trường phái khác nhau là ở chỗ giải thích khái
niệm tự do trong mối quan hệ với tất yếu khác nhau mà thôi.
- 1 -
- Các nhà duy tâm chủ quan cho rằng tự do là tự do ý chí của con người,
không bị ràng buộc bởi các yếu tố bên ngoài. Theo họ, chỉ có tự do hoàn toàn, tự
do vô điều kiện, muốn làm gì thì làm mới là cơ sở tuyệt đối của quyền con người.
Nếu theo quan điểm này thì các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc
dưới khẩu hiệu tự do mà ta thấy không hiếm lắm trong lịch sử, tự do gây tội ác, tự
do phân biệt chủng tộc ..., các nhà báo thì tự do vu cáo các đối thủ chính trị của
mình, tự do xâm phạm quyền con người ... là điều không khó hiểu lắm. Và hậu quả
của tự do như vậy cũng có nghĩa là tự do cho mình đồng nghĩa với việc xâm phạm
tự do của người khác, của các quốc gia khác. Mọi sự giải thích và bào chữa cho
các hiện tượng như trên một cách chủ quan, giai cấp hẹp hòi có nguyên nhân là do
không hiểu và không muốn hiểu tính hai mặt của thuật ngữ tự do: tự do cho mình
và tự do của phía đối lập.
Cội nguồn sai lầm của quan niệm này là ở chỗ "tự do" được giải thích độc
lập với "tất yếu", trong khi đó các cặp phạm trù như ngày - đêm, bản chất - hiện
tượng, nội dung - hình thức ... có mối quan hệ nội tại. Quan niệm duy tâm chủ
quan không có cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Các nhà duy tâm khách quan thì ngược lại, lại tuyệt đối hóa "tất yếu", phủ
nhận tự do ý chí của con người. Họ cho rằng mọi hành vi, hoạt động của con người
là do lực lượng siêu nhiên nào đó bên ngoài quyết định cho nên không tự do. Và
như vậy lại rơi vào thái cực khác: thuyết định mệnh.
- Các nhà duy vật giải thích thuật ngữ "tự do" trong mối quan hệ với "tất
yếu". Họ cho rằng có sự tồn tại khách quan của thế giới. Hoạt động của con người
diễn ra trong những điều kiện, môi trường cụ thể, trong đó gồm có môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội. Để đạt được tự do, con người phải nhận thức được
những quy luật của tự nhiên và hoạt động phù hợp với những quy luật đó.
Quan niệm duy vật cho rằng tự do là khả năng có thật. Và vì có thật nên con
người có khả năng giành được nó. Tuy nhiên không thể có tự do hoàn toàn, tự do
- 2 -
tuyệt đối, mà chỉ có tự do tương đối, tự do trong khuôn khổ của cái "tất yếu" mà
thôi. Mối quan hệ giữa "tự do" và "tất yếu" đã được Xpinôda đề cập.
Xpinôda Ba-rút (1632 - 1677) là nhà triết học duy vật và vô thần nổi tiếng
người Hà Lan, nhà tư tưởng của tầng lớp dân chủ của giai cấp tư sản. Thế giới
quan của ông hình thành vào thời kỳ quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh ở
Hà Lan - thời kỳ nhân dân Hà Lan chống lại Tây Ban Nha và các nước khác để bảo
vệ độc lập, thời kỳ giai cấp tư sản đấu tranh chống lại chế độ phong kiến. Phản ánh
những nguyện vọng của giai cấp tư sản đang lên, Xpinôda chủ trương tự do khoa
học và phát triển giáo dục. Ông cho rằng đó là phương thức để khắc phục mọi tai
nạn xã hội. Xpinôda không thừa nhận là có một đấng thượng đế tạo ra muôn vật,
ông cho rằng bản thân thế giới tự nhiên là thượng đế, như vậy là nhấn mạnh rằng
tự nhiên là nguyên nhân của bản thân nó, là nguyên nhân và thực chất của mọi sự
vật tồn tại.
Sau này Hê-ghen (nhà triết học duy tâm nổi tiếng người Đức) giải thích rằng
tự do là tất yếu được nhận thức. Ông chỉ trích: hiểu tự do là không có gì hạn chế,
"muốn viết gì thì viết" là đặc điểm của những đại biểu nông cạn, thô thiển và vô
học. Giải quyết vấn đề một cách biện chứng Hê-ghen chỉ ra rằng "thuật ngữ "tự
do" có tiền đề tất yếu của mình và chứa đựng cái tât yếu trong bản thân nó như
một sự loại bỏ".
- Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng giải thích: tự do là tất yếu được nhận thức.
Tất yếu là tổng thể những quy luật vận động và phát triển của tự nhiên và xã hội,
tạo thành cái phạm vi mà trong cái phạm vi ấy diễn ra hoạt động tự do. Bởi vậy tự
do ngự trị trong thế giới xung quanh của con người, và con người khác với các sinh
vật khác là ở chỗ hiểu biết được thế giới xung quanh và biết vận dụng những hiểu
biết ấy trong hoạt động một cách đúng đắn.
Như vậy, tự do hành vi, tự do hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào, trong đó
có hoạt động báo chí cũng được thể hiện trong việc đề ra mục tiêu và đấu tranh để
thực hiện mục tiêu ấy trên cơ sở lựa chọn có ý thức những phương pháp và cách
- 3 -
thức hoạt động một cách sáng tạo. Nhưng đấu tranh để thực hiện mục tiêu, con
người phải đối mặt với thực tiễn (tự nhiên và xã hội), và cái thực tiễn ấy lại vận
động theo những quy luật của riêng nó, không phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng
của con người (đây là tất yếu). Nếu như mục tiêu của hoạt động phù hợp với
những quy luật của tự nhiên và xã hội, phù hợp với tiến bộ xã hội thì hoạt động ấy
được tự do và con người có thể đạt được mục tiêu đề ra. Nếu con người cố tình
hoạt động trái với những quy luật ấy, đi ngược lại tiến bộ xã hội thì những hoạt
động như vậy sẽ không thể tự do, và do vậy mục tiêu đề ra cũng không thể thành
công được. Còn đấu tranh để thực hiện mục tiêu - có tự do hay không, tự do đến
mức nào, có thành công hay thành công đến mức nào lại phụ thuộc vào tri thức và
năng lực, vào khả năng của chính con người tham gia vào hoạt động ấy.
Tự do hành vi, tự do hoạt động như vậy có những điều kiện của nó:
Thứ nhất: Trình độ nhận thức những quy luật của tự nhiên và xã hội và hiểu
chúng là điều kiện và phạm vi của hoạt động. Bởi vậy, nâng cao tri thức và lựa
chọn những phương thức, kinh nghiệm ... vận dụng những tri thức đó trong hoạt
động thực tiễn quy định khả năng và mức độ tự do hoạt động của con người - như
Ph.Ăng-ghen khẳng định: "Mỗi bước tiến trên con đường văn hóa là một bước tiến
tới tự do".
Thứ hai: Sẽ không thể có tự do nếu thiếu năng lực, ước muốn và ý chí, nếu
không có khả năng sử dụng và vận dụng những tri thức, những hiểu biết đã tích lũy
được một cách linh hoạt và sáng tạo trong từng bước của hoạt động thực tiễn. Mức
độ tự do của hành vi, của hoạt động thể hiện ở trình độ thực hiện một cách sáng tạo
những nhiệm vụ của loại hình hoạt động, biết tìm con đường tối ưu để thực hiện
mục tiêu, thậm chí sử dụng cả những tri thức, những kinh nghiệm mà nhân loại
mới tích lũy được. "Những người tự do là những người trong khuôn khổ của cái tất
yếu tạo nên được những giá trị quý giá hơn đối với con người và đối với loài
người" (Ph.Ăng-ghen).
- 4 -
Thứ ba: Mức độ tự do của hành vi, của hoạt động bị quy định bởi lập trường
xã hội, bởi đặc điểm mục tiêu mà con người đặt ra cho mình. Hoạt động chỉ tự do
khi mục tiêu của hoạt động phù hợp với những quy luật của lịch sử, khi hoạt động
phù hợp với tiến bộ xã hội. Sẽ không tự do nếu như mục tiêu của hoạt động trái với
những quy luật, đi ngược lại tiến bộ xã hội.
2. Tự do báo chí
- Tự do báo chí là quan niệm về trạng thái của báo chí trong mối quan hệ với
các yếu tố quy định và chi phối báo chí. Theo nghĩa thông thường, tự do báo chí
được hiểu là thoát ly mọi sự ràng buộc, mọi sự hạn chế, mọi sự cấm đoán đối với
báo chí.
- Hoạt động báo chí là hoạt động của con người. Khi xã hội còn phân chia
thành các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội ..., còn tồn tại những lợi ích khác
nhau, thậm chí là đối kháng thì không thể có tự do báo chí hoàn toàn, tự do như
nhau cho mọi giai cấp, mọi lực lượng ... mà chỉ có thể có tự do báo chí cho giai
cấp, lực lượng ... này và hạn chế tự do đối với giai cấp, lực lượng ... khác, hoặc
mức độ tự do báo chí ở từng xã hội cụ thể, vào những giai đoạn cụ thể, cho từng
giai cấp, lực lượng ... cụ thể có thể ít, nhiều, rộng, hẹp ... khác nhau tùy thuộc vào
tình hình chính trị cụ thể và tương quan lực lượng của các giai cấp cụ thể mà thôi.
Bởi vậy, tự do báo chí và tự do hoạt động báo chí là thuật ngữ mang tính lịch sử.
- Theo ý nghĩa lịch sử - xã hội của vấn đề thì tự do báo chí và quyền tự do
hoạt động báo chí chỉ có thể có được khi hội tụ đủ những điều kiện của nó. Những
điều kiện đó cần xem xét từ cả 3 phương diện: lịch sử, pháp luật và kinh tế.
+ Phương diện lịch sử của tự do báo chí được thể hiện ở trình độ nhận thức
được tất yếu lịch sử, nhận thức được những quy luật vận động và phát triển của xã
hội, ở trình độ tiếp thu đầy đủ và sâu sắc, ở khả năng vận dụng một cách linh hoạt
và sáng tạo những tri thức, những hiểu biết ấy trong thực tiễn hoạt động báo chí
hàng ngày. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, tự do (dù ở mức độ nhiều
hay ít) thuộc về báo chí của giai cấp, lực lượng tiến bộ, các hoạt động báo chí phục - 5 -
vụ cho những mục tiêu đúng đắn (phù hợp với những quy luật, phù hợp với tiến bộ
xã hội). Báo chí của các giai cấp, lực lượng phản động, các hoạt động báo chí có
mục tiêu đi ngược lại những quy luật của lịch sử, đi ngược lại với tiến bộ xã hội,
phục vụ cho những lợi ích vụ lợi, ích kỷ, hẹp hòi - không tự do về phương diện lịch
sử.
+ Phương diện pháp luật của tự do báo chí: để bảo vệ và thực hiện quyền tự
do báo chí của mình (hoặc đảm bảo quyền tự do cho mình và hạn chế quyền tự do
của các lực lượng đối lập), quyền tự do báo chí được phản ánh trong các bộ luật.
Các Mác đã chỉ ra rằng: "Sự thừa nhận tự do về mặt pháp luật tồn tại trong Nhà
nước dưới dạng các bộ luật". Ở mỗi quốc gia các bộ luật đều quy định rõ phạm vi
luật pháp của báo chí và hoạt động báo chí.
+ Phương diện kinh tế của tự do báo chí: để thực hiện quyền tự do về
phương diện luật pháp của hoạt động báo chí cần phải có các phương tiện tài
chính, vật chất, kỹ thuật ..., cần phải có tự do kinh tế ở một trình độ nhất định, cần
sự tồn tại của khả năng kinh tế để thực hiện những quyền của con người, trong đó
có quyền tự do báo chí mà luật pháp thừa nhận và quy định.
Nếu như xét từ các điều kiện trên thì tự do báo chí không phải là thứ được
ban phát từ đâu đó, từ ai đó, mà tự do báo chí là mục tiêu phấn đấu của con
người nhằm giành cho mình quyền được thông tin, trao đổi, giao tiếp, quyền thể
hiện ý chí và nguyện vọng của mình một cách công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng mà không hề bị một sự chi phối, hạn chế nào.
Tự do báo chí là một bộ phận quan trọng của quyền con người, nhưng ở các
thể chế xã hội khác nhau, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau thì tự do báo chí
cũng được giải thích, được quan niệm, được thể chế hóa, được bảo vệ và thực hiện
theo các cách khác nhau.
II. VẤN ĐỀ TỰ DO BÁO CHÍ CỦA BÁO CHÍ TƯ SẢN
- 6 -
1. Giai đoạn cách mạng tư sản
- Về phương diện lịch sử: báo chí của giai cấp tư sản trong lòng chế độ
Phong kiến quân chủ là tiếng nói của giai cấp tiến bộ cho nên là báo chí tự do.
- Về phương diện luật pháp: dưới chế độ Phong kiến, giai cấp tư sản đại
diện cho lực lượng tiến bộ, do đó báo chí của họ tự do về phương diện lịch sử.
Giành được quyền tự do kinh tế, nhưng không giành được quyền tự do cần thiết về
phương diện luật pháp cho đến thắng lợi của cách mạng tư sản vì chế độ Phong
kiến, đẳng cấp quý tộc hạn chế quyền tự do truyền bá tư tưởng của giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản muốn ra báo để truyền bá tư tưởng của mình đã đưa ra khẩu hiệu
"Tự do báo chí", tức là khẩu hiệu đòi quyền tự do về phương diện luật pháp của
báo chí. Khẩu hiệu Tự do báo chí đã trực tiếp chống lại chế độ Phong kiến quân
chủ, giai cấp quý tộc, tăng lữ - lực lượng duy nhất được quyền tự do báo chí về
phương diện luật pháp thời bấy giờ.
Vấn đề "tự do báo chí" là cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng gay gắt.
Những nhà tư tưởng của giai cấp tư sản vào thế kỷ 17 - 18 đã đưa ra luận điểm đơn
giản: cần phải có tự do báo chí đối với tất cả.
+ Giôn Mintơn (1608 - 1674) là một nhà thơ, nhà chính luận người Anh, là
người đầu tiên đưa ra thuật ngữ tự do báo chí. Từ năm 1640 ông tham gia hoạt
động chính trị xã hội với tư cách là một nhà báo. (Từ năm 1640 đến năm 1646 ông
là một nhà báo nổi tiếng). Quan niệm của ông: cần phải có tự do báo chí cho tất cả,
"cần phải có thị trường tư tưởng tự do", và khi đó cái đúng sẽ thắng cái sai, cái
thiện sẽ thắng cái ác, chân lý (tư tưởng tư sản) sẽ thắng sự lừa dối (tư tưởng phong
kiến). Theo ông, sự thật bản thân nó có sức mạnh. "Hãy đặt nó vào cuộc đấu tranh
với sự lừa dối một cách tự do và công khai. Đó là phương thức tốt nhất và đúng
nhất để xóa bỏ sự lừa dối".
+ Rôbet Spie là một nhà cách mạng nổi tiếng người Pháp cũng đứng trên lập
trường này. Ông cũng cho rằng cần phải có tự do báo chí cho tất cả mọi người
không có sự phân biệt. Theo ông, tự do báo chí là "tự do đăng tải các ý kiến khác - 7 -
nhau trên báo chí". Ông cho rằng: "theo dõi các ý kiến, đánh giá sự đúng đắn và
sự tiến bộ của từng ý kiến, một người "có trí tuệ bình thường" cũng có thể phân
biệt được cái đúng và cái sai, cái thiện và cái ác, và tự họ sẽ lưạ chọn cái đúng,
cái thiện và loại bỏ cái sai, cái ác".
Đòi hỏi "Tự do báo chí" của giai cấp tư sản là hoàn toàn chính đáng khi giai
cấp tư sản còn đang là giai cấp tiên tiến, đi tiên phong trong phong trào cách mạng.
Khẩu hiệu "Tự do báo chí" đã có ý nghĩa to lớn trên toàn thế giới từ thời trung cổ
cho đến thế kỷ thứ 19 bởi vì nó phản ánh tính chất tiến bộ của giai cấp tư sản trong
cuộc đấu tranh chống lại chế độ Phong kiến và giới tăng lữ.
Như vậy, trong giai đoạn cách mạng tư sản, báo chí tư sản tự do về
phương diện lịch sử, nhưng không tự do về phương diện luật pháp cho nên giai
cấp tư sản đã đưa ra khẩu hiệu "Tự do báo chí" và đấu tranh đòi quyền "Tự do
báo chí".
Nhờ khẩu hiệu "Tự do báo chí" và do cuộc đấu tranh dành tự do, trong đó có
tự do báo chí, giai cấp tư sản đã truyền bá được tư tưởng, tập hợp được lực lượng
và đã giành được thắng lợi trong các cuộc cách mạng tư sản.
2. Giai đoạn thiết lập và củng cố chế độ Tư bản
Trong những điều kiện thực tế của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng, tầng
lớp phong kiến quý tộc không muốn và không thể dựa vào chân lý (vì không có lợi
cho họ), mà có tham vọng duy trì địa vị thống trị của mình bằng bất kỳ phương
tiện nào, kể cả lừa dối. Báo chí Phong kiến quân chủ trong lòng chế độ Tư bản do
vậy đã không còn tự do về phương diện lịch sử. Bởi vậy, ngay sau khi giành được
chính quyền Nhà nước tư sản đã hạn chế quyền tự do của báo chí phong kiến.
Trong bản "Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân" được thông qua
tại Hội đồng dân tộc Pháp năm 1789 - tự do báo chí được trình bày như là quyền tự
do bày tỏ, viết và đăng tải nhưng phải có trách nhiệm và không được lạm dụng
quyền tự do đó để vi phạm pháp luật. Rôbét Spie trong thời gian chuyên chính lập
hiến đã ký sắc lệnh đóng cửa hàng loạt các tờ báo của các lực lượng đối lập (Phong - 8 -
kiến). Đây là hành động đúng, phù hợp với nội dung tự do báo chí về phương diện
lịch sử - quan điểm tư tưởng của "Tự do báo chí": hạn chế về mặt luật pháp hoạt
động của các thế lực phản động vì nó đã trở nên không còn tự do về phương diện
lịch sử.
Khi đã loại bỏ được kẻ thù cũ là chế độ Phong kiến quân chủ và báo chí của
họ ra khỏi con đường của mình, và khi chưa xuất hiện kẻ thù mới là giai cấp vô
sản, Nhà nước tư sản đã thực hiện tư tưởng tự do báo chí đầy đủ về phương diện
luật pháp.
Dưới chế độ TBCN, bản chất của tự do báo chí được thể hiện qua các
phương diện:
- Về phương diện lịch sử: Khi giai cấp vô sản đã trở thành lực lượng tiên
tiến, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xây dựng một hình thái
kinh tế xã hội cao hơn phù hợp với quy luật vận động và phát triển của lịch sử thì
giai cấp tư sản không còn là giai cấp tiên phong, cách mạng trong cuộc đấu tranh
cho tiến bộ xã hội, mất đi quyền coi hoạt động của mình là tự do về phương diện
lịch sử (như trước đó). Kết quả của sự thay đổi vai trò và lập trường chính trị - xã
hội buộc giai cấp tư sản cùng với báo chí của họ phải vẽ lên bức tranh khách quan
của thực tiễn có lợi cho mình để đánh lạc hướng công chúng xã hội, nhất là những
vấn đề có liên quan đến cơ sở của lợi ích giai cấp.
- Về phương diện luật pháp: Để bảo vệ và củng cố địa vị thống trị của
mình, qua hệ thống luật pháp, giai cấp tư sản cùng với báo chí của họ phải chống
lại tất cả những ai và những gì phê phán lập trường của họ, dù đưa tin khách quan,
chân thật nhưng không có lợi cho họ. Lợi ích giai cấp hẹp hòi của giai cấp tư sản
phù hợp với quan điểm độc đoán đối với báo chí.
Dần dần cuộc đấu tranh trong nội bộ xã hội tư bản tăng lên cùng với sự xuất
hiện và phát triển của các mâu thuẫn đối kháng, Nhà nước tư bản thiết lập chế độ
kiểm duyệt đối với báo chí, thông qua những bộ luật quy định phạm vi của hoạt
động báo chí. Luật pháp của các Nhà nước tư bản nói chung đều quy định nghiêm - 9 -
cấm mọi biểu hiện chống lại chế độ hiện tồn. Tự do báo chí dưới chế độ TBCN bị
lu mờ trong khuôn khổ của luật pháp.
+ Ở Anh - Điều 1053, Chương 2 bộ luật về tội phạm chống Chính phủ và xã
hội coi tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với "mục đích làm mất tín
nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, Chính phủ, Hiến pháp, bất cứ Viện nào
hoặc hệ thống Tòa án"; "kích động sự bất bình hay sự công phẫn giữa các công dân
của Nữ hoàng"; "phát triển tình cảm hận thù giữa các giai cấp của các công dân
đó" - đều là đối tượng điều chỉnh của luật này.
+ Ở Mỹ - quốc gia được coi là thực hiện đầy đủ nhất khẩu hiệu "Tự do báo
chí", thì Tòa án tối cao sẽ truy tố khi báo chí vu khống, có lời lẽ thô bỉ, thóa mạ,
khi báo chí có "khuynh hướng có hại", "xúi bẩy" nguy hại cho thể chế dân tộc và
quốc gia.
Nguyên tắc luật pháp của nhiều nước tư bản cũng tương tự như vậy.
Ở các nước có nền dân chủ tư sản thường áp dụng chính sách của mình đối
với các phương tiện thông in đại chúng dưới dạng các học thuyết:
Thuyết "tự do phê phán": báo chí được tự do phê phán các nhà chính trị,
các nhà ngoại giao, các nhà tư tưởng, thậm chí cả những người đứng đầu Chính
phủ hoặc quốc gia. Đây thường là các cuộc luận chiến giữa các đảng phái, phe
nhóm chính trị ..., cuộc đấu tranh trong nội bộ giới cầm quyền ...
Thuyết "tự do nội bộ" - dành cho các nhà báo: tự do lựa chọn cơ quan báo
chí mình ưa thích để làm việc, tự do đưa tin và bày tỏ ý kiến bình luận nếu ký được
hợp đồng ... Nhưng chủ báo cũng tự do lựa chọn người để ký hợp đồng, và cũng có
quyền tự do cắt hợp đồng ...
Thuyết "tự do lựa chọn" - dành cho công chúng: tự do lựa chọn những tờ
báo, những chương trình mình yêu thích để nhận thông tin, tự do lựa chọn những
nhà báo tài ba để hâm mộ ... nhưng những sự lựa chọn như vậy cũng chỉ giới hạn
- 10 -
trong những phương tiện thông tin đại chúng của giai cấp tư sản, mặc dù có thể có
những định hướng khác ...
Đưa ra các học thuyết như vậy tựu chung lại chỉ nhằm minh chứng rằng chỉ
có dưới chế độ TBCN mới có đầy đủ tự do báo chí.
- Về phương diện kinh tế: Tự do báo chí dưới chế độ tư bản là tự do tư bản.
Quyền tự do ra báo, thành lập đài thực ra chỉ dành cho những người có tiền: tự do
mua bán báo, đài ...
Giáo sư William Peter Hamilton trên tờ "Tạp chí phố Wall" đã diễn tả lập
trường tự do xuất bản dưới chế độ TBCN như sau: "Một tờ báo là một xí nghiệp tư
không có nợ nần gì với công chúng, cũng không được hưởng đặc quyền gì của
công chúng. Bởi thế cho nên tờ báo không bị quyền lợi của công chúng chi phối.
Đúng hơn, đây là tài sản của chủ báo và một sản phẩm với những rủi ro tự mình
phải gánh chịu" (Bốn lý thuyết về báo chí; tr.51).
Thực tế đã chứng minh rằng không có một tờ báo nào, không có một chương
trình phát thanh hay truyền hình nào lại có quan điểm khác với ông chủ của nó. Sự
độc quyên về kinh tế tư bản tạo mọi điều kiện cho dư luận của giai cấp tư sản trở
thành cơ bản, chính yếu trong xã hội. Những sự khác biệt về quan điểm giữa các
đại biểu của báo chí tư sản - đó là sự phản ánh cuộc đấu tranh vì lợi ích của các
phe nhóm, tập đoàn tư bản nhằm củng cố chế độ tư bản. Tự do phê phán, về thực
chất là tự do sử dụng tư bản vào các mục đích riêng của mình. Giai cấp tư sản đã
biến báo chí thành các doanh nghiệp tư bản để phục vụ lợi ích vật chất và tinh thần
của mình.
Bản chất của tự do báo chí dưới chế độ TBCN:
Về phương diện lịch sử: không tự do về phương diện lịch sử.
Về phương diện luật pháp: chỉ tự do phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản.
Về phương diện kinh tế: tự do báo chí là tự do tư bản.
- 11 -
Sự tự do như vậy cũng không phải là tuyệt đối và đầy đủ.
III. VẤN ĐỀ TỰ DO BÁO CHÍ DƯỚI CHẾ ĐỘ XHCN
Vấn đề tự do báo chí đích thực và đầy đủ chỉ có thể được giải quyết sau
thắng lợi của cách mạng XHCN. Luật pháp của Nhà nước vô sản quy định con
người được quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí ... với mục đích là
để củng cố và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thực hiện quyền tự do chính trị đó, Nhà nước XHCN đảm bảo cho mọi công
dân và các tổ chức xã hội có quyền và có các điều kiện thực tế để nhận và phổ
biến thông tin, để sử dụng báo, tạp chí, phát thanh và truyền hình ...
Từ rất lâu trước thắng lợi của cách mạng XHCN, Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra
rằng chỉ có dưới chế độ XHCN "mới có thể nói đến quyền tự do đích thực của con
người, đến cuộc sống trong sự hài hòa với nhận thức những quy luật của tự
nhiên"; rằng "đó là bước nhảy vọt của loài người từ vương quốc của tất yếu sang
vương quốc của tự do".
V.I.Lê nin ngay từ năm 1905 đã đặt nền tảng cho quan điểm về tự do báo chí
dưới chế độ XHCN và cách thức để thực hiện vấn đề này trong bài "Tổ chức đảng
và văn học đảng". Ông đã xác định rõ: dưới chế độ XHCN, để có tự do báo chí
phải giải phóng báo chí khỏi những hạn chế để báo chí thể hiện đầy đủ nhất bản
chất lịch sử của thuật ngữ này: giải phóng báo chí khỏi những hạn chế của luật
pháp tư sản, khỏi chế độ kiểm duyệt của Nhà nước tư sản, khỏi sự thống trị về mặt
kinh tế của các ông chủ tư bản, khỏi những con người coi tự do là tự do chà đạp,
bóc lột người khác, khỏi tự do bán tài năng của nhà báo cho các ông chủ tư bản.
Giải phóng báo chí khỏi những hạn chế đó mở ra con đường thực hiện đầy đủ và
trực tiếp bản chất của tự do báo chí.
Nghiên cứu tư tưởng tự do tuyệt đối, V.I.Lênin cho rằng khi xã hội còn phân
chia ra thành các giai cấp, các lực lượng đối lập, còn tồn tại những lợi ích đối
- 12 -
kháng thì không thể có tự do cho tất cả, mà tự do đích thực chỉ có thể đối với loại
báo chí mà mục tiêu của nó phù hợp với những quy luật vận động và phát triển của
xã hội, với tiến bộ xã hội, loại báo chí đấu tranh cho một chế độ xã hội mới tiến bộ
hơn, và luật pháp phải đảm bảo quyền tự do và những điều kiện thực tế để thực
hiện quyền tự do cho loại báo chí ấy. Loại báo chí ấy chỉ có thể là báo chí của giai
cấp vô sản, báo chí cách mạng.
Vấn đề tự do báo chí và tự do hoạt động báo chí dưới chế độ XHCN để trở
thành đích thực đòi hỏi phải giải quyết triệt để cả 3 phương diện: lịch sử, luật pháp
và kinh tế của tự do báo chí, những điều mà chế độ TBCN không muốn và không
có khả năng giải quyết:
- Về phương diện lịch sử: xây dựng một chế độ xã hội tiến bộ, phù hợp với
những quy luật vận động và phát triển của lịch sử, đảm bảo cho báo chí thực sự tự
do trong việc thực hiện sứ mệnh lich sử của mình. (Đảm bảo cho báo chí luôn tự
do về phương diện lịch sử).
- Về phương diện luật pháp: hệ thống luật pháp phải đảm bảo quyền và
những điều kiện thực tế cho tất cả mọi thành viên của xã hội để thực hiện toàn bộ
những hành vi, hoạt động (trong đó có hoạt động báo chí) tự do về phương diện
lịch sử.
- Về phương diện kinh tế: để giải phóng báo chí khỏi những áp lực kinh tế,
phải chuyển báo chí thành tài sản của Nhà nước, của toàn dân do các tổ chức
Đảng, Nhà nước, các tổ chức và đoàn thể, hiệp hội ... xã hội quản lý.
Để giải quyết một cách cơ bản và triệt để vấn đề tự do báo chí đòi hỏi Nhà
nước XHCN phải giải quyết một loạt những vấn đề của lý luận và thực tiễn:
1. Quan hệ với báo chí của chế độ cũ sau thắng lợi của cách mạng XHCN:
- Đối với báo chí phản động:
- Đối với báo chí tiến bộ:
- 13 -
2. Dưới chế độ XHCN đa đảng hoạt động trong phạm vi mặt trận: Thừa
nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng sản theo định hướng XHCN - tự do ra báo và tự
do hoạt động báo chí trong khuôn khổ của Pháp luật. Mức độ tự do hoạt động phụ
thuộc vào trình độ quán triệt và vận dụng những quy luật vận động và phát triển
của xã hội trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội.
3. Vấn đề tự do hoạt động báo chí trong lĩnh vực trao đổi thông tin và hợp
tác trong các lĩnh vực của hoạt động báo chí với các nước có chế độ chính trị - xã
hội khác nhau: thông tin qua báo chí đóng vai trò quan trọng hàng đầu để hiểu biết
lẫn nhau: hiểu biết về quan điểm trước các vấn đề khác nhau của đời sống chính trị
quốc tế, hiểu biết về văn hóa, lối sống ... Sự hiểu biết lẫn nhau là điều kiện không
thể thiếu được của sự hợp tác. (Điều đã trở thành nhu cầu bức xúc trong xu thế mở
cửa và hội nhập quốc tế hiện nay). Bởi vậy, việc trao đổi thông tin giữa các nước là
cần thiết và quan trọng. Sự trao đổi và hợp tác như vậy có thể dưới nhiều hình
thức: trao đổi thông tin; trao đổi báo, tạp chí, các chương trình phát thanh và truyền
hình ...; sử dụng thông tin của nhau; hợp tác xây dựng các chương trình chung, mở
cầu truyền hình, giao lưu trực tuyến ...; gặp gỡ và trao đổi nghiệp vụ; bồi dưỡng và
đào tạo cán bộ chuyên môn ...
4. Vấn đề tự do hoạt động báo chí dưới chế độ XHCN.
Dưới chế độ XHCN tự do hoạt động báo chí được pháp luật thừa nhận và tạo
điều kiện. Nhà báo được tự do nhận và phổ biến thông tin nhằm định hướng cho
nhân dân trong hoạt động thực tiễn. Tự do hoạt động báo chí là tự do thực hiện
những chức năng, nhiệm vụ của báo chí, tự do vận dụng những nguyên tắc, những
quy luật của hoạt động sáng tạo để phụng sự cho tiến bộ xã hội. Tự do hoạt động
báo chí là tự do phản ánh thực tế cuộc sống để tác động một cách tích cực và có
hiệu quả tới toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của thực tiễn.
Tự do hoạt động của nhà báo - đó là tự do một cách tự nguyện và có ý thức
để cống hiến tài năng, sức lực cho sự nghiệp báo chí. Tự do hoạt động của nhà báo
không phải là tự do tùy tiện trong việc đặt ra mục tiêu và thực hiện những mục tiêu
- 14 -
ấy bằng các quyết định chủ quan. Tự do hoạt động của nhà báo phải dựa trên cơ sở
vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm. (Nhất là những tri thức và kinh
nghiệm đã trở thành truyền thống). Mức độ tự do hoạt động của nhà báo được thể
hiện ở kết quả hoạt động. Kết quả hoạt động về mặt khách quan: nhà báo phản ánh
các sự kiện, hiện tượng ... của thực tế sâu sắc, toàn diện và đúng đắn đến mức nào,
về mặt chủ quan: kết quả hoạt động phản ánh tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, trình
độ chuyên môn ... của nhà báo.
Để trở thành nhà báo tự do dưới chế độ XHCN đòi hỏi nhà báo trước hết
phải thừa nhận những trách nhiệm nặng nề của báo chí, của nhà báo trước xã hội.
Nhà báo phải có trách nhiệm với xã hội. (Mà xã hội lại là Đảng, Nhà nước, là nhân
dân ...), họ trao quyền và tạo mọi điều kiện để nhà báo được tự do hoạt động,
nhưng cũng đòi hỏi nhà báo phải có trách nhiệm khi sử dụng những quyền tự do
ấy. Nhà báo phải có trách nhiệm với bản thân. Cá nhân nhà báo phải chịu trách
nhiệm về uy tín, danh dự và lòng tự trọng nghề nghiệp của mình trước cơ quan báo
chí, trước các tổ chức xã hội ... mà mình là một thành viên, trước công chúng xã
hội mà vì thỏa mãn nhu cầu thông tin của họ mà nhà báo tự do hoạt động ... Những
trách nhiệm ấy được phản ánh cả trong trách nhiệm chinh trị, trách nhiệm pháp lý
và trách nhiệm nghề nghiệp (đạo đức nghề nghiệp).
Nhưng giải quyết các vấn đề trên như thế nào lại phụ thuộc vào nhận thức,
năng lực, những điều kiện và hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội ... của
mỗi quốc gia, dân tộc, của mỗi cơ quan báo chí, của từng nhà báo trong từng giai
đoạn phát triển của lịch sử.
IV. VẤN ĐỀ TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
1. Thời kỳ trước cách mạng Tháng tám: nước ta chia làm 3 kỳ với các chế
độ chính trị khác nhau, nhưng có thể khái quát phân ra các giai đoạn sau:
- 15 -
- Giai đoạn đầu: từ khởi thủy (4/1865 với tờ Gia Định Báo) đến năm 1927,
báo chí Việt nam hoạt động theo quy chế của luật báo chí 1881 và 1888 của Pháp.
Điều kiện ra báo rất đơn giản: người có quốc tịch Pháp (và càng dễ nếu làm chung
với người Pháp - chỉ sau 24 giờ là có phép). Sau này, khi tờ Phan Yên Báo (ra đời
năm 1868) đăng bài có tính chất chống đối nhà cầm quyền thực dân nên bị thu hồi
giấy phép, và chính quyền còn ban hành Sắc lệnh ngày 30/12/1898 quy định mọi
tờ báo (trừ báo tiếng Pháp) đều phải có giấy phép do người Pháp đứng tên.
- Giai đoạn 2: mở đầu bằng bộ Luật báo chí năm 1927. Phong trào yêu nước
và dân chủ lên cao vào những năm 1925 - 1926; báo chí phát triển mạnh ở Bắc kỳ.
Bộ luật này với nhiều điều khoản quy định khá chi tiết: Bắc và Trung kỳ muốn ra
báo phải có Quyết định của Phủ Toàn quyền, riêng Trung kỳ còn phải được sự
đồng ý của Triều đình. Trong bộ luật này lần đầu tiên quy định rất khắt khe và chi
tiết việc kiểm duyệt nội dung báo chí xuất bản, đặc biệt là đối với những tư tưởng
tiến bộ và cách mạng. Chế độ thưởng phạt đối với báo chí cũng rất ngặt nghèo:
phạt tiền, bồi thường, ngồi tù ... (Tờ "Le Nhà Quê" của Nguyễn Khánh Toàn ra tại
Sài gòn chỉ xuất bản được 1 số ngày 11/12/1926 thì bị đình bản và thu giấy phép.
Chủ nhiệm Nguyễn Khánh Toàn, Giám đốc Nguyễn Văn Chất, Quản lý Phạm Văn
Duyệt bị bắt) ...
Do thắng lợi của mặt trận Bình dân Pháp, ngày 1/1/1935 Toàn quyền Pháp
ký Sắc lệnh hủy bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, công nhận tính hợp pháp của người
Việt nam khi xin phép ra báo. Nhưng vin cớ điều kiện chiến tranh, ngày 26/9/1939
Chính phủ Pháp ban bố sắc lệnh đặt Đảng cộng sản và những đảng phái chính trị
theo xu hướng cộng sản ra ngoài vòng pháp luật; lập lại chế độ kiểm duyệt, thậm
chí còn kiểm duyệt khắt khe hơn trước cả đối với báo chí tiếng Việt, cả đối với báo
chí tiếng Pháp. Sắc lệnh này cũng quy định xử phạt nặng những vi phạm; quy định
ngặt ngèo đối với những điều kiện ra báo, đóng cửa, thu giấy phép ...
2. Sau cách mạng Tháng Tám
- 16 -
- Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra
đời. Mặc dù phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, Chính Phủ không những
không tìm cách xiết chặt báo chí, mà ngược lại còn ban hành các văn bản mở rộng
quyền tự do dân chủ của báo chí, kể cả báo chí của các phe phái chính trị đối lập.
Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh về việc duy trì tạm thời các
luật lệ hiện hành nhưng nêu rõ: "Những điều khoản trong các luật cũ được tạm
thời giữ lại do Sắc lệnh này, chỉ thi hành khi nó không trái với nguyên tắc độc lập
của nước Việt nam và Chính phủ dân chủ cộng hòa".
- Năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Ngày 14/12/1956, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 282-SL, sau đó khi Quốc hội thông qua trở thành
Luật số 100/SL-L-02 ngày 20/5/1957 quy định đảm bảo quyền tự do ngôn luận của
nhân dân trên báo chí và ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền ấy để làm phương hại
đến công cuộc đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước
nhà. Sắc lệnh cũng quy định tất cả báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận,
không phải kiểm duyệt trước khi in.
- Trong khi đó ở miền Nam, sau khi hất cẳng Bảo Đại, Ngô Đình Diệm lên
làm Tổng thống. Ngày 19/12/1956 Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh
23/TTP hủy bỏ chế độ kiểm duyệt đối với báo chí. Thực chất của Sắc lệnh này chỉ
đưa ra các điều khoản chung chung, mơ hồ để dễ buộc tội. Trên thực tế, chính
quyền đã sử dụng mọi biện pháp để o ép báo chí, kể cả những biện pháp kinh tế
hay những biện pháp côn đồ, khủng bố, nhất là đối với báo chí đối lập. Sau khi lật
đổ Ngô Đình Diệm, tình hình chính trường rối ren, ngày 7/6/1964 Nguyễn Khánh
ký Sắc lệnh 18/64 quy định các biện pháp đối với báo chí trong tình trạng khẩn
cấp: thi hành biện pháp kiểm duyệt cấm tàng trữ và lưu hành các ấn phẩm ... có hại
cho nền an ninh công cộng. Biến cố Mậu Thân (1968) - chính quyền ban bố tình
trạng khẩn cấp và thiết lập lại chế độ kiểm duyệt. Ngày 30/12/1969 ban hành Quy
chế báo chí mới, nhưng đến ngày 4/8/1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại ban
hành Sắc lệnh số 007 sửa đổi một số điều của Quy chế báo chí như: nâng mức ký
- 17 -
quỹ của một số tờ báo lên 20 triệu đồng; đóng cửa những tờ báo vi phạm an ninh
quốc gia đến lần thứ 2; các vụ vi phạm của báo chí sẽ do Tòa án mặt trận xét xử ...
- Tháng 4/1975 chế độ Việt nam cộng hòa sụp đổ. Năm 1976 thống nhất đất
nước. Báo chí cả nước hoạt động theo Luật số 100/SL-L-02.
- Ngày 28/12/1989 Quốc hội thông qua Luật Báo Chí và ngày 2/1/1990 Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo Chí nước CH XHCN Việt nam,
thay thế Luật Báo Chí năm 1957 vừa trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc đúng
đắn của Luật Báo Chí năm 1957, vừa bổ sung và hoàn thiện một bước luật pháp
của nhà nước ta về báo chí.
- Ngày 12/6/1999 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Báo Chí năm 1989 nhằm hoàn thiện một bước Luật Báo Chí cho phù hợp với
những yêu cầu của thực tiễn công cuộc đổi mới.
Cùng với việc từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp, các văn bản dưới
luật cũng được ban hành để hướng dẫn tổ chức thực hiện nhằm đưa Luật Báo Chí
vào cuộc sống. Như vậy, những điều kiện cho tự do báo chí từng bước được xác
lập và ngày càng hoàn thiện.
- 18 -