30 NGÀY THIỀN THẤ - viengiac.de · Bu ổi tối mặc dù ... rằng, chư tăng tu hành...

73
30 NGÀY THIN THT BÊN TRONG VN PHT THÁNH THÀNH. Hnh Nguyn Tôi đã từng nghe vmt Vn Phật Thánh Thành cách đây vài mươi năm về trước, khi tthi ngài Tuyên Hóa còn sống trước năm 95 nhưng quả thật tôi chưa đủ duyên để din kiến ngài và tu học dưới mái chùa ngài. Nay ngài đã mất thì cũng là lúc tôi có đủ cơ duyên để đến, đến để thy và cm nhận được một đời sng tu hành chân thật, đúng nghĩa, một đời sng xly tt cđể cu gii thoát, cứu độ chúng sanh. Đạo vn không xa, nhưng vi người không có đủ duyên để hiu và để thy thì sphi loanh quanh tìm đạo. Khi chưa xuất gia tu hành là đã đi quanh tìm đạo, khi xut gia rồi đạo y vn tiếp tc cu tìm, sáng ti tối sáng tháng năm tìm cầu vẫn chưa ra. Phải chăng đời xut gia phi là đời của người đi tìm đạo, bên ngoài tha phương cầu hc, tham vn các bc Thin tri thc, bên trong hng luôn khao khát kiến tánh, giác ngbổn tâm. Khi tâm chưa sáng, trí tuệ chưa tỏ, tham sân si còn dày đặc thì người xut gia không thtmãn, tan với đời sng tu hành thường nht, vi chùa to Pht ln, với tín chúng đông đảo hoc vi lch Pht sdày đặc bn rn sut năm. Cho đến khi tâm khai m, lại cũng phải tri qua thi gian dài dng công, tu hành miên mt thì mi có thtti trong tsanh. Người xưa thì tu đạo, hành đạo như vậy nên Pht pháp được truyền lưu hưng thnh, nhiều người chứng đắc. Còn ngày nay tiếc thay thi mt pháp, thi thế, nhân tâm con người bđảo ngược, nên dù đạo vn là vy, rt gn và thanh tnh nhưng lòng người lại tham lam, đắm nhim nên li thy rất xa, dù đạo rt dnhưng tâm trí con người li tán lon, bt tín nên rt khó, bi vy chúng ta dù suốt đời vào đạo, hc và hành đạo mà vẫn chưa thy mt ánh sáng thnhp. Được anh tôi là đệ tca ngài Tuyên Hóa gii thiu, tôi quyết định ngay cho việc đăng ký tham dkhóa tu Pht tht và Thin Tht ti Vn Pht Thánh Thành vào tháng 12 va qua, mỗi năm chỉ tchc mt ln. Sau vài ngày nghngơi tại nhà người anh (ti San Jose, bang Cali, Mquc) cho quen thời gian thay đổi tÂu sang Mỹ, tôi được đưa đến Vn Pht Thành vào ngày 19/12/2014, và sau khi đăng ký ghi danh xong, tôi được vTăng tri khách đưa vào khu vực Tăng phòng nơi chư Tăng thường trú. Đó là một căn phòng nhỏ, khong 8m2 trong mt dãy hành lang trên 30 phòng mti. Vn Pht Thánh Thành nguyên là mt bnh viện vĩ đại với hơn 70 tòa nhà rng ln khác nhau trên khu đất 500 mu Tây (4000m2/1 acre). Bnh vin này có lđược xây dng trên ctrăm năm nay, từng là nơi làm việc của trên 6000 người nhân viên và bệnh nhân. Nhưng trong thp niên 80 do hn hán nhiều năm tại Cali nên bnh viện này không còn nước và cui cùng chính phphi bán bnh vin này, qua tay một thương gia và cuối cùng đến tay Hòa thượng Tuyên Hóa mua được vi một giá tượng trưng. Có chng kiến tn mt tôi mi thy được svĩ đại của cơ sở này, vy mà smu nhim và thn knào như sắp đặt, để ngài cui cùng shữu được cơ sở này. Sau khi mua xong ngài đến chđiểm nơi đào giếng và lp tc có nước phun lên, dùng mãi cho đến ngài nay. Căn phòng nơi chư Tăng ở có vhơi giống khu vc cách ly giành cho bnh nhân tâm thn thì phi, vì bi phòng c nhnhư nhà tù, vi các bức tường bê-tông dày cfeet, kiên clnh lùng âm cha tt chơi lạnh ca khí trời mùa đông vào trong, nên vừa bước vào nghli trong phòng, tôi đã cảm thy run lên bn bt, dù rằng tôi cũng là người quen chu lạnh vì đã nhiều năm sống nước Bc âu. Bui ti mặc dù đã mặc 4 cái áo và đắp 3 cái chăn bên ngoài, cũng như đội chiếc mũ len trùm cả hai tai, tôi vn thy lnh run cngười.

Transcript of 30 NGÀY THIỀN THẤ - viengiac.de · Bu ổi tối mặc dù ... rằng, chư tăng tu hành...

30 NGÀY THIỀN THẤT

BÊN TRONG VẠN PHẬT THÁNH THÀNH.

Hạnh Nguyện

Tôi đã từng nghe về một Vạn Phật Thánh Thành cách đây vài mươi năm về trước, khi từ thời

ngài Tuyên Hóa còn sống trước năm 95 nhưng quả thật tôi chưa đủ duyên để diện kiến ngài

và tu học dưới mái chùa ngài. Nay ngài đã mất thì cũng là lúc tôi có đủ cơ duyên để đến, đến

để thấy và cảm nhận được một đời sống tu hành chân thật, đúng nghĩa, một đời sống xả ly tất

cả để cầu giải thoát, cứu độ chúng sanh.

Đạo vốn không ở xa, nhưng với người không có đủ duyên để hiểu và để thấy thì sẽ phải loanh

quanh tìm đạo. Khi chưa xuất gia tu hành là đã đi quanh tìm đạo, khi xuất gia rồi đạo ấy vẫn

tiếp tục cầu tìm, sáng tối tối sáng tháng năm tìm cầu vẫn chưa ra. Phải chăng đời xuất gia

phải là đời của người đi tìm đạo, bên ngoài tha phương cầu học, tham vấn các bậc Thiện tri

thức, bên trong hằng luôn khao khát kiến tánh, giác ngộ bổn tâm. Khi tâm chưa sáng, trí tuệ

chưa tỏ, tham sân si còn dày đặc thì người xuất gia không thể tự mãn, tự an với đời sống tu

hành thường nhật, với chùa to Phật lớn, với tín chúng đông đảo hoặc với lịch Phật sự dày

đặc bận rộn suốt năm.

Cho đến khi tâm khai mở, lại cũng phải trải qua thời gian dài dụng công, tu hành miên mật

thì mới có thể tự tại trong tử sanh. Người xưa thì tu đạo, hành đạo như vậy nên Phật pháp

được truyền lưu hưng thịnh, nhiều người chứng đắc. Còn ngày nay tiếc thay thời mạt pháp,

thời thế, nhân tâm con người bị đảo ngược, nên dù đạo vẫn là vậy, rất gần và thanh tịnh

nhưng lòng người lại tham lam, đắm nhiễm nên lại thấy rất xa, dù đạo rất dễ nhưng tâm trí

con người lại tán loạn, bất tín nên rất khó, bởi vậy chúng ta dù suốt đời vào đạo, học và hành

đạo mà vẫn chưa thấy một ánh sáng thể nhập.

Được anh tôi là đệ tử của ngài Tuyên Hóa giới thiệu, tôi quyết định ngay cho việc đăng ký

tham dự khóa tu Phật thất và Thiền Thất tại Vạn Phật Thánh Thành vào tháng 12 vừa qua,

mỗi năm chỉ tổ chức một lần. Sau vài ngày nghỉ ngơi tại nhà người anh (tại San Jose, bang

Cali, Mỹ quốc) cho quen thời gian thay đổi từ Âu sang Mỹ, tôi được đưa đến Vạn Phật Thành

vào ngày 19/12/2014, và sau khi đăng ký ghi danh xong, tôi được vị Tăng tri khách đưa vào

khu vực Tăng phòng nơi chư Tăng thường trú. Đó là một căn phòng nhỏ, khoảng 8m2 trong

một dãy hành lang trên 30 phòng mờ tối.

Vạn Phật Thánh Thành nguyên là một bệnh viện vĩ đại với hơn 70 tòa nhà rộng lớn khác

nhau trên khu đất 500 mẫu Tây (4000m2/1 acre). Bệnh viện này có lẽ được xây dựng trên cả

trăm năm nay, từng là nơi làm việc của trên 6000 người nhân viên và bệnh nhân. Nhưng

trong thập niên 80 do hạn hán nhiều năm tại Cali nên bệnh viện này không còn nước và cuối

cùng chính phủ phải bán bệnh viện này, qua tay một thương gia và cuối cùng đến tay Hòa

thượng Tuyên Hóa mua được với một giá tượng trưng. Có chứng kiến tận mắt tôi mới thấy

được sự vĩ đại của cơ sở này, vậy mà sự mầu nhiệm và thần kỳ nào như sắp đặt, để ngài cuối

cùng sở hữu được cơ sở này. Sau khi mua xong ngài đến chỉ điểm nơi đào giếng và lập tức có

nước phun lên, dùng mãi cho đến ngài nay.

Căn phòng nơi chư Tăng ở có vẻ hơi giống khu vực cách ly giành cho bệnh nhân tâm thần thì

phải, vì bởi phòng ốc nhỏ như nhà tù, với các bức tường bê-tông dày cả feet, kiên cố lạnh

lùng âm chứa tất cả hơi lạnh của khí trời mùa đông vào trong, nên vừa bước vào nghỉ lại

trong phòng, tôi đã cảm thấy run lên bần bật, dù rằng tôi cũng là người quen chịu lạnh vì đã

nhiều năm sống ở nước Bắc âu. Buổi tối mặc dù đã mặc 4 cái áo và đắp 3 cái chăn bên

ngoài, cũng như đội chiếc mũ len trùm cả hai tai, tôi vẫn thấy lạnh run cả người.

Bên ngoài cửa là một chiếc ngăn đựng thư và giấy tờ. Ở đây chư Tăng với nhau rất ít nói

chuyện và làm phiền nhau vì nội quy Tòng lâm là như vậy; cần việc gì họ viết vào giấy, bỏ

vào ngăn thư ấy và người kia cũng viết giấy trả lời, bỏ lại vào đó hoặc đưa thẳng cho người

ấy. Như vậy đời sống tu hành hàng ngày của mỗi người gần như sống tách biệt và tịnh khẩu.

Từ nơi phòng tôi ở nếu phải đi vệ sinh thì phải đi xuyên qua những dãy hàng lang vắng vẻ,

âm u đến rợn người, tôi tự nhủ thầm, phải chấp nhận, bởi vì bao nhiêu người ở được thì mình

ở được. Câu thần chú đó làm tôi mạnh mẽ hẳn lên, an nhiên chịu đựng suốt thời gian dài khổ

nhọc của khóa tu.

Vạn Phật Thánh Thành quả thật không hổ danh là một Đại Tòng Lâm, một nơi đào tạo Tăng

tài đúng nghĩa với thanh quy nghiêm ngặt, đời sống tu hành tối đơn giản, thanh tịnh. Nơi đây

chư Tăng vào sống ở đây không được giữ tiền, những người mới xuất gia chưa thọ Tỳ kheo

thì không được dùng điện thoại và máy tính trừ chư Tăng sống 5 năm trở lên. Đời sống tu

hành như vậy quả thật thanh tịnh trang nghiêm và giới phẩm trong sạch mà tôi chưa từng

thấy nơi nào trên thế giới có được. Thế nên sau mấy tuần ở đây tôi phải buộc miệng khen

rằng, chư tăng tu hành nơi này thật là giới hạnh trong sạch như băng tuyết.

Trong bản nội quy mà khách Tăng/Ni phải tuân theo khi đến viếng Vạn Phật Thánh Thánh

gồm có 10 điều tóm tắt như sau:

1) Phải được phép của giới sư khi đến ở lại VPTT.

2) Phải có giấy giới thiệu của ngôi chùa mình ở.

3) Luôn mặt áo giới khi ra ngoài.

4) Một ngày ăn một bữa.

5) Tuân theo lịch trình tu tập hàng ngày cùng đại chúng. Không vắng mặt nếu không có

lý do hợp lý.

6) Không đi lang thang ra ngoài khuôn viên của VPTT.

7) Không nên tụ họp hoặc đi đến phòng người khác để tham gia nói chuyện không cần

thiết.

8) Tuân theo 6 đại tông chỉ của VPTT. Không nên lợi dụng, đặc biệt là không tìm cách

để nhận cúng dường từ quý Phật tử tại gia.

9) Tôn trọng các quy củ. Xin lưu ý rằng các cá nhân không tuân theo các nội quy của

VPTT có thể được yêu cầu rời khỏi.

10) Bất kỳ khách Tăng/Ni nào muốn đến thăm VPTT nên điền đơn xin phép trước khi

đến. Trong đơn ghi rõ tu viện xuất xứ và chỉ có thể đến VPTT sau khi đơn được chấp

thuận. Lưu ý rằng sau khi đến VPTT, chùa sẽ quan sát quý vị trong 3 ngày.

Vạn Phật Thánh Thành có nhiều còn đường nhựa dọc ngang nối nhau như là một khu phố

nhỏ, và các con đường trong Đại tòng lâm này đều mang các tên trong Phật giáo như:

Đường Trí tuệ, đường Từ bi, đường Tinh tấn, đường nhẫn nhục, đường bố thí.v.v… Trên các

bãi cỏ tôi cũng thấy một vài đàn nai thong dong qua lại, hoặc rất nhiều bầy chim Công với

bộ lông cánh tuyệt đẹp ung dung gặm mổ thức ăn mà chẳng sợ con người. Không hiểu có

phải do từ trường thanh tịnh tu hành của chư tăng mà chiêu cảm ngay cả các loài vật hoang

dã đến đây cùng sống, cùng khoe sắc khoe thân trước mọi người. Thật là cảnh giới an bình,

thần tiên như một cõi tịnh độ.

Thời gian khóa tu Phật thất và Thiền thất đều bắt đầu từ 3.25 sáng đánh bảng gọi báo thức

cho đến khoảng 10.20 đêm. Trong khoảng thời gian này, lịch trình các khóa niệm Phật, và

Thiền định gần như san sát, chỉ nghỉ ngơi khoảng 20 phút rồi lại tiếp tục.

Khóa Phật thất buổi sáng thì sau khi tụng công phu khuya Lăng Nghiêm xong đến 5.00 sáng

thì nghỉ ngơi đến 6.30 và bắt đầu khóa Tịnh độ với thời kinh A Di Đà trước, sau đó tán Phật,

niệm Phật, và đi kinh hành 2 vòng lớn quanh chánh điện, tiếp đến ngồi xuống niệm Phật

khoảng nữa tiếng, và cuối cùng niệm Phật trong tâm khoảng nữa tiếng trước khi kết thúc và

chuẩn bị buổi ăn trưa lúc 10.45. Khóa niệm Phật chiều từ 1.00 đến 5.00 chiều, và khóa buổi

tối từ 6.10 đến 9.30 tối.

Ngoài thời gian hành trì niệm Phật miên mật gần như suốt ngày, khóa buổi tối có 1.giờ 30

phút nghe pháp và khai thị về pháp tu. Không thể ghi lại tất cả việc tu học trong khóa tu, tôi

chỉ thuật lại một số nét đại cương như sau:

KHÓA TU PHẬT THẤT.

Ngày thứ 1:

Buổi sáng tinh mơ, đúng 3.25am tiếng bảng (bằng tay) đã đứng thức chúng Tăng dậy. Sau đó

3 phút, tiếng bảng bằng máy tiếp tục đánh lên, và cứ thế sau 10 phút lại đánh lên nữa. Tiếng

bảng chát chúa vang lên trong đêm khuya, không ai có thể ngủ mê thêm nữa dù lười đến đâu!

Nước rửa mặt lạnh như nước đá sẽ làm mọi người tỉnh táo.

3.50 phút sáng, chư Tăng đi trong hàng dài và niệm Phật theo tiếng mõ, hướng chánh điện

(cách đó khoảng 600m) trong bầu trời tĩnh mịch của đêm đen. Gần đến chánh điện, tiếng

trống liên hồi như thúc dục, như nghênh đón chư Tăng vào chánh điện. Phía bên Ni thì cũng

vào chánh điện theo một cửa khác. Buổi lễ Sái tịnh đàn tràng đã được thực hiện từ tối hôm

trước nên khóa tu chính thức thực hiện hôm nay. Toàn thể đại chúng trong chánh điện có

khoảng hơn 300 người.

H.T khai thị:

“Trong thất này quý vị cần phải “nhất môn thâm nhập” –chuyên tâm vào một pháp môn- chỉ

dựa vào lòng chân thật, lòng thành khẩn, cung kính mà tu pháp niệm Phật, chớ để uổng phí

thời gian dù chỉ là một phút thôi. Quý vị nên biết, một chút thời gian là một chút sinh mạng.

Nếu không dụng công, mình sẽ tăng gia tội nghiệp. Chân thật dụng công thì tăng trưởng thiện

căn.”

Khi niệm Phật một tiếng, trong hư không sẽ có một ánh hào quang xuất hiện. Nếu quý vị chí

thành, chân thật, khẩn thiết niệm Phật thì ánh hào quang ấy sẽ chiếu khắp tam thiên đại thiên

thế giới, và có thể hóa giải mọi thứ ô nhiễm, tàn ác hung bạo và tai họa.

Niệm niệm chân thành niệm niệm thông,

Mặc mặc cảm ứng, mặc mặc trung.

Trực chỉ sơn cùng thủy tận xứ,

Tiêu dao Pháp-giới nhậm Tây Ðông.

Nghĩa là:

Niệm niệm chân thành, niệm thấu suốt,

Lặng lặng cảm ứng, lặng trung dung.

Ðến khi núi mòn sông cạn hết,

Tiêu diêu Pháp-giới khắp Ðông Tây.

Không biết quý-vị có liễu ngộ được chân nghĩa của bài kệ vừa rồi hay chăng? "Niệm niệm

chân thành, niệm thấu suốt," chữ niệm đầu tiên nói lên ý niệm do tâm phát ra. Chữ niệm thứ

hai là chỉ ý niệm do miệng thốt ra. Nếu chỉ có ý niệm thứ nhì, tức là ý "niệm" phát ra từ nơi

miệng thì không còn là ý niệm chân thành. Cho nên tâm khẩu cần phải chân thành khi niệm

danh hiệu Phật Bồ-tát. Chúng ta cần niệm đến chỗ tâm và miệng hợp nhất, một mà không hai.

Chúng ta không thể tùy tiện mà niệm, cũng không thể niệm một cách tán loạn, và càng không

nên niệm một cách tạp nhạp với nhiều vọng tưởng của mình. Nếu mình làm được như vậy thì

mới gọi là chân thành được. Có được ý niệm chân thành thì nhất định sẽ được cảm ứng. Cảm

ứng đó là gì? Là sự tương thông giữa tâm phàm phu của mình với tâm sáng lạng của chư Phật

Bồ-tát. Ðó gọi là:

Quang quang tương chiếu; Khổng khổng tương thông.

Nghĩa là:

Ánh sáng này chiếu ánh sáng kia; Lỗ lông này thông lỗ lông kia.

Tại sao có được cảm ứng như vậy? Giống như khi gọi điện thoại, bên này có quay số, bên kia

mới trả lời. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, sẽ có lúc Bồ-tát hỏi mình rằng: "Thiện nam tử,

thiện nữ nhân, các vị cần điều chi?" Lúc đó mình cầu gì sẽ được nấy. Nếu thiếu thành tâm thì

cũng như điện thoại có năm số, mà mình chỉ quay có ba số rồi ngừng tay, làm sao đường dây

có thể thông được. Niệm danh hiệu Bồ-tát cũng vậy, nếu mình niệm một chốc rồi ngừng lại,

đó là thiếu thành tâm. Nhất định không có chuyện cảm thông được. Chỉ ai có cảm ứng mới

nhận biết sự "quang quang tương chiếu" này. Cũng như khi gọi điện thoại, phải nhấc ống

nghe lên mới nghe rõ người bên kia đầu dây. Vì phàm phu không sao thấy được luồng sóng

qua lại của điện thoại.

Thêm vào đó, cổ nhân lại có câu:

"Quân tử cầu chư kỷ,

Tiểu nhân cầu chư nhân."

Nghĩa rằng:

Người quân tử thì tìm đáp án nơi chính mình, dựa vào năng lực của mình, còn kẻ tiểu

nhân thì nương tựa, cầu cạnh kẻ khác.

Chúng ta không thể có tâm ỷ lại, phải biết rằng sự cảm ứng là tự mình chiêu cảm lấy, không

do nơi khác. Có người nói: "Niệm Phật để được sinh Tịnh-độ; như vậy nhờ Phật mới được

tiếp dẫn." Câu nầy có thể đúng nhưng cũng có thể không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì thuyết

tiếp dẫn do đối căn cơ mà lập. Ðối với chúng sinh còn đầy lòng tham, luôn hy vọng chỉ dùng

ít sức mà hoạch kết quả lớn; hay thích cho vay ít lấy lãi nhiều, thánh nhân do đó phải tùy cơ

ứng biến, nói rằng Phật lực tiếp dẫn với mục đích là muốn chúng sinh nổ lực niệm Phật. Kỳ

thật kẻ niệm danh hiệu Phật, Bồ-tát mà được vãng sinh Tịnh-độ đều hoàn toàn do dựa vào

sức lực của chính họ.

Mình học Phật cũng vậy, phải hiểu rằng mọi sự vô thường, không ai thoát được cái chết. Tại

sao mình không lo chuyện hạ thủ công phu để giải quyết cái chết? Cho nên:

Nhược yếu nhân bất tử,

Tiên hạ tử công phu.

Nghĩa là:

Mình nếu muốn không chết,

Thì phải tu hết mình. "Tử công phu" (tu hết mình),

Mình cần phải niệm Ðức A Di Ðà Phật tới độ là coi Ngài như sư phụ của mình, xem Ngài

Quán Thế Âm Bồ-tát như là người bạn của mình. Nếu như được làm đệ tử của Phật, làm bạn

của Bồ tát, trải qua nhiều năm tháng, tự nhiên mình cũng sẽ trở thành bạn thân của các vị đó.

Như vậy thì chư Phật Bồ-tát sẽ tiếp dẫn mình về thế giới Cực-lạc vào phút cuối cùng. Quý-vị

đừng nên hồ nghi, bởi vì:

Tu Ðạo chi nhân tâm mạc nghi,

Nghi tâm nhất khởi tiền đồ mê.

Nghĩa là:

Lòng người tu Ðạo chớ ngờ nghi,

Nghi ngờ nổi dậy liền mờ mê.

Nghĩa là người tu Ðạo chớ có tâm nghi ngờ, khi lòng nghi nổi dậy thì đi vào sự mê mờ.

Chúng ta nên nghe lời của thiện-tri-thức, không nên có lòng nghi ngờ. Thí dụ như thiện-tri-

thức nói tu hành cần phải có khổ công, thì mình phải tin như vậy. Nếu mình có lòng tin một

cách triệt để nhất định sẽ được minh tâm kiến tánh, phản bổn hoàn nguyên. Do đó mình phải

thường nghe lời chỉ dạy của bậc thiện-tri-thức. Nếu vị đó dạy mình "niệm Phật" thì mình nhất

định phải theo lời mà niệm Phật; nếu vị ấy dạy mình "đừng buông lung" thì mình không được

buông lung, đó là yếu quyết của việc tu Ðạo vậy.

Như đã nói trên: "Bịnh rồi mới biết thân này khổ." Bởi vì con người mà không trải qua một

cơn bịnh khổ thì không chịu phát tâm tu hành đâu. Do vậy, kẻ chưa bịnh thì không hiểu sự

thống khổ. Lại có câu rằng: "Phú quý tu đạo nan." Nghĩa rằng người giàu tu đạo rất khó, bởi

vì việc gì cũng được như ý cả thì làm sao họ nghĩ đến chuyện tu. Do đó nghèo với bịnh là thứ

trợ duyên cho việc tu Ðạo. Bịnh đến thì mình đừng âu lo, nghèo khốn cũng chớ ưu sầu. Có

bài kệ như sau:

Ngã kiến tha nhân tử,

Tử tâm nhiệt như hỏa,

Bất thị nhiệt tha nhân,

Tiệm tiệm luân đáo ngã.

Nghĩa là:

Ta thấy người ấy chết,

Lòng ta nóng như lửa,

Chẳng phải nóng cho người,

Mà từ từ lửa tới ta.

Nghèo khốn hay bịnh hoạn hẳn nhiên giúp mình trưởng dưỡng tâm tu Ðạo. Cũng như khi

thấy người khác nghèo khốn, bịnh khổ, già chết, mình cũng phải phát tâm như thế. Ðời người

giống như: "

Trường giang, hậu lãng thôi tiền lãng."

Nghĩa là

"Sông Trường giang, sóng sau đẩy sóng trước."

Nếu mình kịp thời phát nguyện vãng sinh, lúc gần chết, mình sẽ có sự chuẩn bị. Không vậy,

lúc ấy mình hoảng sợ không biết cách đối phó. Giống như đất nước nếu không trải qua một

cơn biến loạn thì nhân dân chỉ thích sống trong cảnh sung sướng an lạc, không màng đến

chuyện bảo vệ đất nước.

Hiện tại Phật-giáo cũng như vậy, người ta không nghĩ cách để phục hưng Phật-giáo, nên

Phật-giáo đi vào tình trạng ủy mị. Vì vậy mình phải đề xướng Phật-giáo; trách nhiệm không

phải chỉ ở các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, mà ở tại mỗi tín đồ Phật-giáo. Nếu như mỗi người

chúng ta đều tự nhận trách nhiệm, thì lo gì Phật-giáo không phát triển!

Ngày thứ 2:

Trong suốt khóa tu ngày hôm qua, mọi người gần như tịnh khẩu, chỉ có nhất tâm tu niệm và

không một ai nói chuyện với nhau cả dù rằng khoảng giữa có 15 phút giải lao. Sao lạ vậy!

Hình như hiện tượng này, tôi chưa từng thấy qua trong các khóa tu ở các chùa Việt Nam

mình. Hay là quy củ ở VPTT này là như vậy! Mọi người không được làm quen, tiếp xúc và

nói chuyện với nhau, không phải giữa giới xuất gia và Phật tử tại gia mà ngay cả những

người Phật tử với nhau cũng vậy. Ai cũng hiểu điều này nên ai cũng giữ sự im lặng và thanh

tịnh, mặc niệm hoặc giữ sự trang nghiêm cho đạo tràng.

H.T Tuyên Hóa khai thị.

Ngài khuyến đại chúng khi tu nên giữ gìn tâm ý trang nghiêm và thanh tịnh. Lòng chí thành

ấy sẽ cảm ứng chư Phật và cảm động đất trời.

Tâm chân thật, ý chân thật, thật trong thật,

Hành chân thật, tu chân thật, thật trên thật,

Làm chân thật, thành chân thật, thật thêm thật,

Tất cả, tất cả, thật, thật, thật.

Cổ nhân nói: "Thiện ác hai con đường, ai tu thì tu, ai tạo (nghiệp) thì tạo." Kẻ tu thiện thì sẽ

thoát khỏi Tam Giới, kẻ tạo ác thì sẽ đọa Tam Ác Ðạo. Thiện, ác chỉ ở trong một ý niệm cách

biệt. Có trí huệ tức là thiện niệm, có ngu si tức là ác niệm. Mọi sự trên đời đều nói pháp (hiển

bày chân lý). Có thứ nói pháp lành, có thứ nói pháp ác. Có thứ nói pháp bàng môn tả đạo,

quan điểm sai lầm. Có thứ nói pháp Trung Ðạo Liễu Nghĩa, quan niệm đúng đắn.

Nói cách khác, nói pháp lành tức là dạy người ta nhìn thông suốt mọi hiện tượng, buông bỏ

mọi chấp trước, đạt được tự tại; còn nói pháp ác tức là dạy người ta đừng nhìn thủng, đừng

buông bỏ chấp trước, chẳng đắc được tự tại. Vì sao con người điên đảo? Bởi vì chấp trước,

không chịu buông bỏ. Câu thơ xưa nói rằng:

Cổ lai đa thiểu anh hùng hán,

Nam Bắc sơn đầu ngọa thổ nê.

Nghĩa là:

Xưa nay bao kẻ anh hùng hảo hán,

Nằm dưới đất bùn khắp núi đầy non.

Quý vị hãy nghĩ xem: bao nhiêu người ở trần gian, ai có thể nhảy thoát qua cửa sinh tử? Lúc

sống, mưu đồ hư danh, chết rồi, danh nào còn? Ham chức quan lớn, chết rồi, quan cũng hết

luôn! Mọi thứ đều hóa thành không. Trung Quốc có Tần Thủy Hoàng vì muốn bảo vệ con

cháu, khiến muôn đời sau sẽ mãi làm hoàng đế, nên cho xây Vạn Lý Trường Thành. Nào ngờ

chỉ truyền tới đời thứ hai, con là Hồ Hải (Tần Nhị Thế) nối ngôi chưa được ba năm thì bị

Thừa-tướng Triệu Cao giết chết. Thế chẳng phải là đã hao phí tâm cơ sao?

Xưa nay, từ trong đến ngoài nước, những kẻ cực kỳ giàu sang, kẻ làm quan to chức lớn, đều

sống một đời mê muội tranh danh đoạt lợi, tạo ra biết bao nghiệp chướng tội lỗi; tới lúc chết

thì với hai tay không đi gặp Diêm Vương. Xem đấy, khi tham Thiền chúng ta phải quyết chí

dụng công, không thể giải đãi, không thể buông lung, chớ để lỡ cơ hội rồi sau này hối hận

không kịp. Rằng:

"Một chút thời gian, một chút mạng sống."

Có người nói: "Chờ tôi thành danh rồi, tôi sẽ buông bỏ mọi thứ, chuyên tâm tu Ðạo." Song,

thời gian không chờ đợi ai, chờ tới lúc đó thì đã quá muộn rồi.

Tham Thiền hay niệm Phật đều tốt cả. Chỉ cần chân thật tu hành thì có thể thoát khỏi vòng

sinh tử, tới lúc lâm chung tất sẽ

"Thân không bịnh khổ,

Tâm chẳng tham luyến,

Như nhập Thiền-định,

Vui cười vãng sinh."

Ðó mới là nắm chắc được việc sinh tử trong tay mình vậy!

Ngày thứ 3:

Mỗi ngày trước khóa lễ niệm Phật đều trì kinh Lăng nghiêm buổi khuya lúc 4.00am. Theo

thông lệ thì một ngày tụng kinh bằng tiếng Hoa và một ngày tụng kinh bằng tiếng Anh. Tất cả

kinh, chú, các bài sám đều như các chùa ở Việt Nam, chỉ khác là họ tiếng tiếng Hoa mà thôi.

Cho nên nếu chúng ta học tiếng Hoa thì sẽ rất nhanh vì có rất nhiều âm điệu tương tợ.

Vị thầy dẫn lễ mỗi ngày thường thay phiên nhau, có khi Tăng lại cũng có khi là vị Ni. Vị

Phương trượng trụ trì thì chỉ dâng hương cúng Phật và sau đó đứng chấp tay, đứng tấn tại

đạo tràng giữa 2 chúng Tăng Ni trong thế thiền định. Nếu khóa lễ 4 tiếng vào buổi chiều là

ngài cũng đứng, lúc đi kinh hành thì ngài đi sau chót. Lúc nào ngài cũng là vị dẫn đầu, nêu

cao tấm gương tu hành, tinh tấn, kham nhẫn và hạ mình thấp nhất trước đại chúng. Thấy

cảnh khổ hạnh này, tôi thầm nghĩ, làm thầy Phương trượng VPPT thật không dễ chút nào,

khổ cực hơn cả chúng tăng rất nhiều lần. Chẳng bù truyền thống Việt Nam mình, thì thầy

Phương trượng trong một đại Tòng lâm như vầy sẽ được cung kính, tôn sùng và trọng vọng

đệ nhất trong chùa.

Mỗi buổi sáng, khi đại chúng đi thành hàng vào chánh điện xong, trước khi bắt đầu tụng chú

Lăng nghiêm, đều phải đọc Tông chỉ Vạn Phật Thánh thành như sau:

Rét chết không phan duyên

Đói chết không hóa duyên

Nghèo chết không cầu duyên

Rùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên

Chúng ta giữ vững ba đại tông chỉ

Xả mạng vì Phật sự, tạo mạng vì bổn sự, chánh mạng vì Tăng sự

Tức sự minh lý, minh lý tức sự

Truyền thừa mạch huyết Tổ sư

Tự hỏi: Mình có tranh không?

Tự hỏi: Mình có tham không?

Tự hỏi: Mình có cầu không?

Tự hỏi: Mình có ích kỷ không?

Tự hỏi: Mình có tự lợi không?

Tự hỏi: Mình có vọng ngữ không?

Tự hỏi: Mình có ăn ngày một bữa không?

Tự hỏi: Mình có luôn đắp y giới không?

Đây là gia phong của Vạn Phật Thánh Thành và không ai được sửa đổi!

Phần cuối buổi lễ sau phần đảnh lễ Tam tự quy xong, đại chúng còn phải đảnh lễ 15 lễ đối

với 5 vị Tổ sư cận đại, biểu lộ lòng thành kính, ghi ân sự truyền thừa mạng mạch từ các ngài.

Lời H.T dạy:

Chúng ta lúc nào cũng ở trong mộng. Rằng:

Nhân sinh nhất trường mộng,

Nhân tử mộng nhất trường.

Mộng lý thân vinh quý,

Mộng tỉnh tại cùng hương,

Triều triều thị tác mộng,

Bất giác mộng hoàng lương,

Mộng trung nhược bất giác,

Uổng tác mộng nhất trường.

Nghĩa là:

Người sống: một tràng mộng,

Người chết: mộng một tràng.

Trong mộng thân vinh quý,

Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ,

Ngày ngày cứ nằm mộng,

Chẳng biết mộng "kê vàng,"

Nằm mộng mà chẳng biết,

Uổng thay mộng một tràng.

Lúc mộng, chúng ta thấy rõ ràng có Lục-thú (sáu nẻo: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ quỷ,

địa ngục); đến lúc giác ngộ mới thấy tam thiên đại thiên thế giới đều chẳng có. Vì sao? Vì

không còn chấp trước. Chẳng còn chấp trước thì đem vạn vật "phản bổn hoàn nguyên"; như

thế làm sao còn ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đặng? Mọi thứ đều

chẳng còn! Có người nghe rằng bốn tướng đều hết thì chẳng dám tu hành, vì ngộ nhận rằng:

"Tu đến cực điểm thì người ta chẳng hiện hữu nữa, chúng sinh cũng hết sạch, thọ giả cũng

không còn, vậy thì sao đây? Lúc ấy công việc làm cũng hết luôn, e rằng tôi sẽ thất nghiệp

mất!"

Quý vị nhất định cần có việc làm sao? Vậy thì cứ tiếp tục điên đảo! Khi tu hành đến chỗ

không còn bốn tướng, thì quý vị sẽ "quét sạch tất cả pháp, xa rời tất cả tướng," chứng đắc

Thực-tướng của mọi sự. Rằng: Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không. (Một pháp chẳng lập,

mọi sự đều không.) Chẳng thể nói suông là mình hiểu đạo lý này, mà chúng ta bắt buộc phải

chân chính chứng đắc cảnh giới "một pháp chẳng lập, mọi sự đều không." Lúc ấy sẽ chẳng

còn gì là khổ, chỉ hưởng thọ sự an lạc.

Người ta ở đời, nếu không chấp trước danh vọng thì cũng ôm chặt lợi lộc, không chấp trước

tiền tài, thì lại mê đắm sắc đẹp, do đó không thể nhìn thủng (hiện tượng), chẳng thể buông bỏ

(mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng, muốn buông bỏ, song lại chẳng đặng. Vì sao chẳng

kham? Bởi vì trong tâm có "con quỷ" tinh tế và "con sâu" linh lợi tác quái, do đó rất nhiều

việc mình để lỡ cơ hội, đối diện với Ðức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Ðức Quán Âm

Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đi tìm kiếm khắp nơi. Ðó chính là bị điên đảo vọng tưởng

chi phối vậy.

Chữ "tham" trong tham Thiền có nghĩa là quán chiếu, quan sát. Quán chiếu cái gì? Quán

chiếu Bát-nhã. Nghĩa là trong mọi ý niệm, mọi thời điểm, quý vị phải quan sát chính mình ở

đây (tự tại), đừng quan sát kẻ khác ( tha tại ). Hãy quán sát xem mình có ở tại đây hay chăng -

nếu mình ở đây thì có thể tham Thiền, dụng công tu hành; nếu mình chẳng ở đây, tức là mình

khởi vọng tưởng lăng xăng, nghĩ ngợi vớ vẩn. Thân tuy ở trong Thiền-đường, nhưng tâm lại

dong ruổi tận Nữu Ước hay Ý Ðại Lợi. Tới đâu cũng phan duyên, thành ra không tự tại nữa.

Ngày thứ 4:

Buổi trưa khi mọi người niệm Phật xong, đại chúng xếp thành hàng qua một Chánh điện

khác thực hiện nghi thức cúng Ngọ trước khi xếp thành hàng đi ra Trai đường, còn gọi là

Ngũ quán đường lúc 10.45. Buổi thọ trai kéo dài 1 tiếng đồng hồ, bắt đầu bằng việc 1 vị

Tăng đọc lên bài kinh cúng dường: “Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ lô Giá na Phật…,

sau đó đọc Tam đề Ngũ quán và đại chúng bắt đầu dùng cơm.

Thức ăn chư Tăng được để sẵn trong những chậu lớn đầu dãy bàn, và sau khi vị Tăng ngồi

đầu lấy món ăn nào xong thì chuyền qua vị thứ hai và cứ thế chuyến đến vị cuối trong từng

món một. Do dùng một bữa ăn trong ngày nên phần chuẩn bị bữa ăn có thể nói là rất chu

đáo, đầy đủ chất dinh dưỡng với khoảng 7 đến 10 món, trong đó ngoài phần cơm và các món

ăn xào, kho, canh, mì còn có cả bánh mì, bơ, mứt, bơ đậu phụng. Các thức ăn tráng miệng

gồm có 3 loại trái cây, các hạt đậu hoặc bánh quy. Ngoái nhìn sang các ông Sa Di (hơn 50

tuổi) bên cảnh, tôi phát hoảng khi thấy ông ta múc một bình bát đầy thức ăn, một dĩa đầy và

các bánh mì, trái cây bênh cạnh. Xem chừng phải gấp 3 lần phần ăn của tôi, vậy mà ông chú

Tiểu “đại” đó ăn cũng hết. Tuyệt thật!!!

Sau khi ăn xong, mọi người tự đi lấy 1 chiếc khăn (để trong chậu nước nóng) gần đó quay lại

chỗ mình và chùi sạch sẽ khu vực bàn ăn trước mặt mình, xong để khăn lại trong chậu và

cầm bình bát và dĩa của mình đi rửa ở một khu nhà bếp gần đó, rửa xong quay trở lại chỗ cũ

để trên bàn như trước và chờ đến 11.50 đi thành hàng ra Chánh điện hồi hướng.

Tôi nghĩ thầm, một ngày ăn một bữa như vậy cũng thật là xứng đáng. Đầy đủ tất cả, mãn

nguyện tất cả vì ban ẩm thực lo rất chu đáo, nhưng chỉ ngày một bữa. Vậy cũng rất là hay vì

như vậy khỏi mất rất nhiều thời gian cho việc ăn uống. Trong các khóa tu ở chùa Việt Nam

mình, về phần ăn uống này thôi tôi cũng thấy rất mệt và phiền cho tất cả mọi người. Bởi vì

đại chúng ăn sáng vừa xong và đi khỏi, là ban trai soạn lại tiếp tục chuẩn bị cắt, gọt rau quả

để chuẩn bị cho buổi ăn trưa, ăn trưa vừa xong lại cắt, gọt chuẩn bị cho buổi ăn chiều. Ôi!

Sao vì cái ăn thôi mà mọi người phải khổ và mệt đến như vậy. Không lẽ một năm 365 ngày

không tu, ngày ăn 3 bữa lâu rồi, nay đến thời gian tu hành, bỏ bớt ăn uống 2 bữa, chỉ dùng

một bữa để tu lại không làm được hay sao?

Chẳng những ở đây họ ăn một bữa, mà tất cả mọi người đều tự rửa bát chén của mình, lau

chùi nơi bàn của mình, nên cuối cùng ban trai soạn, nhà bếp cũng khỏe ru!!! Ngay cả phần

bỏ rác có lẽ chúng ta cũng cần phải học hỏi, vì họ có 3 thùng rác. Một thùng bỏ các loại vỏ

trái cây, 1 thùng bỏ các loại giấy chùi miệng (dùng để tái chế), và 1 thùng dùng để bỏ thức

ăn thừa.

Lời H.T khai thị:

Tu hành bí quyết số 1 là ăn ít để bớt dục niệm, do đây đỡ phiền não, Bồ-đề sanh. Thứ 2 là tập

nhẫn nại. Những việc mình không thích nhưng chúng đã sai thì cứ nhẫn nại mà làm. Cố gắng

làm cho đàng hoàng, chu đáo, với tất cả lương tâm. Lâu dần quen đi thành vui vẻ. Nếu cứ

trốn tránh hoặc lười biếng phóng túng, qua loa cho xong chuyện. Như vậy lây lất tháng ngày,

người này làm sao có tương lai?

Người tu cả thân lẫn tâm nên lấy chữ Nhẫn làm phương châm. Gặp thử thách, nghiến chặt

răng chịu đựng, gió êm sóng lặng, qua cửa ải, tự nhiên bình an.

Chính Tuyên Hóa tôi đã dùng chữ Nhẫn làm pháp bảo để khắc phục mọi khó khăn: lạnh

nóng, nắng mưa, đói khát, tôi chịu đựng hết. Quyết không kéo cờ trắng đầu hàng. Bị mắng

coi như nghe nhạc. Bị đánh, bình tĩnh ôn hòa. Trời rét đến đâu, công phu khuya sớm không

bao giờ trễ nải, bao giờ cũng lên chánh điện trước khóa lễ 5 phút.

Ngày thứ 5:

Thông thường khóa tu niệm Phật bắt đầu bằng khóa lễ tụng kinh A Di Đà. Đây là bản kinh

rất quen thuộc trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa và truyền thống Phật giáo Việt Nam

mình. Sau bài kinh này là đến phần tán Phật: A Di Đà Phật thân kim sắc, Tướng hảo quang

minh vô đẳng luân…. Âm điệu và nhạc lễ tiếng Hoa nghe thật du dương và thánh thoát. Sau

đó đến phần niệm Phật là phần đi kinh hành, chậm rãi, khoan thai theo tiếng niệm.

Lúc này tôi mới thấy công dụng của các bục gỗ mà trong các chùa Trung Hoa họ thường hay

xếp để mọi người quỳ lạy lên trên. Theo các bục gỗ này mà mọi người đi kinh hành vòng qua,

uốn lại một cách đều đặng và nhịp nhàng. Chánh điện không lớn, chỉ chưa hơn 300 người và

hơn 300 người chật cứng chánh điện nhưng chư Tăng, Ni và đại chúng vẫn kinh hành nhịp

nhàng có thứ lớp, trật tự. Phía sau cùng chánh điện, tôi thoáng thấy 1 ban khoảng 3 người

mặc đồng phục điều hành, sắp xếp việc di chuyển kinh hành cho những Phật tử mới ở đoạn

cuối.

Đầu tiên là chư Tăng đi trước, kế đó là các vị Sa di và các vị Phật tử Ưu bà tắc, khi gặp nơi

giao tiếp, chúng Ưu bà tắc dùng lại để chúng Ni, Sư bà và các quý Ni sư, Sư cô đi tiếp theo

sau chúng Sa Di. Khi chúng Sa Di Ni đi rồi thì mới tiếp đến lượt Phật tử Ưu bà tắc và cuối

cùng là chúng Phật tử Ưu bà di, trong đó Phật tử đắp y thọ Bồ tát giới đi trước và người

chưa thọ giới đi sau.

Về phép niệm Phật trong khóa tu gồm có 4 phép, đó là Đứng niệm Phật, kinh hành Niệm

Phật, ngồi niệm Phật ra tiếng, và ngồi niệm Phật trong tâm. Về âm điệu niệm Phật thì có 4

cách: 1) Niệm Phật 6 chữ: Nam Mô A Di Đà Phật. 2) Niệm Phật 4 chữ chậm (thường): A Di

Đà Phật. 3) Niệm Phật 4 chữ nhanh (4 âm: cao nhất, cao, trung bình, thấp). 4) Mặc niệm 4

chữ: A Di Đà Phật. Khóa niệm Phật buổi chiều 4 tiếng liên tục từ 13.00 đến 17.00 và trong

thời gian này, ai có nhu cầu thì có thể ra ngoài và trở vào lại sau đó. Trong khóa này thì đã

có 2 lần niệm ngồi ra tiếng và 2 lần mặc niệm thì thời gian cũng đã chiếm 2 tiếng rồi.

H.T Tuyên Hóa khai thị: Bớt Nói Chuyện, Dụng Công Cho Nhiều.

Phàm là tham gia Phật Thất, hoặc Thiền-thất, hoặc Quán Âm Thất, hoặc Ðịa Tạng Thất đều

tốt; các bạn chớ tuyên truyền với người ngoài Vạn Phật Thánh Thành là tốt như vậy như kia.

Ðiều tốt của Vạn Phật Thánh Thành, chúng ta không hy vọng người ngoài biết. Vì sao vậy?

Nếu bị kẻ khác biết thì bốn phương tám hướng người ta sẽ kéo đến Vạn Phật Thánh Thành,

lúc đó Vạn Phật Thánh Thành không cách gì ứng tiếp được.

Vạn Phật Thánh Thành luôn im lặng làm việc, mọi người ai cũng chịu cực chịu khổ, chân thật

tu hành. Do đó đối với bên ngoài, không nên chú trọng vào việc tuyên truyền quảng cáo. Nếu

ở đây là nơi tu hành tốt, các bạn có thể thường xuyên lui tới. Nếu các bạn cảm thấy không tốt

thì không nên đi theo con đường này nữa, đó là tông chỉ nhất quán của Vạn Phật Thánh

Thành.

Vạn Phật Thánh Thành có sáu đại tông chỉ để hướng dẫn việc tu, tức là: “Không tranh,

không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không vọng ngữ.” Nếu bạn hiểu

rõ sáu tông chỉ này một cách chân thật thì bạn sẽ không uổng đã tới Vạn Phật Thánh Thành.

Có một số người rất háo danh, nhưng Vạn Phật Thánh Thành không cần những kẻ đó. Vì

sao? Bởi Vạn Phật Thánh Thành muốn dứt trừ ngũ dục: “Tài, sắc, danh, thực, thùy.”

Ngũ dục này là gốc của địa ngục, nhưng đa số người đời ưa thích những thứ đó, nhưng Vạn

Phật Thánh Thành lại muốn thoát ly những mối dây ràng buộc ấy. Vì vậy Vạn Phật Thánh

Thành không muốn nổi danh, cũng không cầu cạnh lợi lộc gì, chỉ dựa vào công phu chân thật

để hoằng dương Phật Pháp, tiếp nối Phật huệ mạng. Ðó là tình huống đại khái của Vạn Phật

Thánh Thành.

Ngày thứ 6:

Buổi chiều sau phần niệm Phật, cũng có phần cúng Thí thực cô hồn và sau đó đại chúng di

chuyển qua phòng thờ Linh. Phòng thờ này khá rộng lớn (khoảng 400m2) và thờ hàng ngàn

bài vị. Buổi tụng kinh A Di Đà và cầu siêu diễn ra rất long trọng và trang nghiêm, làm cho

cõi âm được muôn phần lợi lạc.

Quả thật thời gian đầu chưa quen, tôi cũng cảm thấy mệt lả người khi tham dự những khóa tu

suốt nhiều giờ đồng hồ, từ sáng đến tối như vậy. Có những lúc chân mỏi khủng khiếp như

muốn ngã quỵ, lại cũng có những lúc chân ngồi xếp bằng nhiều giờ đớn đau dễ sợ, nhưng rồi

do lực của đại chúng và lời dạy, khuyến tu của H.T mà cơn đau qua đi, những khổ nhọc

tưởng chừng như không thể chịu đựng nổi, cuối cùng rồi cũng xong. Tu hành phải là như

vậy, ép và phạt thân này phải chịu mọi sự đớn đau và khổ nhọc thì nghiệp chướng mới tiêu

trừ, phước đức, công đức mới tăng trưởng như hai câu kệ ngài thường nói:

“Hưởng phước thì hết phước,

Chịu khổ thì hết khổ.”

Thế rồi 7 ngày Phật thất cũng trôi qua mau, những ngày đầu khóa tu và cuối khóa tu, Phật tử

đến tham dự đông nghẹt, kín cả trai đường, tôi nghĩ chắc khoảng 800 người có đến, nhưng

khi tham dự buổi niệm Phật thì không đủ chỗ, nên đành chịu.

Buổi tối sau khi lễ hoàn tất, tôi phụ các chư Tăng khác dịch chuyển tất cả những bục gỗ lạy

Phật vào một chánh điện bên cạnh, dọn chỗ cho buổi Thiền thất được tổ chức ngày mai trong

chánh điện, dành cho bên Ni. Riêng bên Tăng thì chuyển về Thiền đường, thuộc tòa nhà của

Tăng chúng.

Lão H.T Tuyên Hóa dạy như sau:

Tâm lắng, nước hiện trăng.

Ý định, trời không mây.

Dừng tâm, dứt niệm, giàu sang thật!

Đoạn tận tư dục, chân phước điền !

Vọng tưởng thể chất là si, tướng là tham sân. Vì tự thấy còn thiếu thốn mới khởi tâm tham.

Tham bị trái ý phát sân, đưa đến tạo nghiệp và phiền não không cùng. Một khi ta nắm được ý

này rồi thì loạn tưởng, tạp niệm bớt hẳn và dừng lại. Khi ấy ta mới thật có công đức, phước

báu giàu sang của tự tánh, của an vui.

Ngài dạy tiếp:

“Một niệm không sanh, Phật tánh hiển hiện.

Sáu thức vừa động, tâm bị che mờ.”

Diệu minh bản hữu thông thiên triệt địa, viên mãn khắp mười phương vẫn là thể chất của

chúng ta, vẫn là nòng cốt sự sống của chúng ta. Nhưng khi mê, chúng ta đang theo nghiệp

báo, nhận thân máu mủ tanh hôi làm thể sắc. Cả ngày tôi khổ tôi vui, nhận thọ ấm làm mình.

Tôi yêu tôi ghét, nhận tưởng ấm làm mình. Tôi thiện tôi ác, nhận hành ấm làm mình. Tôi thấy

tôi nghe, nhận thức ấm làm mình. Bị giam chặt trong ngục 5 ấm như thế, chỉ một lời nói một

việc làm sơ hở, liền thành trâu, ngựa, vịt, gà v.v…

Ngày thứ 7:

Đả Phật thất, cũng có nghĩa là “khắc kỳ thủ chứng”, lấy thời hạn 7 ngày niệm Phật để chứng

nhập “Vô niệm tự niệm” hoặc “niệm Phật tam muội”. Đường lối tu hành này do chư tổ hành

trì và chứng nhập pháp môn tu, đã đưa những hành giả tu về Tịnh độ lên một tầng cao mới

của sự chứng nhập Pháp tu Tịnh độ. Suốt trong thời gian này, nếu người nào thành tâm,

thành ý, chuyên cần dụng công thì lực tu tập, thể nhập, chứng đạt rất dễ trông thấy.

Tôi cũng có dịp trải nghiệm một vài thời khóa Phật thất với người Phật tử Việt Nam, nhưng

thật khó đưa chúng Phật tử vào quy củ, có lẽ chư Tăng cũng chưa thể nhập vào pháp tu,

chưa dụng công đúng mức và tuân giữ quy củ nên cũng rất khó hướng người Phật tử đi vào

quy củ. Khó nhất đối với các Phật tử Việt Nam là việc Tịnh khẩu, bởi vì người Việt Nam có

tính hay “nói nhiều” thì phải; gặp mặt là nói, đối với người lạ thì làm quen để nói, mà đối

với người quen thì lại càng nói nhiều hơn; chuyện gì cũng nói, đủ thứ chuyện thị phi trên

trời, dưới đất cũng đem bàn tán ra nói. Dường như người ta không nói không chịu được hay

sao ấy! hay là họ không ý thức được rằng, mình đang trong thời gian tu tập miên mật, Phật

thất, tịnh khẩu. Bởi vậy tôi nghĩ rằng, nếu những khóa tu như vầy tổ chức cho người Phật tử

Việt Nam tu tập, có lẽ phải lập ra 1 ban vài người, chuyên đi nhắc nhở Phật tử giữ sự im

lặng, nhất tâm niệm Phật, thì mới đúng cách cho người Phật tử Việt Nam.

Một khi tu tập, tham dự các khóa tu Phật thất miên mật, tịnh khẩu mà không ý thức được việc

này, để cho tâm buông lung, tán loạn, chẳng khởi được tâm thành ý, chuyên nhất, tha thiết

hướng về việc hành trì trong đi, đứng, ngồi, nằm thì có tham dự 10 khóa tu, 100 khóa tu như

vậy thì cũng như là gãi ngứa phiền não, vọng tưởng chẳng tan, không có lợi lạc gì nhiều.

Cho nên tu tập, dù là thiền hay Tịnh độ thì điều quan yếu hơn hết, vẫn là đưa tâm thức lao

xao này về định, một niệm không khởi, ngoài câu: “Nam Mô A Di Đà Phật.” Được vậy thì dù

là một khóa tu Phật thất, ta vẫn nắm lấy được yếu chỉ của đức Phật A di Đà.

H.T Tuyên Hóa khai thị.

Chúng ta làm gì trong Thiền-đường? Chính là rèn luyện "thân kim-cang bất hoại." Một khi đã

là "thân kim-cang bất hoại," thân ta ắt hẳn chẳng còn biết khổ sở, chẳng còn biết đau đớn. Do

đó nếu chúng ta cứ sợ khổ sợ đau thì không làm sao thành tựu được "thân kim-cang bất hoại."

Thân bất hoại này là do rèn luyện mà thành. Và công việc chúng ta đang làm đây chính là rèn

luyện "thân kim-cang bất hoại"-rèn luyện thân này cho được kiên cố, vĩnh viễn không hư

hoại.

Nghe vậy, có vị nghĩ rằng: "Tôi tu hành không phải vì cái 'túi da thối' này. Rèn luyện nó

thành bất hoại để làm gì chứ?" Không sai! Lý luận của quý vị đúng lắm; song, "thân kim-

cang bất hoại" mà tôi nói đây không phải là "túi da thối" này. Vậy thì là gì? Là "thân kim

cang bất hoại" của tự-tánh, cũng là Pháp-thân và huệ-mạng, mà cũng chính là "thân kim cang

bất hoại" của tự-tánh nguyên thủy thanh tịnh.

Quý vị nên nhớ: Tu Ðạo không phải là chuyện dễ. Hễ quý vị muốn tu Ðạo thì có ma tới phá.

Ma này không phải chỉ từ một nơi, mà từ bốn phương tám hướng kéo tới. Có thứ là ma bịnh,

có thứ là ma phiền não; lại có thiên ma, nhân ma, quỷ ma và cả yêu ma nữa. Chúng ma kéo

tới từ chỗ quý vị chẳng ngờ chẳng biết, làm cho Ðạo-tâm của quý vị lung lay, khiến quý vị

thối lui trên đường tu tập. Chúng dùng đủ cách để dụ dỗ, uy hiếp, đe dọa, khiến quý vị phải

thối chuyển, mất Ðịnh-lực, rồi bỏ tu luôn.

Quý vị ngồi Thiền tới một trình độ kha khá thì sẽ có ma tới thử thách xem Ðạo-lực của quý vị

ra sao. Có khi chúng hóa hiện làm kẻ nam hay người nữ với dáng mạo đẹp đẽ để dụ dỗ, -nếu

không động tâm thì quý vị vượt qua được thử thách, nếu động tâm thì quý vị sẽ đọa lạc. Ðây

là điều vô cùng quan trọng, quý vị hãy nhớ cho kỹ! Hễ sẩy chân lỡ bước là ôm hận ngàn đời!

Khi cảnh giới hiện ra để thử thách kẻ tu hành, thì chúng ta cần phải xét xem cảnh giới ấy là

giả hay thật. Dùng phương cách gì? Rất đơn giản: niệm "A Di Ðà Phật," chuyên nhất không

loạn, chẳng khởi vọng tưởng. Nếu cảnh giới ấy là giả thì nó sẽ từ từ biến mất. Nếu là cảnh

giới thật thì càng niệm, cảnh ấy càng hiện ra rõ ràng. Ai ngồi Thiền không hiểu phương pháp

này sẽ bị "Tẩu hỏa nhập ma" và Ðạo-nghiệp sẽ tiêu tan. Lại có kẻ tự cho rằng mình đã nhập

ma-cảnh, do đó sẽ bỏ lỡ cơ hội khai ngộ.

Lúc còn trẻ tôi có nghe nói rằng: "Tu Ðạo thì có ma." Tôi không tin, lại còn kiêu ngạo nói:

"Ma gì tôi cũng không sợ! Tôi chẳng sợ bất kỳ thứ yêu ma quỷ quái nào!" Tôi cho rằng nói

như thế cũng không sao, chẳng có gì đáng e ngại. Nào ngờ chẳng bao lâu quả có ma lại phá

tôi. Ma gì? Ma bịnh! Lần ấy tôi bịnh nặng, hôn mê suốt bảy, tám ngày, chẳng hay biết gì cả.

Bấy giờ mới biết là công phu tu hành chưa đủ nên không vượt qua được thử thách.

Yêu ma quỷ quái, thiên ma ngoại đạo, tôi đều không sợ; chỉ sợ ma bịnh -không hàng phục

được nó, mà cũng không chịu đựng nổi nó. Do đó, người tu Ðạo chớ có khoe khoang, tự đắc,

nói rằng mình chẳng sợ gì cả. Nếu quý vị tự mãn tự đắc thì rắc rối sẽ kéo tới ngay! Người tu

Ðạo cần phải thế nào? Cần phải khiêm nhường, cẩn thận giống như đang đi trên bờ vực sâu,

hay bước trên mặt băng mỏng vậy. Lúc nào cũng phải hết sức thận trọng, đề cao cảnh giác,

thì mới tu Ðạo được. Nói tóm lại, hãy "nói ít, ngồi thiền nhiều"; đó là căn bản của việc tu

hành.

Người tu hành thành tựu được Ðạo-nghiệp là nhờ ai trợ giúp? Chính là ma đấy! Cũng như

muốn cho lưỡi dao được bén thì phải mài, người tu hành phát huy được ánh sáng trí huệ cũng

là nhờ ma lại giúp. Do đó, quý vị hãy xem ma như là hộ pháp vậy. Cho nên có câu:

Kiến sự tỉnh sự xuất thế gian

Kiến sự mê sự đọa trầm luân.

(Thấy việc, hiểu rõ: xuất thế gian,

Thấy việc, si mê: chịu đọa lạc.)

Nếu quý vị có khả năng giác ngộ, gặp cảnh liền hiểu thấu suốt, thì quý vị sẽ siêu xuất thế

giới. Nếu quý vị không thể giác ngộ, gặp chuyện gì thì mê mờ chuyện ấy, ắt sẽ đọa địa ngục.

Cho nên, người tu Ðạo không sợ gặp ma, chỉ sợ chẳng có Ðịnh-lực. Ma tới là giúp quý vị, thử

thách quý vị, xem quý vị có công phu, có Ðịnh-lực hay không. Nếu quý vị có công phu, có

Ðịnh-lực, thì bất luận là thứ ma gì đi nữa, chúng cũng không làm quý vị dao động tinh thần

được.

Người tu hành lúc nào cũng phải treo mấy chữ "vấn đề sống chết" ngang mày, lúc nào cũng

nghĩ cách để liễu sinh thoát tử. Quý vị nên biết rằng không có việc gì trọng yếu hơn "sinh tử

sự đại”. Nếu chuyện sinh tử chưa giải quyết, quý vị sẽ không biết vì sao mình sinh ra và chết

rồi thì đi về đâu. Do đó, chưa chân chính thông suốt "vấn đề sống chết" thì cần phải nỗ lực

dụng công; bằng không thì sẽ vĩnh viễn bị vòng sinh tử luân hồi ràng buộc, không sao giải

thoát được.

Trên đường Ðạo, quý vị hãy nghĩ tới "vấn đề sống chết" này, xem chúng ma như là kẻ hộ

pháp giúp mình tu hành. Ai chửi quý vị, đánh quý vị, chính là giúp đỡ quý vị tu hành. Ai nói

thị phi về quý vị, gây khó khăn cho quý vị, cũng chính là để giúp quý vị tu hành. Nói tóm lại,

khi nghịch cảnh kéo tới, quý vị cứ thuận theo nó mà nhẫn chịu. Hãy coi chúng như là những

bạn bè tới để trợ giúp cho quý vị thì phiền não sẽ hết. Hễ hết phiền não thì trí huệ phát sinh.

Có trí huệ chân chính thì tất cả ma quái không còn cách gì làm cho tâm quý vị dao động nữa.

Vì sao chúng ta bị cảnh giới của yêu ma làm cho dao động? Bởi vì trí huệ của chúng ta chưa

viên mãn. Vì trí huệ không viên mãn nên gặp việc gì cũng sinh mê muội, không nhận thức

được rõ ràng -ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đều nẩy sinh, và phiền

não cũng theo đó mà trỗi dậy. Nếu quả có trí huệ, thì không có những vấn đề ấy đâu!

KHÓA THIỀN THẤT.

Ngày thứ 1:

Pháp Thiền Thoại Đầu.

Thiền pháp nguyên bắt đầu từ Phật Thích Ca truyền lại cho ngài Ma Ha Ca Diếp, đến ngài A

Nan rồi truyền tới Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền sang

Trung Quốc. Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm Sơ tổ Thiền tông Trung Hoa, truyền cho Nhị tổ

Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục tổ Huệ Năng. Sau

đó chia thành năm phái: Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng và Vân Môn.

Thời chư Tổ sư, các thoại đầu để hành giả tham thiền có rất nhiều, nhưng phổ thông nhất là

các câu thoại đầu sau:

1. Khi chưa có trời đất, ta là cái gì ?

2. Muôn pháp về một, một về chổ nào ?

3. Trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao ?

4. Sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ?

5. Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật, là cái gì ?

Nhưng nay trong khóa thiền thất VPPT thì tham chữ “Ai” trong “niệm Phật là ai”. Khi tham

thoại đầu, tâm trí thiền giả phải luôn luôn chú mục vào “Ai”, và khi âm “Ai” lâu dần, chìm

mất theo hơi thở thì nghi tình “Ai” đó được khởi lên lại trong tâm. Như vậy Tham thiền theo

cách này gọi là Tham thoại đầu. Tham tức là Nghi, Nghi tức là không hiểu, một việc gì đã

hiểu rồi thì hết Nghi, hết Nghi tức là không có tham, cho nên Tham thiền rất chú trọng cái

Nghi, gọi là Nghi Tình. Muốn khởi lên cái Nghi Tình phải nhờ câu thoại đầu. Thế nào là

thoại đầu? Theo Ngài Hư Vân giải thích rằng khi muốn nói một câu thoại thì phải khởi niệm

rồi mới nói được, lúc chưa khởi niệm muốn nói gọi là Thoại đầu, nếu đã khởi niệm muốn nói,

mặc dù chưa nói ra cũng đã là thoại vĩ rồi.

Như vậy khi tham câu: “niệm Phật là Ai?" không có nghĩa là niệm câu thoại đầu này. Đây là

tham tức là nghiên cứu cái chữ “Ai”. Nếu cho rằng niệm Phật là tôi thì khi tôi chết rồi, thì

cái “Tôi” đó có còn niệm Phật được không? Nếu không thì sao cho rằng “Tôi” niệm Phật.

Cho nên phải hiểu rằng, người niệm Phật đó không phải là “Tôi”. Người niệm Phật đó

không chết, nếu chết thì người niệm Phật không phải là tôi. Bởi vậy, chính tại nơi đây chúng

ta phải tham ngẫm, tham không buông lơi. Cái “Nghi tình” cứ thế đề khởi liên tục trong tâm

thức chúng ta. Như vậy suốt thời gian ngày đêm không ngưng nghỉ, bất cứ đi, đứng, nằm,

ngồi, đang làm công việc tay chân hay bằng trí óc; đi bộ hay đi xe, đang ăn cơm, đang đi cầu

hay đang ngủ mê, đều phải tiếp tục hỏi tới hoài, không giây phút gián đoạn.

Chương trình khóa Thiền thất gồm các thời gian tu tập như sau:

Buổi sáng bắt đầu ngồi thiền từ 4.00 sáng đến 6.00 sáng. 3 khóa thiền sau đó từ 7.10 phút,

mỗi khóa ngồi 1 tiếng và nghỉ 20 phút và như vậy kéo dài đến 11.50 và sau đó sắp hàng đi

vào Trai đường. Tiếp đó từ 1.00 chiều đến 3.20 có 2 khóa thiền và buổi tối từ 6.00 đến 8.00

có khóa thiền ngồi 2 tiếng, 1 buổi khai thị thiền và vấn đáp 45 phút và sau đó khóa thiền 1

giờ, kết thúc vào lúc 10.20. Khóa tu thiền này chủ yếu tu pháp thiền Tổ sư, tham thoại đầu.

Lời H.T khai thị:

Nếu có cơ hội gặp khóa thiền, ta phải tham dự cho kỳ được. Dự một lần, thâu hoạch được

một lần. Không ăn, có thể chịu đói, nhưng không tham gia thiền thất thì không được; không

có áo có thể chịu lạnh, nhưng không tham gia thiền thất thì không được. Bởi các chư Phật

mười phương đều phải đi qua con đường ấy mới thành Phật quả.

Có người sợ khổ, không dám tham gia thiền thất, đó là một quan niệm sai lầm. Trong quá

khứ, chúng ta chưa từng gặp những khóa thiền thất như thế này, thế cho nên chúng ta cứ sanh

tử mãi trong vòng luân hồi. Nếu quả đã từng tham gia thiền thất, thì chắc chắn chúng ta

không vọng tưởng, chắc chắn không điên đảo; đối với ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thùy, tuyệt

đối không tham luyến; coi ngũ dục như năm con đường dẫn tới địa ngục vậy.

Ngồi tĩnh tọa tham thiền, khi hỏa hầu tới mức, thì sẽ có một loại định lực kim cương, khiến

cho chúng ta không bị ngũ dục lay chuyển. Khi đó, tài chẳng ham, sắc chẳng ham, danh

chẳng ham, ăn chẳng ham, ngủ chẳng ham, ngay trong mộng cũng không còn một ý niệm

tham dục, trong mộng mà tâm cũng thanh tịnh, đó mới là cảnh giới sẽ đạt tới.

Rồi kế đó lại dấn bước thêm tu hành, hành giả sẽ đạt cảnh giới không mộng để thành tựu quả

thánh. Người ta trong lúc tỉnh còn làm chủ được mình. Ngoại cảnh có thể đến dụ, nhưng lý trí

kiên cường, định lực sung túc thì ngoại cảnh cũng không thể lay chuyển. Tuy nhiên ở trong

mộng thì không làm chủ được. Thấy quỷ thì sợ quỷ, thấy hổ sợ hổ, thấy tiền tài ham tiền tài,

thấy sắc ham sắc, tức là bị ngoại cảnh mê hoặc.

Thản hoặc, trong mộng có thể làm chủ được, nhưng trong bệnh tật thì lại không được. Hoặc

trong khi bệnh tật làm chủ được, đến khi chết lại làm chủ chẳng được. Muốn làm chủ khi

sống cũng như khi chết, tất phải tham thiền. Dụng công như vậy, một phần công phu sẽ mang

lại một phần thâu hoạch, mười phần công phu sẽ có mười phần thâu hoạch. Có câu nói: "Ông

tu ông chứng, bà tu bà chứng," ai tu người ấy chứng, chẳng tu thì chẳng chứng. Giá trị tu

hành phải dựa vào chính công phu chân thật của mình, có như vậy thì mới đi lại tự do, tâm

thể thanh thản, bởi vì trong thế gian không hề có chuyện không công lao mà được thâu hoạch.

Ngày thứ 2:

Chúng ta có thể thấy rõ rằng, mục đích của tu Tổ Sư Thiền chính là làm ngưng lại dòng tâm

ý thức (thường lưu) trôi chảy liên tục trong tâm con người từ thời vô thủy. Chư Tổ sư dùng

cơ xảo, phương tiện linh hoạt để làm bức phá bức màn vô minh từ thời vô thủy, chấm dứt tất

cả vô minh, thấu suốt giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp chất.

Bản thể chân tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất giác, vô minh sinh

khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, thành ra có ta, có người rồi từ đó khởi niệm đối đãi, dòng

ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng dày đặc, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi tạo nghiệp

vay trả trả vay. Ngày nay tu tập tham thiền, khai ngộ bản tâm chính là quay trở về chân tâm

thanh tịnh vốn có của mình vậy.

Ở trong buổi giảng: “Không trừ vọng tưởng thì Chẳng thể khai ngộ”, ngài dạy:

Mục đích của tham Thiền là để khai mở trí tuệ, cầu giải thoát. Chúng ta phải chuyên

tâm trì chí tham câu: Ai là người niệm Phật?” Khi tham tới cực điểm, quý vị sẽ quên

bẵng tất cả mọi vọng tưởng –quên ăn uống, phục sức, ngủ nghỉ, và thậm chí quên cả

đại, tiểu tiện! Lúc bấy giờ, “gió thổi không lọt, mưa rơi không thấm,” quý vị chỉ miên

mật tham chữ “Ai” mà thôi! Một niệm duy nhất này kiên cố như Kim Cang, không gì

phá hoại nổi. Bấy giờ cũng là lúc quý vị thể nghiệm được trạng thái “trong không có

thân tâm, ngoài chẳng có thế giới” –mình cùng vũ trụ đã hợp thành một thể.

Khi tâm tư trụ vào câu hỏi này thì ta đánh bạt hết thảy mọi vọng tưởng thường có,

thường khởi niệm trong đầu, lâu dần đến công phu miên mật, lúc đó nghĩa là trong tâm ta chỉ

còn lại một chữ “Ai”. “Ai” cũng là vọng tưởng trong đầu, nhưng vọng tưởng này sẽ hàng

phục, dứt sạch tất cả các vọng tưởng khác, để rồi ngày đêm 24 giờ không giây phút gián

đoạn công phu tham “Ai” đây luyện được thành khối. Ngài dạy: “Tham miết sẽ tự nhiên

khai ngộ, tham cho đến lúc “sơn cùng thủy tận”, tự nhiên sẽ có tin vui, cảnh giới “hoa

tươi dưới liễu” sẽ xuất hiện trước mắt”. Công phu tham thiền sẽ dẫn tới chánh định,

chánh thọ, cũng gọi là Tam muội. Nếu như chứng được thì đây là cảnh giới “như như

bất động, liễu liễu thường minh”. Quả thật là một phen khổ công, tinh tấn vượt mực,

trong tâm không một vọng tưởng, cho đến lúc “một niệm chẳng sanh toàn thể hiện”,

cuối cùng thấy được “bổn lai diện mục, bổn địa phong quang”.

H.T Khai thị:

Thiền là cách điều hòa thân và tâm. “Điều thân” tức là làm cho thân không loạn động. “Điều

tâm” là làm cho tâm không khởi vọng tưởng, thường thường thanh tịnh. Hễ tâm thanh tịnh thì

tận hư không và khắp cả Pháp giới, mọi thứ đều nằm trong tự tánh. Tự tánh bao hàm mọi thứ,

dung nạp mọi thứ, và cũng chính là Phật tánh xưa nay của chúng ta.

Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này tiếp đời kia, chúng ta bị những thứ kiến giải sai lầm, bị mê

nhiễm quá sâu dầy nên không dễ dàng minh tâm kiến tánh. Bởi vì lý do ấy, chúng ta mới “đả

thiền thất”. “Đả thất” gọi là “khắc kỳ thủ chứng” tức là đặt ra một thời gian nhất định, một

quá trình nhất định để dụng công, cầu đạt được sự thấu triệt sáng suốt.

Một khi quý vị tìm lại được thật tánh của mình, một niệm linh quang có thể triệt chiếu trời

đất, quý vị cùng mười phương ba đời chư Phật chẳng hề khác biệt. Vì sao chúng ta không thể

chứng đắc Tam Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông? Vì kẻ phàm phu chúng ta vọng tưởng

quá nhiều, do đó trí huệ bị che khuất, chẳng có quang minh thành ra vô minh. Cả ngày cứ

khởi mê hoặc, tạo nghiệp, nên thọ nhận qua báo đau khổ trong vòng sinh tử.”

Nếu quý vị muốn chân chính thấu triệt, thông suốt thì trước hết quý vị phải học làm như

không biết gì cả. Trong thiền đường, lúc dụng công, quý vị dùng phương pháp gì?

Phương pháp “không biết” –trên không biết có trời, dưới không biết có đất, ở giữa

không biết có người. Từ sáng đến tối, quý vị làm gì? Không biết! Ăn thức gì? Không

biết! Mặc áo gì? Không biết!

Cũng như đang hôn trầm, cái gì cũng không biết. Có câu:

Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo,

Học đáo như ngu thủy kiến kỳ.

Nghĩa là: Nếu quý vị làm sao thành như người ngu đần nhất thế giới, thì lúc ấy mới sinh

ra sự xảo diệu. Bấy giờ thì:

Nhất thông, nhất thiết thông,

Nhất liễu, nhất thiết liễu,

Nhất ngộ, nhất thiết ngộ.

Nghĩa là:

Thông suốt một, thông suốt hết thảy.

Tỏ rõ một, tỏ rõ hết thảy,

Giác ngộ một, giác ngộ hết thảy.

Lúc ấy quý vị sẽ thông suốt mọi sự và triệt để khai ngộ. Quý vị đã học được gì? Cũng không

biết, hệt như người khờ vậy. Song ngay lúc ấy, việc kỳ diệu mới hiện ra.

Ngày thứ 3:

Thiền đường nằm trong khu nhà cũ thuộc khu Tăng xá, gồm hàng trăm phòng nhỏ khác nhau

và Thiền đường là phòng lớn nhất, khoảng 600m2. Chính giữa là khám thờ Phật bọc kín, có

mái che trên, và chung quanh phòng theo hình chữ U thì có các khám ngồi thiền khoảng 1m,

cách ngăn với nhau bằng màn vải, và các thiền sinh thì ngồi trong đây. Một số chư tăng thì

ngồi bên ngoài, ai muốn vào trong khám này ngồi cũng được. Tên các thiền sinh được ghi rõ

mỗi nơi ngồi, để điểm danh.

Mỗi sáng sớm trước 4 giờ tăng chúng và Phật tử đã tụ tập và đi kinh hành chung quanh

Thiền đường. Sau đó tiếng mõ vang lên và mọi người bắt đầu chạy. (Sự tích của việc chạy

thiền (bão hương) được H.T kể lại bên dưới. Khoảng hơn 1 vòng thì tiếng mõ vang lên và mọi

người dừng lại, rồi đi vào chỗ thiền tọa của mình mà ngồi. Buổi ngồi thiền đầu tiên trong 1

ngày bắt đầu từ 4.00am đến 6.00am.

Đã là ngày thứ 2 mà tôi vẫn chưa quen với thế ngồi. Khoảng nữa tiếng sau là tôi bắt đầu cảm

thấy đau nhức nơi chân ghê gớm. Có lẽ anh tôi nói đúng, do vì từ trường nơi đây rất thanh

tịnh nên khi ngồi kiết già ở đây rất mau đau chân. Qua ngày thứ nhất và ngày thứ 2 tôi mới

cảm nhận được điều đó. Bình thường ở Thái, tôi có thể ngồi đến hơn tiếng mới cảm thấy đau

nhức toàn thân. Tuy nhiên khi ngồi nơi đây thì chỉ khoảng 25-30 phút là tôi cảm thấy đau

không thể chịu được. Thật là quái lạ!

Ban đầu đau quá, không chịu được tôi bỏ chân xuống và ngồi xếp bán già. Nhưng những lần

sau đó, khi hiểu ra được sự quan trọng và cần thiết của việc chịu đựng cơn đau và làm quen

với cơn đau, tôi cố gắng chịu đựng, mím môi, nghiến răng, khom người xuống phía trước, và

cố gắng chịu đựng cho đến khi không thể chịu đựng được nữa. Quả là một sự chiến đấu kinh

hoàng đối với cái đau của xác thân và cái đụng với bản ngã. Từ đó, vọng tưởng tôi khởi lên

một bài kệ về đau như vầy:

Mới đầu đau, thấu xương đau, đáng sợ đau,

Nhẫn chịu đau, tập quen đau, coi thường đau,

Ngày ngày đau, kết thân đau, thú vị đau,

Nghiệm ra đau, đau, đau, đau, có gì đau!

Trải qua bao kiếp sống, trải qua suốt mấy mươi năm trong cuộc đời, dường như tôi chưa

từng dám làm trái ý xác thân này bao giờ. Thay vào đó chỉ cung phụng và nuông chìu cho

thân, từ ăn uống tìm những món ngon, vị ngọt cho thân, cho đến áo quần, y phục hoặc làm

cho thân được thoải mái, sung sướng, khoái lạc. Nay thì làm cho thân khổ nhọc, đau đớn xé

ruột buốt xương. Tôi không thể diễn tả hết cái đau này, nhưng quả thật là nó thấm thía làm

sao trên bước đường tu hành. Khi học Phật, tụng kinh, lễ lạy người tu hành đã thấy khó và

mệt nhọc rồi, nhưng khi ngồi thiền và vượt qua cửa ải đau đớn này, có lẽ còn khó hơn rất

nhiều lần. Có lẽ vì vậy mà ít người dám hướng về sự tu thiền chăng?

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Việc tọa Thiền quả thật rất là quý báu. Không biết phút giây nào quý vị sẽ khai ngộ, do đó

phải tranh thủ từng phút từng giây, không để trôi qua giây phút nào. Nếu đi vệ sinh thì xong

rồi phải lập tức quay về Thiền-đường, tiếp tục ngồi. Tới nhà ăn, ăn uống xong cũng tức khắc

quay về Thiền-đường; hoặc uống xong trà cũng lập tức quay về Thiền-đường. Nói tóm lại,

quý vị chớ bỏ qua cơ hội khai ngộ vì không biết lúc nào sẽ là lúc khai ngộ. Nói cách khác, đi

nhiễu, chạy hay ngồi Thiền đều là cơ hội tốt để khai ngộ, chớ để vuột mất.

Vào đời nhà Thanh, có lần Hoàng-đế Ung Chính mời vị Phươngtrượng Chùa Cao Mân là

Thiên Huệ Thiền-sư tới Bắc-kinh để đàm luận Thiền-lý. Hoàng đế hỏi Ngài có biết tông chỉ

của Ngọc Lâm Quốc-sư chăng, thì Ngài không trả lời được. Hoàng đế bèn ra lệnh cho Ngài

phải ở lại Thiền-đường và trong vòng bảy ngày phải tìm cho ra đáp án, nếu không sẽ bị chém

đầu.

Suốt sáu ngày, Ngài tìm không ra đáp án. Ðến ngày cuối cùng vì gấp rút khẩn trương quá nên

Ngài chạy vòng vòng trong Thiền-đường. Chạy tới chạy lui làm cho Ngài choáng váng mặt

mày đâm đầu vào cột trụ, đầu u lên một cục! Ngay lúc ấy tâm trí đột nhiên sáng suốt, Ngài

tìm ra được đáp án. Ngài bèn đến gặp Hoàng đế. Vua Ung Chính biết là Ngài đã lãnh hội

được tông chỉ của Ngọc Lâm Quốc-sư rồi. Từ ấy về sau mới có lệ chạy vòng (tức bão hương)

trong Thiền-đường.

Thiền-đường có hành-hương, bão-hương, tọa-hương và tham thoại đầu. Hành-hương tức là

bước mau. Bão-hương là chạy chầm chậm. Tọa-hương là ngồi Thiền. Tham thoại đầu là

nghiền ngẫm về một vấn đề. Như tham câu "Ai Niệm Phật?" Nhất tâm nhất ý tham cứu câu

đó, tham cứu đến chỗ nhất tâm bất loạn, nhất trần bất nhiễm (chẳng một mảy bụi nào làm

mình vẩn đục) thì đó là lúc khai ngộ vậy. Ðó là những phương pháp dùng để ngăn ngừa, đình

chỉ vọng tưởng. Không có vọng tưởng thì mới có giác ngộ. Mục đích tọa Thiền là để khai

ngộ. Sau khi khai ngộ thì mới có trí huệ siêu phàm.

Bởi vậy, chư Tổ nghiên cứu phương pháp "dĩ độc công độc," dùng việc tham thoại đầu để

khống chế vọng tưởng, tức là dùng một vấn đề để khống chế tất cả các vấn đề khác. Tham

thoại đầu gì? Tham câu "Niệm Phật Là Ai?" Khi nào quý vị tìm ra "ai," hiểu biết rốt ráo "Ai

Niệm Phật?" thì lúc ấy mới chân chính thấu suốt. Thấu suốt gì? Thấu rõ phải xa rời mọi thứ

điên đảo, thị phi. Tâm Kinh dạy rằng: "Xa rời điên đảo mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết

Bàn."

Quá trình này đòi hỏi phải trải qua một phen khổ công mới thành tựu nổi. Nếu tôi nói quá

nhiều sẽ làm gián đoạn công phu của quý vị. Tốt hơn hết là quý vị hãy theo qui củ luật lệ,

chân thật dụng công tu hành. Có một điều quý vị cần hiểu rõ là trong "Tam Tự Kinh" có câu:

"Quý dĩ chuyên." (Quý ở sự chuyên cần.)

Bất luận làm việc gì, nếu có thể chuyên tâm nhất ý, thì kết cuộc sẽ thành công. Cũng vậy, khi

tham thoại đầu, chỉ nghĩ tới một câu -sáng nghĩ, chiều nghĩ, ăn nghĩ, ngủ cũng nghĩ, đi cũng

nghĩ, ngồi cũng nghĩ về câu đó; nếu chưa nghiền ngẫm tới chỗ "biển cạn, đá nứt" thì chẳng

bỏ cuộc. Nói cách khác, "chưa khai ngộ, thì chưa ngừng nghỉ." Chỉ nghĩ đến một vấn đề mới

là chân lý, còn suy nghĩ nhiều vấn đề quá thì là vọng tưởng. Có hai câu thơ thật đầy ý nghĩa:

“Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du,

Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp.

(Nếu ai tĩnh tọa chỉ một sát-na,

Còn hơn xây hằng sa tháp bảy báu.)

Ðó là hình dung công đức ngồi Thiền: nếu người ngồi Thiền có thể tịnh tâm chỉ trong một

khoảnh thời gian ngắn ngủi thôi thì công đức ấy so với công đức xây hằng hà sa số tháp bảy

báu còn nhiều hơn gấp bội. Bởi vì tạo ra vô số tháp bất quá cũng để cúng dường Xá-lợi của

Phật; song nếu tĩnh tọa chỉ trong giây lát, có thể tạo ra chânthân của Phật. Do vậy, tĩnh tọa chỉ

một sát-na mà hơn xây nhiều tháp bảy báu.

Nếu tĩnh tọa trong khoảnh khắc mà công đức lớn như vậy, thì hàng ngày tĩnh tọa, công đức

càng khó kể xiết. Nếu trong một thời gian ngắn ngủi quý vị chẳng khởi vọng tưởng, tâm được

thanh tịnh, thì dần dà quý vị sẽ trở nên "trạm nhiên thường tịch."

Ngày thứ 4:

Chùa Vạn Phật được xem là nơi đào tạo thiện tri thức cho thế gian, nên thường xuyên tổ

chức những thiền thất, những khóa nhập thất chuyên niệm Phật cho tứ chúng. Nơi đây còn

được gọi là nơi đãi vàng, nơi sàng lọc những con người muốn thành Phật, thành bậc thánh

nhân, nên lò luyện nơi đây thật gắt gao. Không qua nổi lò luyện kim nơi đây thì thật khó có

thể trở thành vàng tốt được.

Khi vào và sống ở đây một thời gian và trải qua các chuẩn mực sinh hoạt và huấn luyện nơi

này, tôi có cảm giác như đây là một trường đào tạo quân sự đúng nghĩa. Họ sống theo kỷ

luật, nội quy một cách nghiêm khắc đến lạnh lùng. Tình cảm dường như không có mặt trong

các sinh hoạt giao tiếp, tương quan lẫn nhau trong đời sống. Mỗi người đều phải sống riêng

biệt với riêng thế giới của mình, dành trọn đời sống vào sự suy nghiệm và kiếm tìm giải

thoát; không ai được xâm phạm, ngăn trở hoặc làm phiền đến sự tu học của người khác, và

ai ai cũng chấp hành các quy củ, chuẩn mực trong tòng lâm một cách nghiêm túc nhất.

Với đường hướng giáo dục khắt khe như vậy, tôi tin rằng Vạn Phật Thánh Thành đã thành

công về mặt hình ảnh, danh tiếng trên bước đường hoằng pháp, mang Phật giáo vào xã hội

Hoa kỳ. Tuy nhiên do không công khai quảng bá và mở rộng mà chỉ để tùy duyên, nên pháp

môn tu này của Vạn Phật Thánh Thành vẫn chưa được truyền bá đến những nơi khác ở Hoa

Kỳ và trên thế giới.

H.T Tuyên Hóa dạy:

Tại đạo tràng, tệ hại nhất là không chịu tu hành, đáng quý nhất là sự nghiêm chỉnh tu tập. Ai

không tu thì tương lai kẻ đó bị đi xuống; ai tu hành thì tương lai sẽ đi lên. Người ta nói:

"Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt," nên chúng ta tu tập ở đạo tràng, phải từng giờ từng

khắc thận trọng, phải dẹp bỏ những ý nghĩ tà tri tà kiến giống như những hạng đầu cơ chỉ biết

mánh lới để an thân.

Tu hành phải dựa vào công phu thật sự của mình, thì mới có giá trị chân thật, tức là khai mở

trí huệ. Nếu công phu chẳng chân thật, thì chẳng có gì là thành tựu được, bất kể kẻ đó là ai.

Tại đạo tràng, ai giải đãi, ai tinh tấn, người tinh mắt trông thấy hết. Người nào giải đãi sẽ

không có hy vọng gì thành tựu, bởi lẽ người đó không để tâm vào tu hành.

Ngày thứ 5:

Thời gian tham dự khóa Thiền thất tuy ngắn, nhưng cho tôi nhiều kinh nghiệm thực tế quý

báu về một dòng phái Thiền thoại đầu còn tinh nguyên, được truyền thừa và có sự chứng đắc

của những bậc tổ sư, những bậc được xem như Thánh tăng trong thời hiện đại. Điều này gia

cố thêm niềm tin về sự tu hành trong tôi, về con đường giải thoát mà suốt gần ba mươi năm

qua tôi loanh quanh khát ngưỡng tìm cầu. Phật pháp có vô lượng pháp môn đưa đến khai

ngộ và giải thoát, chấm dứt luân hồi sanh tử, nhưng pháp môn nào tạo cho ta niềm tin bất

thối, tha thiết tu hành, tinh tấn dụng công, sớm chứng nhập vào pháp tu thì pháp môn ấy thù

thắng nhất. Như vậy qua khóa tu này, tôi thấy rằng mình quả thực đã có được cơ duyên hy

hữu đi tham bái và thể nhập được một pháp tu kỳ đặc là Thiền pháp thoại đầu, một pháp tu

còn nguyên sơ, truyền thừa trực tiếp từ đức Phật Thích Ca đến chư Tổ sư Trung Hoa không

bị gián đoạn, cho đến ngày nay khai ngộ cho nhiều hành giả và các bậc đạo sư cận đại, trong

đó có Hòa thượng Hư Vân tổ sư của 5 tông phái Phật giáo Trung hoa và sau ấn chứng cho

Hòa thượng Tuyên Hóa như là tổ sư đời thứ 9 dòng thiền phái Quy Ngưỡng.

Trong thiền thất, tôi chứng kiến một số hành giả Phật tử Việt Nam tu trong VPTT khoảng 7

năm và có công phu hành thiền rất thâm hậu. Các vị này có thể ngồi thiền nhập định từ lúc 4

giờ sáng đến giờ ăn trưa sau 7 tiếng, hoặc có lúc ngồi cả ngày. Một vị thầy trẻ từ Thái Lan

qua được hơn 3 năm nay cũng thường khi nhập định một lúc 7 giờ từ sáng sớm đến trưa.

Thân thể thầy ấy khi nhập định thật là đoan nghiêm, chánh tọa. Khi vào định thông thường

thân thể người hành thiền lúc ấy tự dưng bỗng được sắp xếp lại trong một tư thế cố định,

lưng thẳng hai tay xếp lại, hai ngón cái nối liền nhau hình vòm nhẹ nhàng, trang nghiêm.

Còn vị thầy trụ trì và một số Tăng/Ni khác trong VPTT thì có thể nhập thiền lên đến 36 ngày

trong một lần. Đây là điều phi thường mà tôi chỉ có thể thấy và thật sự được biết khi đến

VPTT.

Để có thể nhập định, thông thường chúng ta cần phải ngồi kiết già. Tư thế ngồi này gọi là

Hàng ma tọa, Kim cang tọa hay Liên hoa tọa. Ngài dạy: “Tư thế này có thể giúp tiêu trừ

nghiệp chướng trong vô lượng kiếp, khiến liễu sanh thoát tử và tạo được vô lượng công

đức. Khi ngồi xong, ta hãy điều chỉnh thân thể -mắt nhìn xuống chót mũi, từ mũi nhìn

xuống miệng, từ miệng nhìn xuống tâm. Đó là bí quyết để chế phục vọng tưởng, sau đó

mới điều hòa hơi thở -đừng mau, đừng chậm- hãy thở một cách tự nhiên. Lúc này ta

mới tham ngẫm câu ‘Ai là kẻ niệm Phật?” Trải qua một thời gian dài, việc tham thiền

sẽ có tác dụng.”

H.T Tuyên Hóa dạy:

Tại Vạn Phật Thành, bất luận là người xuất gia hay tại gia, nếu không có chuyện cần thì đừng

tới phòng ngủ của kẻ khác. Bởi vì bạn đến phòng tôi nói chuyện này chuyện nọ, rồi tôi tới

phòng bạn nói chuyện thị phi thế nọ thế kia, thì sẽ lãng phí thời giờ, vô ích. Bạn không tu

hành thì cũng được, nhưng bạn không thể chướng ngại kẻ khác tu hành! Chướng ngại người

tu hành thì tương lai sẽ bị đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn chẳng thể khôi phục được thân

người! Ðã phát tâm tu Ðạo thì mình cần phải giữ tâm chuyên nhất, đặc biệt tiếc nuối thời

gian, cho nên nói rằng:

"Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,

Thốn kim nan mãi thốn quang âm."

(Một phút thời gian, một tấc vàng,

Vàng sao mua đặng phút thời gian?)

Lại nói rằng:

"Thất lạc thốn kim dung dị đắc,

Quang âm quá khứ nan tái tầm."

(Tấc vàng mất đi dễ kiếm lại,

Thời gian qua mất khó lòng tìm!)

Các vị cần phải nuối tiếc thời gian! Phàm là người tu Ðạo thì phải tranh thủ thời gian, đừng

để lãng phí. Biết đâu trong một phút nào, một giây nào đó, các vị có thể có cơ hội khai ngộ!

Ở Vạn Phật Thành, trong lúc ăn cơm không được nói chuyện. Trước khi ăn, đại chúng niệm

bài tụng cúng dường có câu: "Tán tâm tạp thoại, Tín thí nan tiêu." Nghĩa là nếu tâm tán loạn,

nói tạp nhạp, thì sẽ khiến cho đồ cúng dường của thí chủ khó tiêu hóa đặng. Tuy niệm như

vậy nhưng tại sao mình không giữ quy củ?

Người ta nói rằng:

"Vô quy củ bất thành phương viên."

(Không có quy củ thì chẳng thành nề nếp được.)

Không giữ quy củ thì làm sao có trí huệ? Làm sao khai ngộ được? Cho nên Ðức Khổng Tử

từng nói rằng: "Thực bất ngôn, Tẩm bất ngữ." (Ăn thì không nói, Ngủ thì không mớ.) Ở trong

Trai Ðường, khi ăn không nên nói năng ồn ào, chỉ nên chăm chú ăn; như thế thì không những

hợp với quy củ mà còn hợp vệ sinh nữa. Vì ăn từ từ, nhai kỹ lưỡng thì dễ tiêu hóa, có lợi cho

sức khoẻ!

Ngày thứ 6:

Bậc cổ đức, chư Tổ sư có dạy, Thiền đường là nơi tuyển Phật, vì chính nơi đây tích tụ phước

điền, công đức đệ nhất, nên các ngài nói:

Chỉ trong giây lát ngồi tĩnh tọa,

Hơn xây hằng sa tháp bảy báu.

Bởi vì việc xây dựng chùa tháp chỉ là công đức hình tướng, hữu lậu, vì chùa tháp lâu ngày

cũng sẽ bị biến hoại, chịu sự vô thường theo thời gian. Nên tronh kinh Kim Cang có câu:

“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như

Lai. Nghĩa là: Phàm có tướng đều là hư vọng, Nếu thấy mọi tướng không tướng, tức

thấy Như Lai.”

Ngồi tĩnh tọa thiền định có thể soi chiếu và thấy lại tự tánh Tam bảo, kiến tánh, giác ngộ bổn

tâm và đây là công đức Vô lậu tối thượng, công đức vô tướng. Công đức này có giá trị gấp

muôn vạn lần hơn công đức hữu tướng.

Ngồi tư thế Hàng ma thời gian đầu rất đau và chính điều này làm cho người tu e ngại. Bởi vì

ngồi thiền theo thế bán già thì chân không đau lắm, nhưng nếu phải ngồi kiết già từ giờ này

sang giờ khác thì cơn đau sẽ kéo đến và hành hạ chúng ta dễ sợ. Trong thời gian từ nửa giờ

đến 1 giờ đồng hồ đầu tiên, chúng ta sẽ chịu cơn đau xé thịt, xé gan và lúc đó chúng ta theo

phản xạ khi đau sẽ để chân xuống. Nhưng nếu vậy thì chúng ta sẽ không có sự tiến bộ trên

con đường tu thiền. Thế nên đúng theo pháp của H.T Tuyên Hóa dạy, chúng ta sẽ cố gắng

chịu đau để cho qua cơn đau này. Ngài dạy:

Tham thiền phải có đủ nhẫn nại vì nhẫn nại là vốn của sự khai ngộ. Tỷ như người làm ăn

buôn bán phải có vốn liếng thì việc kinh doanh mới phát triển và được lời nhiều. Chúng ta

tham thiền phải khắc phục được cửa đau; vượt qua được cửa đau rồi thì con đường sáng sủa

rộng mở, dẫn thẳng đến cảnh giới minh tâm kiến tánh. Khi chưa qua được cửa ải này thì vẫn

còn trong tình trạng “sơn cùng thủy tận, đường tắc ngẽn”, vượt qua được thì cảnh giới “dưới

liễu hoa tươi, lại một thôn”. Nên có câu rằng:

Không xả được tử, không đổi được sanh

Không xả được giả, không thành được chân,

Không xả được khổ, không đạt được lạc.

Chúng ta tham thiền phải có một tinh thần như vậy mới có hy vọng thành không. Phải phá

được cửa gian nan khốn khổ mới thấy được cảnh giới thực tại.

Nắm rõ bí quyết như vậy, khi tọa thiền và những cơn đau kéo đến, tôi mím chặt môi, đôi khi

nghiến răng để chịu đựng chứ không bỏ chân xuống, có đôi lúc chịu hết nổi tôi cũng phải bỏ

xuống nhưng đa phần là tôi có thể chịu đựng được những cơn đau này. Hoặc có lúc tôi làm

vài động tác cử thân, nghiêng qua lại hoặc khom mình tới trước để giảm bớt cơn đau và nhẫn

nhịn kéo dài từng giây cho đến hết giờ ngồi thiền.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Ðời Người Như Giấc Mộng, Hãy Thức Tỉnh! Tại thế giới này con người lại buông cái chân

thật để nắm giữ cái giả dối, do đó đời đời kiếp kiếp quay lưng với sự giác ngộ để hoà hợp với

bụi trần, túy sanh mộng tử. Túy sanh: có nghĩa rằng trong lúc sống thì như kẻ uống rượu say,

không biết mình từ đâu sanh về đây. Mộng tử: có nghĩa rằng đến lúc chết thì như kẻ đang

nằm mộng, không biết chết sẽ về đâu. Ai ai cũng sống trong mộng. Lấy cái giả mà cho là

thật, ham danh ham lợi, lòng tham không bao giờ ngừng dứt.

Ở trong mộng thì bạn thấy mình làm quan, hoặc phát tài, hoặc có địa vị, quyền lợi, danh dự,

hoặc có vợ đẹp thiếp xinh, con cái đầy nhà, vinh hoa phú quý, hưởng thọ không hết. Giả như

trong lúc mộng ấy mà có người nói với bạn rằng: "Ông ơi! đây chỉ là hư vọng thôi, không

phải thật đâu," thì bạn sẽ chẳng bao giờ tin. Chờ đến khi bạn tỉnh dậy rồi thì chẳng ai nói với

bạn là bạn đã nằm mộng, bạn cũng biết rõ là mình vừa trải qua một giấc chiêm bao.

Ðêm qua nằm mộng thấy đậu trạng nguyên, làm tể tướng, làm hoàng đế, thành thần tiên,

hạnh phúc vô cùng. Ngày hôm nay tỉnh lại: "Ôi! Tất cả chỉ là một trường xuân mộng!" (xuân

mộng tức là giấc mộng rất ngắn ngủi). Ðó là sự tỉnh thức. Nếu không tỉnh mà chọn mộng là

thật, thì sẽ tham luyến, không buông bỏ, chấp trước sự mê mờ, và chẳng bao giờ được giác

ngộ. Bây giờ mình chính là đang chiêm bao giữa ban ngày mà chưa thức tỉnh, do đó sống một

cách hồ đồ, rồi cũng hồ đồ mà chết đi. Sanh ra đây là từ đâu tới? Chết rồi mình sẽ đi đâu?

Không biết! Cả một đời chẳng bao giờ tỉnh. Các vị hãy nghĩ xem, như vậy thì có ý nghĩa gì?

Có gì mình phải lưu luyến? Có gì đáng để mình không buông bỏ tất cả?

Cả đời mình đều bị sợi dây tam độc và ngũ dục trói buộc vô cùng chặt chẽ đến nổi không có

tự do để chuyển hóa bản thân, thì đừng nói chi đến chuyện giải thoát. Do đó bạn phải phát

tâm xuất gia tu đạo, dụng công ngồi thiền, nổ lực lạy Phật, tức là mình tự cởi mở sợi dây tam

độc và ngũ dục, cuối cùng sẽ có một ngày sẽ được hoàn toàn giải thoát. Lúc ấy mình sẽ thức

tỉnh, quay đầu nhìn lại những điều mình đã làm trong quá khứ đều hoàn toàn như ảo mộng,

tất cả đều chẳng phải là chân lý.

Nay thức tỉnh rồi mình mới thoát ra khỏi vòng tam giới, không còn bị hạn chế trong sanh tử,

tự do muốn sanh thì sanh, muốn chết thì chết, tự do tới và đi theo ý mình. Ðó mới là chơn

chính giải thoát, đó là: "Ðại mộng sơ tỉnh" vậy.

Thói thường chúng ta cứ giữ chặt cái hư giả dối trá mà quên mất cái chân thật. Thế nào là cái

hư giả dối trá? Chính là sự khoái lạc sung sướng của ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Thế

nào là cái chân thật? Tức là sự sung sướng của Niết-bàn ở trong bốn đức: thường, lạc, ngã,

tịnh. Song le con người rất quái lạ, điều chân thật mất đi thì không sợ, nhưng khi điều giả dối

mất đi thì lại sợ hãi vô cùng. Vì sao vậy? Bởi vì người đời ai cũng nhận giặc làm con, bỏ gốc

chạy theo ngọn, lấy cái giả cho là thật, không thức tỉnh, do đó vẫn còn trong mộng, tham

luyến cảnh giới của giấc chiêm bao.

Bởi do nhân duyên mình dấy khởi sự mê mờ, tạo ra ác nghiệp rồi thọ sự báo ứng, giống như

một hạt bụi bay lượn trên không trung, không tự làm chủ mình được. Hạt bụi ấy cứ tùy theo

nghiệp lực rồi luân chuyển trong lục đạo luân hồi không lúc nào ngừng nghỉ. Cho nên nói

rằng:

"Ðả bất phá danh lợi quan,

Khiêu bất xuất luân hồi khuyên,"

nghĩa rằng:

“Đánh không sập cửa danh lợi,

Nhảy không thoát vòng luân hồi.”

Ðến lúc nào bạn không bị cảnh giới làm động tâm, lúc ấy bạn mới thoát ly khỏi cái vòng lục

đạo luân hồi.

Ngày thứ 7:

Như vậy trong giai đoạn điều thân mà chúng ta vượt qua được, để sau này có thể tự tại tọa

thiền trong thế kiết già 5-7 tiếng cho đến vài ngày cũng là một điều phi thường mà ít có

người nào trên thế gian làm được. Những Phật tử nào chưa từng tu tập tọa thiền kiết già, thì

cũng nên thử qua cho biết cảm giác đau đớn này như thế nào, để nhìn lại cái bản ngã của

mình phản ứng ra sao khi đối diện cơn đau. Riêng tôi sau 3 tuần hành thiền miên mật, tôi

thấy mình tiến bộ rõ rệt trong sự điều thân, dù rằng thời gian ban đầu tôi nghĩ là chắc mình

không thể qua khỏi cửa ải thứ nhất.

Cơn đau đầu tiên sẽ kéo đến trong vòng từ nửa giờ đến 1 giờ nếu qua rồi, thì từ nửa giờ thứ 2

đến cuối giờ thứ 2 chúng ta sẽ trải qua cơn đau nữa, tuy không dữ dội như trước. Rồi từ giữa

giờ 3 đến giờ thứ 4 cũng sẽ trải qua một cơn đau như vậy. Nếu việc điều thân trong khi ngồi

thiền như vậy được điều phục sau một thời gian từ 1 đến 3 năm, chúng ta sẽ thong dong nhập

vào cảnh giới thiền định mà không sợ đau chân, mỏi lưng và khổ sở khi đến giờ hành thiền.

Thay vào đó cảm giác bình an, thanh tịnh và hỷ lạc hoàn toàn thẩm thấu và tỏa sáng trong

tâm thức của hành giả suốt thời gian hành trì. Khi ấy chúng ta sẽ có thể an lạc chìm mình

vào trong cảnh giới thiền định nhiều giờ liền trong ngày hoặc có thể nhập định đến vài ngày.

Thiền sinh trong VPTT kể lại với chúng tôi như vậy.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Kỳ này thiền thất bắt đầu, hy vọng các bạn đem hết tinh thần để tham thiền. Các bạn hãy phát

tâm dũng mãnh để tham thiền. Lúc nào cũng nhớ tham thiền, nhớ làm thế nào để “liễu thoát

sanh tử”, và phải quên ăn uống để tham thiền. Nếu chưa khai ngộ thì chưa ngừng nghỉ. Nên

có nguyện lực cứng rắn như kim cương vậy.

Nếu có người mắng nhiếc, bạn coi như không nghe thấy gì họ. Nếu có người đánh đập, bạn

coi như chẳng có cảm giác gì. Ăn hay không ăn cũng chẳng biết, ngủ hay không ngủ cũng

chẳng hay. Nếu bạn đạt được cảnh giới như vậy thì bạn sẽ biết ngay những công phu, những

chuyện mình làm xưa kia, chỉ là hời hợt ngoài da. Tới ngày hôm nay bạn mới thật là hiểu rõ

tham thiền ra sao.

Bắt đầu thiền thất tôi nói mấy câu thô thiển đơn sơ với các bạn, nhưng nếu các bạn hiểu được

thì sẽ có ích lợi lớn. Nếu các bạn không hiểu thì cũng sẽ giúp ích rất nhiều. Có người hỏi:

giúp ích như thế nào? Bây giờ tôi chưa thể nói cho các bạn nghe được vì khi các bạn hiểu rồi

sẽ lại sanh ra chướng ngại, không thể tiến bộ. Bây giờ tôi nói mấy câu, hy vọng các bạn chú ý

nghe. Bốn câu thơ như vầy:

“Phạn ngữ thiền na ba-la-mật

Thử vân tịnh lự tế tiến tham

Sơn cao thủy thâm vô sở úy

Thủy tri triên ngoại biệt hữu thiên.

Thiền tiếng Phạn gọi là Thiền-na ba-la-mật. Pháp môn này nếu tu hành tới chỗ viên mãn thì

sẽ đưa mình tới bờ bên kia của bể khổ. Trung Quốc dịch là tịnh lự, cũng còn gọi là tư-duy tu

(phép rèn luyện sự tư duy). Song le tịnh lự hay tư-duy tu, nếu muốn nghiên cứu một cách tỉ

mỉ thì cần phải soi thấu một cách sâu xa.

Thế nào là soi thấu? Là tham! Soi thấu câu "Niệm Phật là ai." Dù cho núi có cao, biển có sâu

tới mức nào mình cũng không sợ hãi. Tới lúc đó mình mới biết bên ngoài bầu trời này còn có

những bầu trời khác trùng trùng vô tận. Do đó mình phải miên mật tham không ngừng, tức là

soi vào câu "Niệm Phật là ai." Soi đi soi lại câu đó cho đến khi “Sơn cùng thủy tận nghi vô

lộ,” nghĩa là cho tới chỗ mình tưởng rằng, “Núi đã hết, sông đã cùng, không còn chỗ đi

nữa,” thì khi mình quay trở lại tự nhiên sẽ thấy “Liễu ám hoa minh hữu nhất thôn,”

Nghĩa là:

“Sẽ thấy xuất hiện một thôn trang,

Mà lớm đớm hoa trong tàng liễu.”

Ngài dạy tiếp: “Người tham thiền chân chánh dầu đã ăn hay chưa ăn cũng không nhớ; mặc đồ

hay chưa mặc, ngủ rồi hay chưa ngủ cũng không nhớ. Tham tới chỗ rốt ráo, trên thì không

biết có trời, dưới không biết có đất, chặng giữa không thấy có người, hòa với hư không làm

một, sống trong một cảnh giới vô nhân, vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả. Trong cảnh huống

đó thì dầu có đau chân cũng đâu ngại gì, đau lưng cũng không sợ vì sự nhẫn nại dụng công đã

giúp cho thiền giả vượt qua hết thảy mọi thứ…”

Ngày thứ 8:

Trong kinh tạng, những cảnh giới chứng đạt và những năng lực thần thông diệu dụng sau khi

thực chứng là điều được trình bày rải rác trong các kinh điển Đại thừa. Khi tâm được định

thì có thể dần dần nhập vào các cảnh giới của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền hay

các cảnh giới cao hơn, chứng thánh quả là điều có thể thực hiện được. Trong khai thị tập 5

ngài Tuyên Hóa diễn tả một cách rất đầy đủ và chỉ tiết về các trạng thái của thân thể khi

nhập vào các tầng thiền này như sau:

Sơ thiền còn gọi là “Ly sanh hỷ lạc địa”. Đây là trạng thái đưa dẫn hành giả lìa hẳn cảnh giới

chúng sanh, nên đạt được một trạng thái khoái lạc. Khoái lạc này không giống khoái lạc của

phàm phu, bởi nó là công phu do tự tánh mang lại. Khi nhập sơ thiền, hơi thở ngưng lại. Đây

là nói ngoại hô hấp đình chỉ, nhưng nội hô hấp bắt đầu hoạt động, giống như hiện tượng ngủ

suốt mùa đông của các loài vật. Khi ấy, tâm thì trong suốt như nước, sáng như gương, soi

chiếu tới bổn thể của tự tánh, nhưng vẫn hay biết là mình đang ngồi thiền.

Nhị thiền, gọi là “Định sanh hỷ lạc địa.” Vào trong định này, hành giả kinh nghiệm một thứ

khoái lạc không gì sánh bằng, chính là “thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn”, bởi trong

cảnh giới này hành giả thấy khoái lạc quên luôn cả đói, có thể nhịn ăn, nhịn uống trong nhiều

ngày mà không có vấn đề gì. Tuy nhiên chớ chấp trước vào thành tựu đó. Như quả có ý như

vậy, công trình có thể tiêu tan, dễ đi vào cảnh giới ma, nên chúng ta phải cẩn thận. Trong

định này, không những hô hấp đình chỉ mà mạch cũng ngưng đập. Khi nào ra khỏi định, cơ

thể lại hoạt động bình thường.

Tam thiền gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa.” Hành giả lìa sự hoan hỷ trong nhị thiền, đạt tới một thứ

khoái lạc kỳ diệu không thể nói ra được, đồng thời cảm thấy hết thảy mọi thứ đều là Phật

pháp, mọi thứ đều là khoái lạc. Trong cảnh giới Tam thiền, cả hô hấp và mạch đều đình chỉ, ý

niệm cũng dừng lại. Khi ấy, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chẳng nghĩ phải, nghĩ quấy, một

niệm chẳng sanh. Tuy nhiên hành giả cũng đừng tự hào, vì đó chỉ là một chặng trên đường tu

mà thôi. Đến được chỗ liễu sanh thoát tử hãy còn xa lắm. Ngài nói, còn cách cả tám vạn bốn

ngàn dặm đường nữa.

Tứ thiền gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa.” Trong cảnh giới này, ngay cả niệm khoái lạc cũng

không còn, tất cả đều bị xả bỏ và hành giả đạt tới một trạng thái thanh tịnh, không còn gì phải

tạo tác. Đây cũng gọi là cảnh giới “vô vi vô sở bất vi”. Giai đoạn Tứ thiền cũng vẫn còn trong

phạm vi phàm phu. Phải tinh tấn dấn bước nữa, tới cảnh giới “Ngũ bất hoàn thiên” mới gọi là

chứng quả thánh. Còn không nếu chỉ đạt đến Tứ thiền mà nhận lầm là chứng quả thánh, như

Tỳ kheo Vô văn, phỉ báng đức Phật thì sau bị đọa vào địa ngục.

Cũng như những bài giảng chi tiết của ngài về Ngũ Ấm Ma, các hiện tướng của ma khi hành

giả đi vào thiền định mà trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật đã chỉ bày. Ngài đề cao kinh này,

nhắc nhở tu hành dựa theo kinh này, cho thấy kinh nghiệm tu hành chứng đạt ngày nay của

ngài đều trải qua các hiện tướng quấy phá của các loài ma và hiểm nguy khi chúng ta tu thiền

định. Tuy nhiên nếu người tu hành có tâm chân chánh, y theo pháp của Phật và các bậc đạo

sư khai thị, chân thành và thận trọng khi tu tập thì sẽ đến được bờ giải thoát an lành.

Ngày thứ 9:

Do 6 trần cảnh (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) bên ngoài bị khóa chặt, tôi không còn cơ

hội để phóng tâm ra bên ngoài nên trong những giờ nghỉ giải lao, hoặc sau khóa tu tôi đành

phải giam mình trở lại, thúc thủ chịu trận trong căn phòng 8m vuông, co ro trùm mình dưới

mấy lớp chăn bông dày cui, vừa vẫn còn run vẫn còn suýt soa. Lạnh ơi là lạnh! ban ngày đi

đâu hoặc khi ngủ tôi cũng phải đội chiếc mũ len trùm đầu, và quả thật đây là trải nghiệm một

đời người. 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của tôi bỗng nhiên hiền từ như ông “Bụt”,

không còn có tâm ý quậy phá và hướng ra ngoài, thay vào đó nó nhắn nhủ thì thầm với tôi là,

nên lấy kinh sách của Hòa thượng ra đọc và suy tư. Tâm viên ý mã của tôi lúc ấy hiền đến

như vậy đó!

Thế là suốt trong thời gian ở đây, thời gian nào rảnh, dù có 5 phút hay 15 phút, tôi cũng cầm

những cuốn sách khai thị và nghiến ngấu đọc, như trước đây chừa từng được đọc. Tôi bỗng

trân quý thời gian vô cùng, như lời H.T dạy:

(Một phút thời gian, một tấc vàng,

Vàng sao mua đặng phút thời gian?)

Vì cái thời gian mà tôi có đó, chỉ có chút xíu mươi phút và thoáng chốc nó trôi qua nhanh khi

tiếng “Bảng” chát chúa vang lên, báo hiệu giờ thiền tọa lại đến. Sao lạ kỳ đến vậy, thời gian

chỉ là một, nhưng có những nơi con người ta biết sống, biết tận dụng thời gian đến từng phút,

từng giờ để tập tu, tập hành, chuẩn hóa tâm thức. Thời gian lúc ấy đối với các bậc trí tuệ quả

thật là vàng, là bạc. Còn thời gian đối với những chúng sanh mê si và điên đảo, nó là rác, là

nghiệp chướng và tội lỗi. Cho nên một đời của người trí chỉ toàn là thời gian vàng, thời gian

bạc để tiến tu đạo nghiệp, giải thoát mê lầm, cứu độ chúng sanh; còn một đời của người

phàm phu, thời gian chỉ là cơ hội của nghiệp chướng, hướng đến mê lầm tạo nghiệp và

hưởng quả khổ đau. Cho nên người trí và người phàm sống ở hai thế giới, còn giữa mê lầm

và thức tỉnh chỉ cách nhau không đến một li.

Quả thật ở đây, trong căn phòng lạnh 8m2, nếu không biết ngồi thiền, đọc kinh sách, tự học

tu thì không biết sẽ làm gì khác. Cho nên môi trường, thanh quy của Tòng lâm và hoàn cảnh

trong phòng ép mình phải tu, không tu thì có lẽ phải lên cơn thần kinh, vì không thể chịu nổi

sự bức bách của cả thân và tâm đến như vậy. Còn nếu chấp nhận, an vui và tùy biến trong sự

tu hành, ta sẽ có được cái phúc nhất, là tâm thức chúng ta trở về sự tập trung, chuyên nhất,

chánh niệm trong sự tu hành. Những nguồn năng lượng trong thân và tâm chúng ta không

phải bị phân tán, tản mác, trôi nổi khắp nơi trên trần thế theo 6 trần và 6 thức. Từ đó việc tu

hành, đi vào định tuệ chúng ta sẽ dễ được thể nhập và khai mở trong thời gian sớm. Đây

cũng chính là dụng tâm sâu xa của bậc thầy thiện tri thức chúng ta vậy!

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Bây giờ thiền thất bắt đầu. Bao nhiêu thứ gọi là đố kỵ, kiêu mạn, quý vị phải bỏ xuống hết.

Bây giờ tôi khảo nghiệm thử xem quý vị có thực lòng buông bỏ các thứ đó hay không. Khảo

bằng cách nào? Ðầu tiên là đánh bằng hương bản. Bị đánh mà không biết đau, thì cho là

được, là đủ tư cách tham gia ban thiền thất mùa đông này. Thế nhưng, không biết đau thì trơ

trơ như cái bàn, không có tri giác; còn biết đau tức là không buông bỏ được. Vậy tại chỗ này,

chúng ta hãy tham xem - làm cách nào đây?

Bây giờ kẻ bị đánh không bỏ chạy mới là kẻ đại trượng phu. Ðã là đại trượng phu, thế tất phải

có khí độ anh hùng, không sợ khốn khổ, không sợ gian nan, đầy tinh thần chịu đựng khắc

khổ, không thối chuyển, từ đầu thông suốt tới cuối. Phải có một niềm quyết tâm, coi chết nhẹ

như không, như vậy mới thành công được. Trước khi vào thiền, tôi có bài kệ nầy:

“Ðại địa xuân hồi bách vật sinh

Phấn toái hư không tự tại ông

Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng

Pháp giới tuy đại tận bao dung.

Ðại địa xuân hồi bách vật sinh, nghĩa là: Kỳ thiền thất này chính là khí tượng của xuân về.

Trăm loài hân hoan nẩy sinh tươi tốt. Mọi người đều gặp cơ hội khai ngộ và ánh sáng tự tánh

cùng xuất hiện.

Phấn toái hư không tự tại ông: Hư không vốn là vô hình, nếu quả hư không mà tan vụn (phấn

toái) thì hư không cũng không có nữa. 'Tự tại ông' lúc đó, mới thật là đúng tư cách!

Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng: Từ đó trở về sau sẽ chẳng còn vướng vào nhân tướng,

chẳng vướng vào ngã tướng. Nhân không, pháp cũng không. Nhân pháp đều không, thế là tự

tại, cũng không còn chấp ngã, chấp pháp. Không chấp trước, chính là giải thoát.

Pháp giới tuy đại tận bao dung: Tuy pháp giới là không bờ không bến, nhưng ta vẫn có thể

ôm trọn pháp giới vào trong, nói cách khác, so với pháp giới ta còn to lớn hơn nữa. Thế mới

là khả năng của kẻ đại trượng phu.

Tự mình phải dụng công của mình. Công phu gì? Ðó là tham câu: "Niệm Phật là ai?" hay

tham: "Trước khi cha mẹ sanh ra thì bổn lai diện mục ta là gì?" Nỗ lực dụng công, nhất định

sẽ có tin hay (khai ngộ). Bây giờ bắt đầu vào thất! Vào! Vào! Vào! Thiền thất chính thức bắt

đầu, cấm nói chuyện!

Ngày thứ 10:

Đọc vào các Ngữ lục thiền của chư Tổ sư xưa cũng như nay, ta sẽ thấy văn phong và hàm ý

Thiền của chư Tổ sư hết sức mạnh bạo. Các ngài nói mạnh bởi vì các ngày đã thấy được lối

đi và tin chắc rằng, nếu thúc và đẩy ta đi theo lối đi đó, ta cũng sẽ đến đích như các ngài.

Các ngài không phải nói những lời: “khẩu đầu thiền”, vì đây là điều tối kỵ trong thiền môn.

Một người tu thiền đúng mực, đi cầu pháp, hành thiền thì sẽ nhận chân ra được vị thầy của

mình qua phong cách, khí chất và thiền ngữ của những bậc thiền sư.

Nhưng rõ ràng là tâm ý chúng sinh vốn quá nhiều phiền não và nhu nhược, không tin lấy

chính mình có thể kiến tánh, có thể tu hành và có thể giải thoát. Nhắc đến chỗ này, đa phần

con người ta e sợ, run rẩy và tìm cách lùi bước, đùn đẩy cho các hàng Bồ tát hoặc hạng

người thượng căn thượng trí. Họ đâu biết rằng hạng Thượng căn thượng trí với họ chỉ cách

nhau một hào tơ, mê là chúng sanh, giác là Phật. Mê và giác ấy không xa, chỉ cần gặp bậc

thiện tri thức khai thị, chỉ bày và họ tinh tấn dụng công thì sẽ đạt.

Bản thân tôi không phải là hạng trí tuệ, nhưng tôi kính tin lời dạy, lời khai thị, chỉ bày của

các bậc Thiện tri thức và tôi tin ở nơi mình. Khi tôi tin rằng mình đã có cơ duyên gặp được

chánh pháp, nghe được các lời dạy của bậc Thiện tri thức, và thấy được, chứng thật được sự

thực tập, tu hành sống động của các bậc thầy tri thức trước mắt thì tôi có đủ niềm tin để tin

rằng mình có thể khai ngộ được. Luận Đại trí độ có nói: Tín vi năng nhập, Trí vi năng độ.

Tôi có dám tin và có dám bước đi hướng về phía trước? Tôi dám, và mong rằng tất cả các vị

thiện tri thức dám cùng tôi bước tới.

Thời đại mạt pháp này, chánh pháp nhãn tạng khó tìm cầu, mà mạt pháp danh văn lợi dưỡng

thì trải rộng khắp nơi, đâu đâu cũng thấy. Người tu hành chân thật thì ít, ẩn náu ở các nơi xa

xôi trên núi, trong các hang động thâm sâu hoặc ở những nơi ít người biết và tìm đến. Còn

các chốn phồn hoa đô hội, danh lam cổ tự nơi rất đông người đến để triều bái cúng lễ thì chỉ

tìm được các bậc thầy đốt nhang, làm phép, cúng kiến cho người rồi tính tiền. Thế nên chân

thật tu hành thì phải biết tìm cầu, biết buông xả và biết lên đường khi đúng lúc!

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Mục đích chúng ta tham gia thiền thất là cầu khai mở trí huệ, trở về tận cùng gốc gác của

mình, tuyệt đối phải nhận ra bổn lai diện mục.

Bổn lai diện mục của chúng ta ra sao? Cùng với chư Phật là một, chẳng sai khác. Có điều

chúng ta là chúng sanh không có trí huệ nên không nhận ra nó, và cũng từ nguyên nhân đó

mà trở thành điên đảo, quay đầu lộn đuôi, sanh tử trong cảnh mơ mộng hỗn độn, thậm chí còn

biến hiện thêm, khiến cho đã mê càng thêm mê, đã ở trong mộng còn thêm mộng, trong chỗ

điên đảo còn thêm điên đảo. Vì sao đến nỗi như vậy? Bởi vì không được gặp thiện tri thức,

không được ai mách bảo lối về quê hương, tức con đường tìm bổn lai diện mục.

Nay rất đông thiện tri thức tụ hội tại đây, cùng nhau hướng tới con đường rộng lớn, quang

minh để tìm vể bổn lai diện mục. Ðúng là:

“Thập phương đồng tụ hội

Giai kỳ học vô vi

Thử thị tuyển Phật trường

Tâm không cập đệ quy.

Nghĩa là:

Mười phương cùng tụ hội

Ai nấy học vô vi

Ðây là trường tuyển Phật

Tâm không đậu vinh quy.

Quý vị thiện tri thức từ mười phương, tới Bát-nhã đường này cùng nhau học tập pháp vô vi.

Bát-nhã đường chính là trường tuyển Phật. Ai tới được chỗ vô nhân vô ngã thì người đó được

chấm đậu. Ai không buông bỏ nổi, kẻ đó bị đánh rớt. Ai được tâm không đây? Người đó

được đỗ Trạng nguyên. Lúc đó, áo gấm về làng, rạng rỡ tổ tông.

Như muốn làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng, vậy phải ngồi xuống tham thiền, mới có thể

đạt mục đích. Ðại anh hùng chính là bậc đại giác, đại giác chính là Phật. Ngồi thiền mà đạt

tới cảnh giới vô ngã, thì chân có đau cũng không hay, lưng có mỏi cũng không biết. Trong,

không cảm thấy thân tâm, ngoài, không biết có thế giới, tới lúc đó, trong khoảnh khắc, bừng

lên đại ngộ: vốn là như thế!

Nếu rõ ràng có ngã, thì có "cái ngã" ở chỗ này. Quý vị ở tại chỗ này, ai không ở tại chỗ này?

Không ở tại chỗ này cũng là ai đó? Không ai ở tại đây, cũng chẳng ai không ở tại đây, cho

nên gọi là vô ngã.

Nguyên do vì không có tại, nên mới không có ngã. Nếu còn có tại thì còn có ngã tại. Có tại

thì đúng ra phải là tự tại, chớ không phải ngã tại. Tự tại không thể có ngã, nếu có ngã thì

không phải tự tại. Có ngã nên mới sanh lắm chuyện phiền phức, kể ra không thể hết được.

Nào, ngủ chẳng đủ, tinh thần không khoan khái. Ăn chẳng đủ, bụng không dễ chịu. Mặc

không đủ, thân thể ớn lạnh. Bởi đâu mà có những hiện tượng đó? Bởi chung có cái ngã.

Muốn không có ngã, chỉ còn một biện pháp, đó là đến thiền đường mà ngồi thiền, thiền tới

thiền lui, thiền cho tới lúc đạt được vô ngã, đạt được cảnh giới gọi là:

"Vô nhân vô ngã Quán tự tại,

Phi không phi sắc kiến Như-lai."

Tới lúc đó thì tự tại vô cùng, tự khắc sẽ biết bổn lai diện mục là như thế nào. Tuy nhiên, tới

được cảnh giới đó chẳng phải dễ dàng. Bởi vậy mới cần phải gắng sức nhẫn chịu, chịu đựng

mọi thống khổ, mọi sự gian nan. Như quả qua được cửa ải này thì sẽ gặp một sự thống khoái:

“Chính là ăn bằng niềm vui thiền duyệt, và sống trong pháp hỷ.”

Bất luận làm một công việc gì, buổi đầu tương đối khó khăn. Lâu dần, sẽ thành quen, không

cảm thấy khó nữa. Ngồi thiền cũng như vậy. Trong thiền đường, cố gắng chịu đựng, khi đã

chịu đựng được rồi thì không còn cảnh giới nào làm cho giao động. Vậy là đã có chút ít định

lực. Có một chút định lực tức sẽ có chút huệ lực. Tích tiểu thành đại, khi huệ lực đầy đủ thì tự

khắc khai ngộ.

Ngày thứ 11:

Tâm lý của phàm phu là sợ sự thật, vì sự thật là tu và tu là phải sửa và phải xả, nên con

người ta rất sợ, sợ phải từ bỏ tất cả ngũ dục trong cuộc đời mà con người ta vốn đã rất

nghiện ngập, không thể cai được. Dục nào trong năm dục cũng đều là dục đáng được ưa,

đáng được thích và nay chỉ vì tu mà phải từ bỏ thì phí uổng quá. Nên con người ta không

muốn tu và không dám đối diện thẳng sự thật. Một mặc con người ta than khổ và muốn thoát

khổ, nhưng khi tìm được cách thoát khổ thì người ta lại không dám đi tiếp, vì sợ đi tiếp sẽ mất

hết tất cả những vị khổ, vị vui, vị say mê khoái lạc sung sướng trong cuộc đời.

Đời sống và trí tuệ trong tu hành cho tôi thấy rõ được sự thật và bản chất của cuộc đời. Đôi

khi vạch trần nó ra để soi rọi và quán chiếu, ta thấy được tất cả sự trần trụi, ô trược và khổ

đau của chúng sinh làm sao! Cái khổ đau của việc nhận giả làm thật, lấy dơ làm sạch, lấy

phải làm quấy, lấy khổ làm vui, nên ngài Tuyên Hóa cũng nói rằng: “Chúng sinh khi sinh ra

đã hồ đồ, sống hồ đồ, cả một cuộc đời hồ đồ và khi chết đi cũng hồ đồ.”

Bậc Thiện tri thức khai thị, chỉ thẳng cho mình với những lời trách cứ mạnh mẽ, để cho ta

thức tỉnh, để cho ta thấy rõ và thật rõ rằng, những gì chúng ta đang hồ đồ, nắm bắt và hưởng

thụ tất cả ở đây đều chỉ là đang trong cơn mộng. Mai này có thể vài mươi năm nữa, vài năm

nữa, vài tháng hoặc vài ngày nữa, khi nghiệp đến đánh thức chúng ta, cơn mộng vàng ta

đang sống và thấy đây sẽ tan biến, rơi vào hư vô và ta sẽ được mời đến gặp Diêm vương

nhận án, lãnh hình.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Ai Niệm Phật ? Bây giờ là lúc để chúng ta thảo luận. Vậy ai có vấn đề gì thì cứ việc nêu ra để

mọi người cùng nhau nghiên cứu, bàn luận. Có người hỏi về câu “Ai niệm Phật” là sao? Như

trong kinh Kim Cang nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Cho nên nếu có chỗ thì đó tức là

trụ, còn không có chỗ trụ là không nghĩ thiện, không nghĩ ác, là ngay chỗ đó mà dụng công.

Nếu chúng ta chú ý vào một chỗ nào, rồi nghĩ đến tốt hay không tốt thì đó đều là chấp trước.

Tu hành là tu đến chỗ không còn chỗ chấp, cái gì cũng không chấp, thân thể cũng quên luôn.

Đến cả thân thể cũng không có, vậy còn chấp vào cái gì nữa? Lúc tọa thiền, chúng ta không

nên nghĩ nhớ đến bất cứ điều gì, mà chỉ cần nhớ “Ai niệm Phật?” Ai là người đang niệm

Phật? Tức là tìm cái “Ai” nầy. Chừng nào tìm được “Ai” rồi, thì đó là lúc khai ngộ. Nếu tìm

không được thì một ngày cũng phải tìm, mười ngày cũng phải tìm, trăm ngày cũng phải tìm,

ngàn ngày cũng phải tìm, vạn ngày cũng phải tìm, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm,

vạn năm, đều chỉ là tìm nó. Cho đến lúc nào tìm được nó, lúc đó mới thôi.

Quý vị đừng mong cho mau, vì đây không giống như hút thuốc phiện, hễ hút xong là thoả

mãn cơn ghiền. Nó đâu có dễ như vậy! Vì nếu dễ thì là pháp môn lừa dối. Pháp môn tu chân

chánh là phải chính mình nỗ lực dụng công. Không nên có ý nghĩ như anh nông phu vì muốn

giúp cho lúa mau lớn, anh bèn kéo cây lúa cao lên một chút, để chúng cũng lớn mau thêm

một chút.

Đó là tư tưởng sai lầm! Câu “Ai niệm Phật?” có thể chặt đứt tất cả các vọng tưởng, các dục

niệm, là chém giết hết cả mười đại quân ma. Chữ “Ai” nầy là thanh bảo kiếm Kim Cang

Vương, cái gì nó cũng chém sạch hết, cho đến không còn chỗ nào để chấp cả. “Phàm những

gì có hình tướng thì đều là hư vọng. Nếu người nào thấy tất cả hình tướng là phi tướng tức là

thấy được Như Lai.”

Còn có chỗ chấp thì đó là tâm người, tâm chúng sanh. Không có chỗ chấp thì là tâm đạo. Khi

chúng ta ngồi thiền mà không nghĩ đến chữ “Ai” nầy, vọng tưởng sẽ phát sanh nên không thể

khai ngộ được. Dùng câu thoại đầu nầy khi tham thiền là lấy độc công độc, dùng vọng tưởng

khống chế vọng tưởng, cũng là dùng một vọng tưởng để điều phục nhiều thứ vọng tưởng.

Chúng ta dùng nó mãi cho đến khi sơn cùng thủy tận, không còn đường nào để đi thì chính

chỗ chuyển thân quay mình đó sẽ khai ngộ.

Ngày thứ 12:

Tổ sư thiền với việc tham các thoại đầu là pháp tu rất mới đối với người Việt Nam, nhưng với

các Thiền viện tại Trung Hoa thì truyền thống tu hành này vẫn còn được ứng dụng ở một số

chùa và thiền viện rải rác khắp Trung Hoa. Hiện nay, chùa Thiên Đồng, chùa Cao Mân,

chùa Kim Sơn là những Thiền viện nổi danh với pháp tu thiền này và mỗi năm đều có những

khóa thiền đả thất và có rất đông thiền giả về tu tập.

Với tôi, đường lối tu thiền này cũng rất mới mẻ vì truyền thống các chùa Việt Nam chưa từng

được truyền thừa và hướng dẫn tu hành. Phần lớn các chùa đều tu Tịnh độ, lấy tụng kinh và

niệm Phật làm chính. Thiền phái Trúc Lâm được H.T Thanh Từ hoằng hóa và phổ biến rộng

khắp Việt Nam và thiền pháp này dùng lối tu “vô niệm, biết vọng và không theo vọng”, thay

vì dùng thoại đầu (“Ai” là người niệm Phật) để diệt vọng, dùng một vọng tưởng để diệt tất cả

vọng tưởng. Hai pháp tu hơi khác nhau một chút nhưng đều cùng chung mục đích: “khai ngộ

bổn tâm, kiến tánh thành Phật”.

H.T Khai thị:

Tu Ðạo Cần Phải "Quý Phước, Cầu Huệ" Tín đồ Phật Giáo chúng ta khi chưa thành Phật thì

cần phải biết "quý phước, cầu huệ." Hễ biết quý phước thì phước báu gia tăng, còn cầu huệ

thì trí huệ tăng trưởng. Các bạn hãy nhìn xem: Người đời có vô số hoàn cảnh khác nhau.

Có những người được phước báu rất lớn, không cần phải làm gì cả mà lại được vạn sự như ý,

mọi thứ đều có sẵn, đời sống rất sung túc; họ không buồn không lo, sung sướng vô cùng, đó

là nhờ khi trước họ đã từng tu phước rất nhiều, nên nay mới được hưởng phước báo lớn lao

như thế! Có những người thì lại có trí nhớ rất tốt, chỉ xem qua một lần là không bao giờ quên.

Họ vừa thông minh vừa khoẻ mạnh, và còn có biện tài vô ngại; khi họ thuyết Pháp thì có hiện

tượng "trời mưa hoa xuống, đất trồi sen vàng" xảy ra. Vì sao họ có khả năng ấy? Là vì khi

xưa họ đã từng tu huệ rất nhiều!

Làm thế nào để tu huệ và tu từ đâu? Trước hết, hãy bắt đầu từ Ðại Thừa, đọc tụng kinh điển

Ðại Thừa, nghiên cứu Tam Tạng cho thật thấu đáo, cho tới mức viên mãn, miệng có thể đọc

thuộc, tâm có thể nghĩ suy. Sáng cũng như chiều, ngày ngày dùi mài Tam Tạng cho làu

thông, thấu triệt, thì đại trí huệ khai mở, kiếp sau nhất định sẽ vừa thông minh vừa biện tài.

Chúng ta đã biết thế nào là "quý phước, cầu huệ" thì cần phải quý tiếc đồ vật, không nên làm

hư hại vật dụng. Làm những công việc như sửa cầu, đắp đường, cất chùa, dựng tháp, bố thí y

phục, bố thí vật thực, cứu giúp người nghèo khổ tức là tu phước, tạo phước điền.

Còn giảng Kinh thuyết Pháp, in kinh sách để truyền bá, phiên dịch kinh điển, tô vẽ tranh

Phật... là thuộc về pháp môn tu huệ. Giả sử các bạn không muốn có phước báo và cũng không

muốn có trí huệ, thì chẳng còn lời gì để nói. Song, nếu các bạn muốn có phước báo, muốn có

trí huệ, thì hãy mau mau tu phước, cầu huệ. Không được lãng phí phước báo và cũng không

được bỏ trí huệ một cách tùy tiện! "Quý phước, cầu huệ" là một công việc lớn lao, tất yếu mà

mọi tín đồ Phật giáo cần phải thực hành!

Ngày thứ 13:

Được anh tôi giới thiệu, tôi tìm đến thầy Hằng Toàn và được làm quen với ngài. Ngài là bậc

thầy Việt Nam trưởng thượng trong Vạn Phật Thánh Thành đứng sau H.T Phương trượng, có

nụ cười hiền, ánh mắt từ bi và khuôn mặt hồng hồng với làn da trắng rất đẹp. Có lẽ ngài

hành thiền nhiều lắm nên sắc mặt rất đặc biệt, tai thì ửng đỏ. Tôi có dịp tiếp xúc với ngài vài

lần, và thấy được sự bình dị, tận tâm và tấm lòng từ muốn độ chúng sanh của ngài. Qua đó,

tôi có trình bày về sự tu hành và nhân duyên hoằng pháp của mình, cầu thỉnh ngài cùng góp

một tâm nguyện, bàn tay cho công việc độ sanh sau này tại Thái Lan. Ngài cũng hoan hỷ

nhận lời khi thấy tôi thành tâm đến như vậy.

Một khi có ý tưởng thối thất nào khởi lên trong thời gian tu hành, tôi lại đem mình so sánh

với chúng Tăng thường trụ sống ở đây. Các vị ấy sống từ năm này qua năm nọ ở đây, ngồi

thiền hàng bao nhiêu tiếng mỗi ngày, đời sống kham nhẫn muôn phần mà họ còn an lạc, sống

thảnh thơi; còn tôi không có lý do gì để phải than van, thối thất. Sự tu hành, dụng công lúc

nào cũng phải chuyên chú, nhất tâm hướng về phía trước. Ngẫm lại thời gian tu hành trước,

quả thật tôi thấy như lời ngài dạy: “những công phu, những sự tu hành trước kia chỉ là hời

hợt ngoài da”. Còn nay đúng là đang tu hành bên trong xương, trong tủy. Tôi phải thấy hết ý

nghĩa của sự tu hành và rèn luyện cho mình một sợ kham nhẫn vô đối, luôn xông pha về phía

trước, thách thức trở ngại và khó khăn. Một tinh thần chiến đấu như vậy thì mới mong thành

tựu trên con đường tu hành, đạt được giải thoát. Đây cũng chính là tâm nguyện một đời của

người xuất gia và của chính tôi kia mà!

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Ði đứng nằm ngồi

Không lìa bỏ nó

Lìa bỏ cái đó

Tức thành lầm lỗi.

Cái đó là cái gì? Chính là câu thoại đầu để chúng ta dụng công tham thiền. Lấy chân tâm mà

tu Ðạo, đề khởi câu thoại đầu rồi tham cứu một cách miên mật, không dứt đoạn. Hàng giờ,

hàng khắc, hàng phút, hàng giây, không một tạp niệm nào, một vọng tưởng nào xen vào, tóm

lại trong tâm tư, niệm trước niệm sau, chỉ rặt một câu thoại đầu là đề mục tham cứu. Vậy thì

đâu còn thời gian nào khác để nói chuyện với nhau, làm rộn người khác? Cũng không có cơ

hội để lười biếng nghỉ ngơi, càng không có dịp để nói chuyện thị phi, chuyên một lòng giữ

câu thoại đầu để tham ngộ. Có câu kệ rằng:

Mọi sự qua suông sẻ

Khó xả duy nổi nóng

Nếu quả không tức giận

Ðó là hòn ngọc quý

Lại không biết hận người

Sự việc đều trôi chẩy

Phiền não chẳng hề sanh

Lấy đâu tạo oan nghiệt?

Thường chỉ rặt trách người

Khổ đau chuốc mãi mãi.

Người tham Thiền nếu có được thái độ như vậy mới mong có ngày "nhập môn". Tại Thiền

đường ai ai cũng phải hồi quang phản chiếu, quay về nơi mình, tự hỏi mình, có phải ta đương

dụng công, hay ta đương phóng tâm theo vọng tưởng? Hãy nhìn chính mình, phải chăng ta

đương rọi sáng để soi chính ta? Chớ không phải soi ra ngoài? Ðó là điều chúng ta phải rất

mực chú ý.

Dụng công nơi Thiền đường, ta phải ghi nhớ hai câu sau:

Ma-ha-tát, chẳng lý tới kẻ khác

Di-đà Phật, ai nấy tự lo lấy!

Từng thời từng khắc, tự quản lý mình, khỏi cần để ý tới ai, càng không nên làm phiền hà

người khác, như vậy là chướng ngại sự dụng công của mọi người, khiến họ có thể lỡ cơ hội

khai ngộ, một việc không thể chấp nhận được. Như tôi thường nói với quý vị:

Thành thực nhận lỗi mình

Không bàn lỗi người khác

Lỗi người tức lỗi ta

Ðồng thể gọi Ðại bi.

Ai ai cũng có tư tưởng đó thì tất cả đều một lòng một ý tu hành, không còn nghĩ gì khác,

chẳng còn nhiều chuyện bàn tán, làm rộn mọi người.

Người tham thiền cốt yếu phải nhận định cho rõ rệt một vấn đề căn bản. Ðó là vấn đề gì? Cái

đó là tập khí . Ngồi thiền là để loại trừ tập khí, những thói xấu, để thanh lọc tâm tư, để giải

trừ những thói xấu đố kỵ những ai hơn mình. Hãy mang những tâm đố kỵ, những tâm phiền

não vô minh, gạt bỏ hết. Có như vậy, Chân tâm sẽ tỏ lộ, trí huệ sẽ hiển bầy, và lúc đó thiền

giả mới có hy vọng nhận được tin vui.

Bởi đâu mà mọi người ưa những chuyện thị phi? Chính vì lý do ngu si. Bởi đâu mà sanh tâm

tật đố? Cũng là do ngu si. Bởi đâu mà có tâm hại người? Là ngu si hết. Phàm làm những

chuyện không hợp lý đều do ngu si mà phát sanh ra. Vậy bởi đâu mà có ngu si? Chính vì

không chịu tu tập thiền định, nên không có trí huệ, cho nên chúng ta cứ luẩn quẩn trong vòng

nhân ngã thị phi, không ra khỏi được. Do đó, chúng ta phải hồi quang phản chiếu, nhìn nhận

lỗi mình trong quá khứ, dốc lòng hối cải, thay vì khư khư giữ mãi những tập khí xấu xa mà

không chịu buông bỏ.

Tại sao khi ngồi thiền lại buồn ngủ? Bởi cầu Pháp mà lòng không chân thực. Nếu như thành

tâm cầu Ðạo thì tuyệt đối không bao giờ buồn ngủ. Quý vị hãy thử kinh nghiệm coi, tôi nói lẽ

đó có đúng hay không?

Người tu hành không nên bạ đâu nói đó, mà phải hết sức thận trọng, ôn tồn. Ðến chỗ nào thì

cũng phải làm gương cho kẻ khác, không thể cười đùa, nói càn nói bậy, vì như thế tức là

không tôn trọng quy củ của đạo tràng. Người khác thấy được hành vi như vậy sẽ phê bình là

những người xuất gia trong Vạn Phật Thành không thông hiểu quy củ. Với thái độ như vậy

thì làm sao tu Ðạo, làm sao thành tựu được Ðạo nghiệp? Ðừng nên vì một, hai cá nhân chẳng

giữ gìn quy củ mà khiến cho danh dự của Vạn Phật Thành bị hoen ố, hủy hoại!

Vạn Phật Thành là ngọn đèn sáng của Phật Giáo trên thế giới, bởi vậy, mỗi người trong đại

chúng, nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành, đều phải nên đặc biệt cẩn thận! Người xuất

gia tu Ðạo lúc nào cũng phải tự kiềm chế chính mình, không nên nghĩ vẩn vơ, vọng tưởng.

Bất luận là vọng tưởng tốt hay vọng tưởng xấu, thảy đều phải quét sạch đi, do đó có câu "nhất

niệm bất sanh." Ðạt tới cảnh giới này thì mình mới tương ưng với Ðạo được. Nếu có vọng

tưởng vô ích, cho dù thân thanh tịnh mà tâm huyên náo, thì dụng công tu Ðạo thế nào được?

Làm sao mà thành tựu được? Ðó thật là phí thời gian chứ nào phải tu Ðạo! Kẻ chân chính tu

hành thì tuyệt đối không có vọng tưởng. Có vọng tưởng thì có chướng ngại. Có chướng ngại

thì không thể tiến bộ, rất dễ làm mình thối thất Ðạo tâm.

Ngày thứ 14:

Tôi không thể ngờ rằng, giữa một xã hội vật chất và hiện đại như Hoa Kỳ lại có một Tòng

lâm, thiền viện tu hành nghiêm ngặt như thế. Đó là sự sai lầm của tôi trong nhận định khi

chủ quan cho rằng, trong những xã hội vật chất, khó ai có thể tu hành được. Như vậy hóa ra

chỉ những nơi không vật chất, nơi nghèo khổ thì con người ta mới dụng công, chân thực tu

hành hay sao? Quyết đoán như vậy thật là lầm lẫn! Nơi nào trên thế giới cũng có chánh

pháp và mạt pháp, kẻ tu người không tu, kẻ tốt và người xấu. Tất cả đều là một sự pha trộn,

lẫn lộn rất khó phân định và quyết đoán. Vấn đề ở đây là có duyên để biết, có duyên để thấy,

để đến để được học hỏi, tu hành và chứng nhập hay không?

Chính vì chữ duyên ấy nên lần này tôi quyết chí ra đi và tham dự khóa tu này, dù rằng trước

đó tôi dự định sang năm, khoảng tháng 6 tôi sẽ sang tham dự các khóa tu bên ấy. Nhưng rồi

bản tính vốn thích Thiền, nên tôi đã gạt bỏ hết thảy chương trình cá nhân của mình, để bay

sang Mỹ tham dự cho được khóa tu kỳ này. Quả thật là không uổng phí thời gian và đang giá

công đi khó khăn.

Khi tham dự các khóa tu này, người xuất gia thì được miễn phí khóa tu, còn người tại gia thì

phải đóng chi phí tiền phòng và tiền ăn 20 Mỹ kim một ngày. Như vậy cũng không phải là đắt

khi so với vật giá, chi phí và đời sống tại Hoa Kỳ. Trong dịp này, tôi cũng có duyên gặp được

một số Phật tử Việt Nam tu lâu năm trong VPTT, thông thường là năm bảy năm, nhưng cũng

có vị 10 hay 20, 30 năm. Tuy chùa người Hoa, nhưng người Việt tu học và làm việc tại đây

cũng trên 50% rồi. Sao lạ vậy! Có lẽ bản chất người Việt là thích tu, và thích tu gắt gao nữa

kia là khác, nên ở khắp nơi trên thế giới Việt Nam chúng ta cũng sinh ra nhiều bậc thầy tu

hành ngộ đạo và danh tiếng vang xa.

H.T dạy:

Hôm nay quý vị đã "lên đường" chưa? "Lên đường" có nghĩa là lên con đường Chánh-giác,

con đường Bồ đề. Quý vị đã đề khởi được câu "Niệm Phật là ai" chưa? Quý vị đã buông bỏ

vọng tưởng chưa? Nếu chưa đề khởi được câu "Niệm Phật là ai?" thì hãy mau mau làm đi.

Phải tập như "mèo rình chuột" vậy, kiên nhẫn chăm chú chờ chuột. Lại cũng giống như "gà

mẹ ấp trứng," một lòng một dạ nhớ nghĩ đến đám gà con sắp nở. Lại cũng giống như "rồng

giữ hạt châu," cẩn thận chuyên nhất giữ chặt hạt bảo châu. Lúc nào cũng dụng công thì mới

hy vọng thành tựu.

Chúng ta tu hạnh "ngày ăn một bữa, đêm chẳng nằm mà ngủ" là cách tu khổ hạnh mà tôi dám

nói rằng hay nhất thế giới. Ðặc biệt là lúc đả Thiền-thất, mỗi ngày ngồi mười hai giờ, đi

nhiễu sáu giờ. Sự thực hành khắc khổ này đòi hỏi Thiền-sinh phải ăn uống cho đầy đủ. Do đó

tại Trung Quốc, khi nào có đả Thiền-thất, mỗi đêm mọi người đều được cho ăn hai cái bánh

bao lớn nên ai cũng thích thú lắm. Song ở đây không có cái lệ này. Do đó bữa trưa, quý vị

nên ăn thêm một chút, ăn cho no để đủ sức đi nhiễu hoặc chạy.

Giới luật nhà Phật quy định "nhật trung nhất thực," tức là mỗi ngày chỉ ăn một bữa vào giờ

ngọ (mười hai giờ trưa) mà thôi. Về sau, lệ này đổi thành "quá ngọ bất thực," tức là sau mười

hai giờ trưa thì không được dùng bữa, nhưng buổi sáng có thể ăn cháo điểm tâm. Vì không

phải ăn sau giờ ngọ nên việc này không phải là phạm giới.

Trong khóa Thiền, nếu ăn không đủ no thì sẽ không có đủ sức ngồi Thiền, đi nhiễu hay chạy,

do đó có thể sinh ra thối chuyển. Vì sao? Nếu quý vị tham Thiền đến tối, bao tử quý vị sẽ cồn

cào và trách quý vị là đã quá ích kỷ, chỉ biết tu hành, chỉ chú tâm muốn khai ngộ, chẳng quan

tâm đến nó, khiến nó phải đau khổ. Nó hỏi quý vị tu Ðạo gì mà một chút từ bi cũng không có.

Thế là nó chẳng hợp tác với quý vị nữa, khiến quý vị dễ thối tâm, không còn muốn tu hành,

uổng phí công phu khi trước. Bởi vậy trong khóa Thiền, quý vị cần phải ăn cho đủ no mới có

năng lực để mưu cầu trí huệ giải thoát.

Hôm nay tôi kể cho quý vị nghe câu chuyện "Ăn bánh bao lúc đả thất." Ðây là chuyện có

thật, không phải bịa đặt. Ở chùa Thiên Ðồng tại tỉnh Ninh-Ba bên Trung Quốc, có vị phương

trượng tên Mật Vân. Ngài là một vị Minh nhãn Thiện-tri-thức. Thầy Duy-na cũng là một vị

Minh nhãn Thiện-tri-thức. Song lòng từ bi của Thầy Duy-na thì quá rộng lớn còn lòng từ bi

của Phương-trượng thì lại hạn hẹp. Ngài Mật Vân thì có tác phong "Ma-ha-tát chẳng để ý đến

ai cả," còn ngài Duy-na thì chủ trương "Bồ-đề Tát-đỏa thích lo chuyện người." Vì hai vị có tư

tưởng khác biệt nên lối cư xử cũng xung khắc.

Trong lúc đả Thất, ai cũng dũng mãnh tinh tấn ngồi Thiền, cầu trí huệ giải thoát. Một đêm nọ

vị Duy-na từ bi này thấy đại chúng vì quá đói bụng nên chẳng còn tinh thần nào ngồi Thiền

được. Có vị bị hôn trầm, có vị thì tâm tán loạn, hoặc nếu không ngủ gật thì cũng "ngồi sụm."

Bình thường, khi ngồi Thiền người ta cao khoảng ba thước tây, nhưng vì bụng đói quá, không

ngồi thẳng lưng được, phải khòm xuống nên chỉ còn cao hơn một thước, do đó gọi là "ngồi

sụm." Khi hiện tượng này xảy ra thì chẳng ai còn tiếp tục ngồi Thiền được nữa.

Thầy Duy-na thấy vậy mới nẩy lòng thương và muốn giữ sức khỏe cho đại chúng, Thầy bèn

nhập Ðịnh, dùng thần thông vào nhà bếp lấy cắp một ít cơm cháy đem phân phát cho mỗi

người một ít. Khi ngồi Thiền xong, mọi người mở mắt ra thì thấy trên đùi họ có một miếng

cơm cháy, liền rón rén ăn hết. Bởi vì "người là sắt, cơm là thép," nên ai ăn vào cũng khôi

phục lại tinh thần. Lúc đi nhiễu, cũng không cảm thấy mệt mỏi. Chẳng còn như trước, vì

bụng đói không thể đi nhiễu được nên phải ngồi qua một bên để nghỉ mệt.

Sau khi Thầy Duy-na có lòng từ bi này lấy cắp cơm cháy liên tiếp hai ngày để cho đại chúng

ăn điểm tâm, thì đến ngày thứ ba bị vị Phương-trượng phát giác ra chuyện ăn cắp nên bị đuổi

ra khỏi chùa. Sự việc này xảy ra như sau: Buổi sáng ngày thứ ba, Thầy quản lý nhà bếp phát

hiện ra rằng cơm cháy ngày hôm qua đã biến mất và Thầy nghi rằng đã bị chuột ăn hết. Vì là

nhiệm vụ của Thầy, nên Thầy mới báo cáo chuyện này lên ngài Phương-trượng để xin ý kiến.

Ngài Phương-trượng dạy rằng: "Ðược rồi, phải bắt con chuột đó!" Ðến tối, ngài Phương-

trượng nhập Ðịnh quán sát mới phát giác là Thầy Duy-na đã trộm cơm cháy của nhà bếp

trong lúc nhập Ðịnh. Nhân đó Ngài mới đem nhục thân của Thầy Duy-na giấu dưới ghế ngồi.

Lúc Thầy Duy-na xuất Ðịnh thì không thấy "nhà" (nhục thân) của Thầy đâu nữa. Thầy tìm kỹ

khắp nơi thì cuối cùng mới thấy nhục thân mình nằm ở dưới ghế nên kéo nó ra. Bấy giờ, Ngài

Phương trượng mới bảo: "Thầy làm gì vậy? Thầy quả là một con chuột lớn. Thầy dám ăn cắp

cơm cháy ở nhà bếp hả? Thầy có biết là Thầy đã phạm giới không? Ai phạm giới phải bị đuổi

ra khỏi chùa! Ngày mai Thầy phải đi. Chúng tôi không thể lưu giữ Thầy ở đây nữa!"

Thầy Duy-na thưa:

"Bạch Ngài, Ngài đuổi tôi thì được rồi, song tôi muốn xin Ngài một việc, mong Ngài thuận

cho."

Vị Phương-trượng hỏi: "Thầy sắp ra đi, còn muốn yêu cầu gì nữa?"

Thầy Duy-na thưa: "Các Thiền-sinh nhất định phải được ăn đủ no thì mới có thể dụng công tu

hành. Nếu ăn không no, chắc chắn chẳng thể tu hành được. Do đó tôi mới vào nhà bếp lấy

trộm cơm cháy để cho đại chúng dùng, chẳng phải để tôi ăn. Tôi hy vọng Ngài Phương

trượng từ bi, mỗi tối cho mỗi người ăn hai cái bánh bao. Ðược vậy thì tôi xin cúi đầu đảnh lễ

Ngài. Tôi ra đi rồi, chẳng còn gì thắc mắc nữa!"

Vị Phương-trượng suy nghĩ và thấy có lý: "Ðược rồi! Tôi sẽ thỏa mãn lời yêu cầu của Thầy."

Từ đó về sau, khi nào đả Thiền-thất, mỗi người được ăn hai cái bánh bao vào buổi tối.

Thầy Duy-na lại hỏi Phương-trượng: "Thưa Ngài, tôi nên đi về đâu?"

Phương-trượng đáp: "Thầy hãy đến tỉnh Tứ-xuyên xây dựng đạo tràng. Các vị hộ pháp ở đó

có thiện duyên với Thầy."

Bấy giờ Thầy Duy-na mới dùng phép Thần-túc-thông để đến tỉnh Tứ Xuyên. Thầy thấy hai

cây quế cao to, cành lá sum sê, nên ngồi Thiền giữa hai cây quế ấy. Nhiều vị hộ pháp và cư sĩ

thấy Thầy ngồi Thiền dưới gốc cây, nhận ra Thầy là bậc chân tu, một vị cao tăng đức hạnh,

do đó họ xây một ngôi chùa dưới hai cây quế ấy lấy tên là "Song Quế Ðường." Tại đây, Thầy

truyền Pháp và thâu nhận đệ tử. Về sau, rất nhiều người tham Thiền được khai ngộ và Thầy

trở thành vị Tổ đầu tiên.

Tham Thiền cũng như uống nước, nóng hay lạnh chỉ tự mình biết lấy. Dụng công tới chỗ

vững vàng thì mình tự biết; dụng công mà chưa thành thục thì cũng chỉ có mình tự hay. Ai

dụng công đã vững, đã thành thục thì cần phải liên tục nỗ lực. Kẻ chưa dụng công tới đâu cả

thì chớ biếng nhác. Trong lúc tham gia Thiền-thất, quý vị phải buông xả hết mọi thứ. Có câu:

"Ðề khởi được, buông xả được."

"Ðề khởi được" cái gì? Ðề khởi được câu "Niệm Phật là ai?"

"Buông xả được" thứ gì? Buông xả được mọi vọng tưởng. Phải buông xả được vọng tưởng và

sự nghĩ ngợi lăng xăng thì trí huệ mới nảy sinh. Không buông xả được vọng tưởng thì dụng

công sẽ không có kết quả.

Ngày thứ 15:

Cho đến hôm nay tôi đã quen dần và hơi thuần thục trong thế ngồi kiết già, không còn những

cơn đau kinh khủng như lúc ban đầu. Mỗi lần ngồi như vậy tôi có thể ngồi hơn một tiếng thì

cơn đau nhức mới kéo đến. Giờ chỉ còn lại thời khóa dài 2 tiếng buổi sáng và buổi tối, tôi

phải chật vật vượt qua. Ngày nào cũng thiền định như vậy và ngày nào cũng phải chạm trán

với cơn đau, cái đau nhưng tôi tin rằng, càng chịu đựng cơn đau thì càng bớt nghiệp, phức

đức tăng trưởng, nên cơn đau dần trở thành một sự chịu đựng đáng giá và có ý nghĩa.

Tôi tin rằng, nếu có đủ duyên trong tương lai tôi sẽ gởi các đệ tử của mình vào môi trường

này tu học. Đây là trường tuyển Phật và đào tạo thánh nhân và tôi đã trải nghiệm qua tất cả

với những cảm nhận và chứng thực sâu xa. Nếu các đệ tử tôi, những người Phật tử nào có đủ

duyên để được vào học, vào tu ở môi trường này và kham nhẫn chịu được, thì tôi tin rằng vị

ấy có đủ chủng tử thánh và năng lực thánh để đạt đạo. Nơi đây tu hành, nếu không thành

Phật thì cũng thành Thánh, vì nơi đây không có đất xấu và duyên xấu để tạo tác các nghiệp

xấu. Lực tu hành và giữ giới ở đây lại quá thanh tịnh, nên rất ít có cơ hội và điệu kiện để

mình phạm và đọa lạc. Có lẽ tôi không nói quá đâu, nhưng để có đủ cơ duyên vào đó và được

nhận vào đó cũng không phải là điều dễ dàng và ai muốn cũng được, vì họ rất chọn lọc khi

nhận người vào.

H.T khai thị:

Lão Tử nói rằng:

"Quân tử hữu tạo mệnh chi học,

Mệnh do ngã lập, Phước tự kỷ cầu.

Họa, phước vô môn,

Duy nhân tự chiêu."

Nghiã là:

"Quân tử có cái học tạo mệnh,

Mệnh do mình lập, Phước do mình cầu.

Phước với họa chẳng có cửa,

Chỉ do mình tự chiêu cảm lấy."

"Quân tử hữu tạo mệnh chi học." Trời, Ðất, Người gọi là Tam Tài. Người là đại biểu của trời,

đất; trời không thể nói được mà đất cũng không thể nói được, chỉ có người mới có ngôn từ,

có động tác. Sinh mạng con người không phải là nhất định, nhưng cũng có thể nói là nhất

định. Tại sao nhất định? Cũng như là mình chia đồ vật vậy: Anh một phần, tôi một phần; đó

gọi là nhất định. Thế nào là không nhất định? Giống như đồ vật của anh thì anh dùng hết rất

mau, mà đồ vật của tôi thì tôi không dùng cho nên vẫn còn nguyên; đó gọi là không nhất

định. Cho nên nói: "Quân tử có cái học tạo mệnh."

Khi sinh ra, chẳng ai kêu mình làm chuyện ác cả, song mình cứ làm ác; đó là mình tự cải biến

vận mạng của chính mình. Sinh ra chẳng có ai kêu mình làm chuyện thiện cả nhưng mình cứ

làm chuyện thiện, thì đó là mình siêu thoát ra khỏi vận mệnh. Thí dụ như khách bộ hành,

muốn đi hướng đông thì nhắm hướng đông mà đi, muốn đi hướng tây thì nhắm hướng tây mà

đi. Mệnh vận của người quân tử thì rất linh hoạt chớ không phải là cứng ngắc; tất cả mọi

chuyện đều do nơi tay mình làm nên, bởi thế: "Quân tử có cái học tạo mệnh."

"Mệnh do ngã lập." Mình có thể cải biến vận mệnh của chính mình. Nếu như khi có bịnh mà

biết giữ gìn thì không đi đến tình trạng nguy hiểm đến tánh mạng. Ðó là tự mình có năng lực

kiểm soát chính mình, không phải ỷ lại người khác. Ðáng lẽ phải sống chết luân chuyển trong

Lục đạo, nhưng nếu biết tu Ðạo thì có thể siêu thoát ra khỏi vận mệnh, cắt đứt vòng sinh tử;

đó cũng gọi là tạo mệnh.

"Phước tự kỷ cầu." Phước từ nơi mình mà cầu: Nếu mình biết tu phước thì có phước, biết tu

huệ thì có huệ. Phước, huệ cùng tu thì càng tốt hơn nữa. Tu phước thì phải hướng về bên

trong mà cầu; cầu nơi chính mình, coi thử mình có đức hạnh hay không. Có đạo đức là có

phước, không đức hạnh thì là kẻ vô phước. Quân tử cầu nơi chính mình, tiểu nhân thì cầu

cạnh nơi người khác. Tiểu nhân lúc nào cũng hướng ra bên ngoài mà cầu.

"Họa, phước vô môn. Duy nhân tự chiêu." Họa, phước không có cửa ra vào, chỉ do mình tự

chuốc lấy; có nghĩa là: Bịnh tùng khẩu nhập, Họa tùng khẩu xuất. (Bịnh từ miệng mà vào,

Họa do miệng mà ra.) Con người gặp phải đủ thứ tai họa, hoạn nạn là do ăn nói bậy bạ mà ra.

Kẻ ham ăn vị ngon, cá thịt, gà vịt, đồ biển v.v... tuy rằng nhất thời sướng cái miệng song sẽ

mang nhiều bịnh tật. Khi ăn thì thấy ngon thiệt, nhưng dần dà khi chất độc ngấm vào sanh

bịnh thì sẽ hết thuốc chữa! Hiện tại thịt động vật có một chất độc mà không có thuốc nào

chữa được. Cho nên khi ta ăn thịt thú vật thì thứ độc ấy truyền vô người mình. Thực vật là

loại không có sinh mạng, nên dù có độc cũng rất ít. Chất độc trong thịt là 100%, còn độc

trong đồ chay chỉ có 1%, cho nên có thể nói rằng ăn thịt với ăn chay khác nhau một trời một

vực!

Các vị học Phật Pháp đừng nên tham ăn đồ ngon, đừng tham ngon miệng! Sau một thời gian

ăn chay, chất độc trong người có thể bài tiết ra hết mà không mắc phải những bịnh quái gở.

Hy vọng các vị chú ý nghiên cứu lời tôi nói. Thời đại bây giờ vô cùng tệ hại, nên mọi người

phải mạnh dạn khuyến khích nhau đừng sát sinh, mà phải bảo vệ sinh mạng thì mới tránh

được họa nhân loại diệt vong. Mong các vị hãy thận trọng, và hãy tự chế!

Ngày thứ 16:

Tôi được biết là những khóa thiền thất sau này (khi không còn H.T nữa) thì đã được điều

chỉnh lại thời gian, bởi vì nếu gắt quá thì sẽ khó có nhiều được có đủ khả năng, thời gian,

căn cơ mà tham dự. Khi H.T còn sống, có khóa thiền thất lên đến 100 ngày, và thời gian

dụng công lên đến 21 tiếng mỗi ngày. Chúng ta hãy đọc một đoạn sau đây về Một Trăm

Ngày Thiền Thất trong tập khai thị:

Một khóa thiền kéo dài 98 ngày, ở một nước phương Tây này, tuy trong tương lai chưa hẳn là

vô song, nhưng tính đến nay phải nói là chưa từng có. Chính là: chứng kiến một chuyện chưa

từng thấy, nghe một chuyện chưa từng nghe! Mấy ngàn năm nay thực sự chưa hề có một cuộc

tu tập nào khổ công như vậy! Sáng sớm, từ hai giờ đã bắt đầu ngồi thiền, xen vào giữa là một

giờ nghỉ, cho đến đêm 12 giờ mới ngủ. Vậy là mỗi ngày dụng công trọn 21 tiếng đồng hồ.

Bởi vậy mới nói là một khóa thiền chưa từng có.

Quý vị tham dự khóa thiền này, tất phải khảo nghiệm, cố gắng chịu đựng, để từ đầu thông

suốt cho tới cuối, chớ không thể nửa chừng bỏ dở. Nếu không thì công phu bỏ ra sẽ thành

uổng phí hết, chẳng được chút gì, lại cô phụ bao nhiêu tâm nguyện của mình lúc khởi thủy.

Có câu nói: "Nếm mùi cực khổ trong cái khổ, mới trở thành kẻ thượng nhân." Có như thế mới

là kẻ siêu việt trong hàng Phật tử chân chánh.

Khóa thiền thất này lại khiến cho tôi vui mừng vì có mấy vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni phát tâm

"dạ bất đảo đơn," nghĩa là tới giờ ngủ, họ không trở về phòng mà ngồi luôn tại ghế thiền

nghỉ. Cách thức tu trì như thế thực quả tại Tây-phương chưa từng có. (Sách kỷ lục có ghi:

Bây giờ tất cả các pháp sư tại Vạn Phật Thành đều phát nguyện giữ đúng "mỗi ngày một bữa

(ăn), đêm không ngã lưng" (nhật trung nhất thực, dạ bất đảo đơn). Tinh thần như vậy thật

đáng ngưỡng mộ.

Trong lúc ngồi thiền, không người nào được nói chuyện. Mỗi người tự mình chiếu cố thoại

đầu của mình, tự mình dụng công. Trông thấy bất cứ ai, cũng mặc kệ. Tại sao? Bởi không

người, không ta mà! Ai tới thì tới, ai đi thì đi, chỉ chuyên tâm chuyên chí tham câu "niệm

Phật là ai?" trong thời gian 98 ngày ắt có kết quả. Trong kỳ thiền thất mùa đông này, những

ai chưa khai ngộ sẽ bị phạt một trăm ngày quỳ hương trước bàn thờ Phật. Còn đối với vị nào

khai ngộ, tôi xin thiết một đại tiệc khai ngộ, muốn ăn thức gì sẽ có thức ấy, bảo đảm cả trăm

vị đầy đủ. Có câu nói: "Thiên trù diệu cúng, thiền duyệt tô-đà." Lúc ấy được coi là giờ phút

quang vinh nhất trong đạo Phật. Quý vị nhớ! Muốn khai ngộ, ta phải giữ quy củ đó! Như

không muốn khai ngộ, thì xin cứ tùy tiện, không ai bó buộc quý vị.

Khi ở Hương-cảng, tôi đã từng tham dự mười tuần thiền thất. Trong khóa tu, có cả một vị

trưởng lão mang râu - Hòa-thượng Minh Quán, cũng có dự nữa. Ðó là một vị lão tu hành, còn

tôi thì không. Chúng tôi cùng nhau ngồi đủ bẩy mươi ngày, kết quả giữa chúng tôi không ai

hơn ai kém.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

"Yếu học hảo, oan nghiệt trảo,

Yếu thành Phật, tiên thọ ma."

Dịch là:

"Muốn học tốt, oan nghiệt tìm,

Muốn thành Phật, trước gặp ma."

"Muốn học tốt, oan nghiệt tìm." Mình muốn làm chuyện tốt thì thế nào oan nghiệt cũng đến

tìm. Càng làm tốt thì oan nghiệt kiếm mình càng gắt bởi vì nó muốn thanh toán nợ nần với

mình! Từ vô lượng kiếp đến nay, đời này qua đời khác mình tạo nghiệp thiện ác lẫn lộn,

không có rõ ràng; bởi vậy khi muốn tu Ðạo thì chủ nợ họ đều tới tìm mình để đòi nợ. Ví dụ

có kẻ mượn người khác tiền mà chưa trả sòng phẳng. Lúc y chưa phát tài thì chủ nợ biết y

chẳng có tiền nên chẳng đến đòi; nhưng khi y mà phát tài thì chủ nợ liền đập cửa đòi nợ. Vì

sao? Vì chủ nợ biết y có tiền! Nếu y không tới đòi thì chẳng biết lúc nào đòi đặng, cho nên

phải đòi.

Bởi vậy, trong quá trình tu Ðạo mình sẽ gặp nghịch cảnh, mà gặp nghịch cảnh thì mình phải

càng dũng mãnh tinh tấn, không có thối thất tâm Bồ Ðề. Những nợ nần mà người chủ nợ đến

đòi thì mình phải trả cho hết; tức là đem công đức tu hành của mình hồi hướng tới chủ nợ, tới

những người oán, kẻ thân; để khi họ nhận được công đức của mình, họ sẽ ly khổ đắc lạc, liễu

sinh thoát tử, đến lúc đó món nợ của mình mới hoàn toàn phủi sạch.

Từ vô lượng kiếp tới nay, do đủ thứ nhân duyên nên mình mắc nợ không phải ít. Ngay đời

này, thử suy nghĩ một cách chín chắn coi mình đã giết bao nhiêu sinh mạng rồi? Có bao nhiêu

chuyện không công bình mình đã tạo ra? Ðối với chúng sinh, nếu mình chưa có giết qua một

sinh vật nào, thí dụ như sư tử, voi, heo, gà, trâu, bò v.v... nhưng rất có thể là mình đã sát hại

những sinh vật nhỏ hơn như ruồi, muỗi, dế, thằn lằn... Dù nói rằng mình chưa từng giết

những sinh vật nhỏ như vậy, nhưng chắc chắn mình vẫn có ý niệm sát sinh tồn tại trong lòng.

Lúc nhỏ, vì mình không để ý, bất giác giết hại rất nhiều côn trùng nhỏ, cái đó gọi là Vô tri tội,

tội sát mà không có cố ý. Nhưng những chúng sinh bị mình đoạt mạng thì giờ đây, khi mình

muốn tu Ðạo, thì bọn chúng chắc chắn sẽ tới tìm để đòi nợ. Cái thứ nợ này không phải chỉ có

một, hai mà thôi, mà là vô số, bởi vì đời này qua đời khác mình tích lũy nó, nhiều kể không

hết!

Do vậy, đừng nói rằng ông Trời bất công: "Tôi bây giờ tu hành rồi, tôi không muốn nhận tất

cả những oan gia nghiệp báo, nợ nần hồi xưa." Nghĩ như thế thì vĩnh viễn mình không thể

thành Ðạo được, bởi vì lòng ta không công bình. Tâm mà công bình thì mình phải nhận nợ.

Cho nên nói rằng: "Muốn học tốt, oan nghiệt tìm"; khi mình trở nên giàu đột ngột, thì bạn bè

nghèo cùng đều tới đập cửa để đòi nợ.

"Muốn thành Phật, trước gặp ma." Phật mà thành Ðạo là do ma giúp đỡ, nếu như không có

ma thì không có Phật. Ma đến khảo nghiệm làm cho mình tiến bộ; nên nói rằng:

“Dục cùng thiên lý mục,

Cánh thượng nhất tằng lâu.

(Muốn thấy tận cùng ngàn dặm,

Phải bước lên thêm một tầng lầu.)

Ma coi thử "hỏa hầu" của mình có đủ chưa. Nếu đủ thì ngàn con ma tới mình cũng không

thay đổi, vạn con ma tới mình cũng không thối lui, không thối thất tâm Bồ Ðề. Càng khốn

khổ gian nan bao nhiêu, thì càng tinh tấn bấy nhiêu. Hễ nơi nghịch cảnh chằng chịt, rối ren

bao nhiêu, thì tâm càng phải an nhiên, bình thản bấy nhiên. Ðừng nghĩ là bất công, cũng đừng

oán trời, trách người.

Ngày thứ 17:

Phải nói trong lòng tôi rất thán phục những hành giả chân thật tu trong khóa thiền thất này,

dù họ là những người tại gia, hay là một thầy Tỳ kheo trẻ người Thái qua tu tại Vạn Phật

Thành cách đây khoảng hơn 3 năm. Những vị này có thể ngồi thiền và nhập định suốt đêm,

hoặc từ giữa khuya đến giờ ăn trưa. Các vị ấy có thể ngồi an tĩnh (như như bất động) một lúc

từ 7 tiếng đến 10 tiếng hoặc nữa ngày, cho thấy định lực của họ không thể tầm thường. Việc

điều thân như vậy ít nhất phải mất nhiều năm và phải làm cho bằng được trước khi điều tâm,

đó là pháp của H.T Tuyến Hóa buộc phải thực hiện. Các thiền phái khác hoặc các phương

pháp tu tập trong các chùa Việt chúng ta không đặt nặng thế ngồi bán già hay kiết già, nên

sự dụng công của chúng ta không thể đi sâu vào thiền định được, thay vào đó cách ngồi thiền

như vậy chỉ là để tĩnh tâm, bớt các vọng tưởng bên trong chúng ta.

Nhưng tu tập không phải là để bớt vọng tưởng, vì bớt vọng tưởng thì chỉ như là gãi ngứa cho

thằng chủ Vô minh. Hôm nay bớt, nhưng ngày mai, mốt, bữa kia thằng chủ Vô minh sẽ sai

phái đến hàng loạt binh lính vọng tưởng khác nhiễu loạn chúng ta. Cho nên trong trận chiến

đấu này với Vô minh, sẽ không có sự khoan nhượng hay thương lượng với chúng, mà phải

chấp nhận tinh thần chiến đấu một mất, một còn với chúng. Định hướng và xác quyết như

vậy, chúng ta phải ngồi thiền cho bằng được theo thế kiết già, tức là thế Hàng ma tọa, Kim

cang tọa để quyết chiến với chúng ma vương, mà đầu tiên là con ma đau đớn. Càng đau

chúng ta càng phải lập thệ chiến đấu đến cùng và vượt qua nó, nếu không thắng được thì con

ma sợ hãi, con ma nhát gan, con ma dễ duôi sẽ xui ta và cười lên trên sự yếu ớt, hèn nhát nơi

ta. Như vậy thì quả thật đáng xấu hổ cho việc tu hành của ta! Có việc ngồi kiết già cũng

không xong, thì nói chi đến việc tu hành, hàng phục phiền não, vô minh, đạt đến giải thoát.

Chúa ma lúc ấy chắc sẽ cười chê ta, nhạo báng ta và cho rằng ta chỉ là một kẻ nói khoác, chỉ

hay giỏi nói.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Thân cây, mỗi ngày mỗi cao lớn nhưng ta không thấy sự sinh trưởng của cây. Tuy ta chẳng

để ý, nhưng cây cứ cao lớn dần, chờ đến mười năm hoặc trăm năm sau thì cây đó biến thành

vật hữu dụng.

Cây thì vậy, người tu Ðạo thì cũng thế. Ðừng quá gấp gáp, đừng nghĩ rằng hôm nay tu hành

thì ngày mai khai ngộ. Chẳng phải dễ dàng như vậy đâu! Mà cần phải ngày ngày tu luyện,

ngày ngày trau giồi, chẳng cần biết là có tiến bộ hay không. Không thối lui có nghĩa là tiến bộ

rồi. Chỉ cần làm cho vọng tưởng mỗi ngày giảm bớt, thì đã là tiến bộ rồi; dục niệm mỗi ngày

mỗi ít thì đó là tiến bộ rồi; tham sân si mỗi ngày thối lui tức là tiến bộ rồi; đừng có muốn mau

muốn chóng. Cho nên nói:

"Kỳ tấn duệ giả, kỳ thối tốc"

Nghĩa là:

"Tiến càng nhanh, thì lùi cũng rất mau."

Tới thật mau tức là lùi cũng mau, cho nên cần phải có cái tâm hằng thường mà tu hành, ngày

ngày phải sám hối để sửa đổi lỗi lầm:

"Nhất nhật vô quá khả cải,

Tức nhất nhật vô công khả tạo".

Nghĩa là:

"Một ngày chẳng sửa lỗi lầm,

Là một ngày chẳng tạo công đức."

Cho nên tu hành cần phải trừ bỏ tập khí, lỗi lầm xấu xa, bỏ đi những tư tưởng lầm lạc, khiến

cho trí huệ quang minh bản hữu của mình xuất hiện. Trí huệ quang minh này người nào cũng

có cả, nhưng rất tiếc là bị vô minh che khuất. Khi không thể dùng trí huệ quang minh này, bởi

vô minh che phủ, sẽ làm cho mình cứ muốn trụt xuống, không muốn đi lên; nếu hiển lộ được

trí huệ thì tự nhiên mình sẽ tiến tới, đi lên mãi. Ðó gọi là "nghịch lưu" (đi ngược giòng nước)!

Cho nên tu hành không phải chỉ có một ngày một đêm, mà cần phải hàng giờ, hàng phút,

hàng ngày. Buổi cũng sáng như vậy, buổi chiều cũng như vậy, năm này tháng nọ đều tu hành

như vậy, hằng thường bất biến. Thời gian lâu rồi thì mình mới trưởng dưỡng được trí huệ Bát

Nhã.

Ðừng nên "một ngày nóng mười ngày lạnh," một ngày tu mười ngày nghỉ, nếu như vậy thì

chẳng thể thành tựu đặng. Phải như thân cây, mỗi ngày lớn lên một chút, ngày ngày đem lòng

thành mà tu hành. Trong thời gian tu hành, nếu gặp những cảnh giới gì, dù ma chướng hay

nghịch duyên hoặc thuận duyên..., cũng phải an nhiên, bình thản. Thuận cảnh hay nghịch

cảnh, mình đều phải tinh tấn, coi mọi sự vật đều như đang nói diệu Pháp cho mình. Nếu hiểu

được mọi vật đều thuyết Pháp cho mình, mỗi diễn biến đều là bài Pháp, thì sẽ biết được sự kỳ

diệu mà ngôn ngữ không thể diễn tả được.

Nếu hiểu được vậy thì sẽ biết được "bản lai diện mục" của chính mình, biết được con đường

về nhà rồi đó. Cho nên mượn pháp thế gian mà vượt khỏi pháp thế gian, không bị vạn pháp

làm mê lầm, không bị mọi hình tướng làm mê hoặc. Lúc tất cả cảnh giới tới, nếu mình bình

tĩnh sáng suốt, không bị chướng ngại, thì lâu ngày trí huệ của mình sẽ hiện ra.

Ngày thứ 18:

Con người ta sống ở đời chịu khổ nhiều là do chạy theo cái “Dục”. Dục mong muốn, dục

khao khát, mong cầu, muốn được thỏa mãn quá nhiều nên tâm trí và xác thân này phải chịu

làm nô lệ cho nó. Người đời nghĩ rằng những “dục tưởng” ấy là bạn thân của mình, mong

muốn đem lại điều tốt, điều sướng cho thân, cho cuộc sống; nhưng ai ngờ chính nó là những

kẻ giặc, sai sử ta, sui khiến ta chạy theo điên đảo, mê lầm để rồi nhận lãnh tất cả những khổ

đau, phiền lụy trong suốt những kiếp sống tử sinh.

Khi tu Phật, khi học đạo và được khai thị chỉ bày, ta thấy rõ những “dục tưởng” này chính là

những tên giặc ma quái, nhận diện nó và không theo nó nên nó hổ thẹn biến mất. Không

được học pháp và sáng suốt nhận chân, ta bỗng trở nên mù mờ, bị nó sai khiến, tạo bao ác

nghiệp và rước lấy khổ đau. Suy cho cùng, trên thế gian này có được bao nhiêu người có

được cơ duyên học Phật, nghe pháp và tu hành để biết cách thoát khỏi những nanh vuốt của

yêu quái bên trong chúng ta.

Trong cuộc sống hàng ngày, con người phàm không có cơ hội để thoát nó, để rồi mỗi giờ,

mỗi phút giây lại có hàng trăm, hàng ngàn tên vọng tưởng, tên giặc phiền não khởi lên sai sử

chúng ta và quấy rối tâm mình. Chúng ta có đủ năng lực để không chế vọng tâm, dứt trừ

phiền não hay tuân lệnh, hành xử theo sự đòi hỏi, sai khiến của chúng? Chúng ta có đủ trí

tuệ diệt trừ hay năng lực chuyển hóa để hướng chúng vọng tưởng đó đi theo con đường thiện,

con đường tu hành? Thế nên sống cuộc đời thế gian, cuộc sống phàm phu thì con người ta

không có sự lựa chọn nào khác.

Nay trong những khóa tu thiền, chúng ta học cách và biết cách khống chế các vọng tưởng,

dục tưởng đó bằng cách dùng câu niệm Phật, hay câu thoại đầu: « Ai niệm Phật » để chế ngự

và đánh đuổi tất cả những dục tưởng, vọng tưởng khác ra khỏi tâm ta. Chúng ta nếu có tu, có

hành, sáng được một giờ thì chúng ta loại trừ được hàng trăm tên giặc phiền não, vọng

tưởng, vô minh. Chúng ta sáng 2 giờ, 5 giờ, 10 giờ thì chúng ta đánh đuổi được trăm ngàn

tên giặc vọng tưởng, dục tưởng, vô minh. Như vậy há chẳng phải, chỉ một khóa thiền thất,

một khóa công phu tu tập, biết cách dụng công, siêng năng hành trì là chúng ta đã có thể phá

được trăm ngàn tên giặc phiền não, vô minh, đã gây cho chúng ta khổ đau, phiền lụy trong

suốt những năm tháng qua.

Thiền định có năng lực mạnh mẽ đến như thế. Thoại đầu tuy đơn giản, dễ hành nhưng có đầy

uy lực như thế, quả thật, nó chính là thanh bảo kiếm, chặt chém hết thảy những cây gai, cỏ

dại của vọng tưởng, vô minh, trói chặt, sai sử, đàn áp chúng ta từ muôn kiếp.

Chỉ trong thời gian ngắn gần 3 tuần hành trì, tôi đã cảm nhận được sức mạnh này của thanh

bảo kiếm thoại đầu. Nó đã tiêu diệt vô số phiền não, vọng tưởng si mê trong tôi, và dĩ nhiên

từ ánh sáng này lần ra, tôi thấy rõ được bước đường và hướng đi của mình trên con đường tu

tập. Ở đó gian nan, thử thách cũng còn nhiều, nhưng ở đó tôi cũng thấy rõ ràng hơn mọi sự,

mọi vật để lúc bước tới, chân tôi không phải chùn, tôi không còn phải mê mờ, dọ dẫm, sợ hãi

và lạc mất phương hướng. Đó là điều tôi cảm thán, ghi tạc lại những duyên lành mà các bậc

thầy, các bậc Thiện hữu tri thức đã trợ duyên và soi đường cho tôi.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Nếu không kiềm chế tánh hư vọng cuồng dại thì trí huệ chân chính không bao giờ xuất hiện

được. Tự tánh bị che đậy bởi vô minh. Vô minh có hai kẻ giúp đỡ, có hai tên làm kế hoạch.

Bọn chúng là gì? Thứ nhất là thức ăn, thứ hai là sắc đẹp; một cái gọi là thực dục, một cái gọi

là sắc dục! Hai thứ này giúp đỡ cho vô minh làm đủ thứ chuyện xấu, cho nên sách Nho có nói

rằng:

"Thực, sắc tánh dã."

Nghiã là háo ăn, háo sắc đều là bản tánh của chúng sinh vậy.

Song, mình phải biết tại sao vô minh chẳng phá đặng? Tại sao phiền não cũng không đoạn

được? Trí huệ tại sao chẳng hiện? Ðó chính là do mình có lòng tham ăn, lòng háo sắc! Ăn

uống thì trợ giúp cho dục vọng, dục vọng lại làm tăng trưởng vô minh. Con người sinh ra thì

biết ăn, con nít sinh ra là biết uống sữa. Không có sữa thì nó khóc, uống rồi lại muốn thêm

nữa. Ðúng vậy! Lòng tham này mới sinh ra đã có, sau khi có lòng tham ăn rồi thì sinh ra lòng

tham sắc. Con trai thì ham nữ sắc, con gái thì ham nam sắc, quyến luyến nhau, ham muốn

không chịu buông bỏ, không thể nhìn suốt được.

Ăn uống bao nhiêu thứ tinh hoa đều biến thành tinh. Hễ tinh mà sung mãn thì sinh ra lòng sắc

dục, cho nên người xưa nói rằng:

"Bão noãn tư dâm dục,

Cơ hàn khởi đạo tâm."

(No ấm thì nghĩ chuyện dâm dục,

Ðói lạnh mới khởi lòng trộm cắp.)

Khi ăn no rồi, con trai nghĩ đến con gái, con gái thì nghĩ đến con trai, chỉ có khởi dục niệm

này. Khi nghèo thì nghĩ cách trộm cắp, cũng vì để có đồ mà ăn, ăn rồi tình dục lại khởi lên.

Thế nên hễ ăn cho đủ chất dinh dưỡng, mập mạp phì nộn rồi thì lại chỉ khởi lòng dâm. Con

người trước tiên là khởi lòng tham ăn, muốn ăn thật ngon miệng, muốn ăn để thân thể cường

tráng. Song ăn ít thì không đủ, mà ăn nhiều làm sao thỏa mãn được lòng tham? Cho nên

người ta chết vì sắc, vì thực. Nếu vô minh không có thực và sắc toa rập thì chẳng có thể tác

hại được ai.

Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối

với vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy trì mạng sống mà hành Ðạo; không

cần phải có quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn những đồ hư hoại, khiến cho cơ

thể sinh bịnh; đó là thực hành Trung Ðạo.

Ngày thứ 19:

Từ những ngày đầu vào Vạn Phật Thánh Thành là tôi đã được cho mượn chiếc y giới để đắp

cho giống chúng Tăng thường trụ. Mọi người xuất gia vào đây tu hành đều phải nghiêm

chỉnh tuân theo thanh quy của Tòng lâm, nên không được nhúc nhích, vì chúng Tăng ở đây

làm sao, ta phải làm y theo như vậy. Thanh quy ở đây từng nổi tiếng là nơi nghiêm ngặt nhất

thế giới kia mà.

Lúc đầu tôi thấy cũng khó vì chưa quen, nhưng ở một hai tuần quen rồi, tôi thấy thanh quy

như vậy mà hay, vì nó điều phục được tất cả tâm tánh ỷ y, dễ duôi, buông thả thường nhật

của một con người, trong đó có tôi. Ngay từ thời gian đầu xuất gia, tôi đã có tính này và ít

chịu khép mình vào đời sống kỷ luật của thiền môn. Tôi thích một cuộc sống tu hành phóng

khoáng, không cố chấp, tự do tự tại nên nhiều năm liền, tôi ra nước ngoài và sống mướn một

ngôi nhà bên ngoài để học và để tu. Sang Ấn Độ nhiều năm tôi cũng sống như vậy, ngoài trừ

thời gian tôi ở trong tu viện Sera, một tu viện Phật giáo Tây Tạng, nhưng rồi tôi cũng có một

gian nhà biệt lập cho mình. Cách sống như vậy cũng có ý hay của nó, vì cho con người khả

năng tự chủ, độc lập và trách nhiệm với đời sống tu hành của mình, nếu người tu ấy sống có

hạnh, có ý thức, biết giữ giới đức và cầu tiến đi lên trên con đường tu hành. Nếu không, một

đời sống như vậy dễ dàng dẫn đến sự dễ duôi, bê tha và đánh mất đời sống thanh tịnh của

người xuất gia tu hành. Trong các bài giảng của ngài Tuyên Hóa, ngài quở trách rất nặng

đời sống xuất gia của người Tăng sĩ như vậy, và răn nhắc người xuất gia phải sống và tu

hành thanh tịnh trong các Tòng lâm.

Trải qua thời gian sống ở Tòng lâm VPTT, tôi mới suy gẫm và đối chiếu lại suốt cuộc đời tu

xuất gia của mình mà đa phần sống bên ngoài bức tường rào của Tòng lâm, tôi thấy những

lời dạy của ngài thật là tha thiết, thật đúng và chân thực làm sao! Tôi đã đánh mất khá nhiều

thời gian cho đời sống đi đó đây, nghiên cứu, sưu tầm và học hỏi. Ngài Tuyên Hóa có lần

nói: “hàng ngày đọc các tin tức, thời sự, biết thêm nhiều về thế giới này để làm gì? Có giúp

ích cho sự giải thoát không?” Hay ta chỉ biện minh cho việc ham thích hướng ngoại và truy

cầu thỏa mãn sự khao khát vi tế của lục căn đối với đời sống thế gian.

Vì suy nghiệm cho cùng, tất cả những kiến thức bên ngoài đưa vào tâm ta đó, thật ra chỉ là

một mớ hỗn độn, tạp nhạp, rác rưởi của tri thức, tri kiến thế gian để cuối cùng chính tâm ta

lại bị quấy rầy, nhiễm trước và tán loạn bởi tất cả những hiểu biết và tri thức thừa thãi mà ta

đã đưa vào. Ta nhân danh sự học hỏi, hiểu biết của thế gian để đưa vào tâm mình; và nay ta

có dám nhân danh con đường tu hành, giải thoát sinh tử để loại bỏ tất cả sự tạp nhiễm, ô uế

và loạn động đó ra khỏi tâm ta? Thật là rất khó! Vì bởi đưa vào thì dễ, nhưng cương quyết

đoạn trừ thói quen (ghiền) tập nhiễm này mới thật là khó, khó như bắc thang lên trời. Thứ

rác rưởi ấy có giúp tôi chóng khai ngộ hay không, hay chỉ là những thứ rác làm bẩn thêm

tâm thức vốn thanh tịnh của tôi. Tôi thấy rõ điều ấy vì sau bao nhiêu năm tu hành, tâm tôi

vẫn chưa tịnh, vẫn còn bị nhiều nhiễm trước, vẫn còn khó khăn để gỡ thoát ra khỏi cuộc đời

này.

Tôi cũng lại cảm thấy ân hận, nuối tiếc lấy chính mình là sao không có đủ cơ duyên, phước

báo để vào đây tu hành năm 1991 (thời gian mà Hòa Thượng Tuyên Hóa còn sống), là năm

tôi rời bỏ Âu châu để sang Ấn Độ tầm sư học đạo. Nếu không phải loanh quanh tìm cầu, nếu

không phải nghiên cứu, sưu tầm, trích dịch, đuổi theo thế học; và nếu được học và tu đúng

môi trường với các bậc minh sư, thiện tri thức dạy dỗ, có lẽ tôi sẽ không phải là tôi, một kẻ tu

hành bất tài và vô dụng như hiện bây giờ.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Lão Tử nói:

"Dưỡng thành đại chuyết phương vi xảo,

Học đáo như ngu thủy kiến kỳ."

Dịch là:

"Dưỡng tâm như dại là tuyệt xảo,

Học tới như ngây mới diệu kỳ."

Mình cần học "ngây ngô." Song học ngây ngô không phải là chuyện dễ, bởi vì kinh nghiệm

thường dạy mình rằng đừng có ngây ngô. Cho nên nếu dưỡng tâm như khờ dại thì đó mới gọi

là tinh xảo. Tu hành tức là muốn dưỡng "chuyết," dưỡng tâm như kẻ khờ khạo; càng khờ

càng tốt. Sao gọi là khờ? Khờ có nghĩa là hoàn toàn chẳng có vọng tưởng. Không khờ thì

vọng tưởng đầy dẫy.

Vọng tưởng mà nhiều thì tự nhiên muốn tìm chuyện xưa, muốn biết chuyện nay, rồi muốn

xen vào đủ chuyện tạp nhạp, muốn hiểu đủ thứ báo chí tin tức lăng nhăng. Ðó là những điều

chướng ngại cho sự tu hành. Sự khờ khạo, dốt nát chân chính là như thế nào? Tức là nhập

Ðịnh. Nếu nhập Ðịnh thì đông, tây, nam, bắc, đều chẳng biết tới; cùng thế giới vô tranh, tự tại

vô ngại.

Tại sao mình không thể tự tại vô ngại được? Là bởi vì còn có lòng tranh, lòng tham, lòng cầu,

lòng ích kỷ, lòng tự lợi; do đó chẳng thể tự tại được. Muốn tự tại cũng làm không được. Khi

đã bất mãn hiện tại, bất mãn quá khứ, bất mãn tương lai, cứ cho rằng người khác đối với

mình không tốt, cho rằng mình cư xử tốt với người, tự biện hộ, tự đứng trên cương vị không

thua ai cả, rằng mình là hơn người, thì không thể tu Ðạo được. Tu Ðạo tức là chẳng biện hộ,

chẳng giảo hoạt, chẳng nói chuyện thị phi; cho nên nói:

Ma Ha Tát, bất quản tha,

Di Ðà Phật, các cố các.

(Ðại Bồ Tát, chẳng xen vào chuyện người.

A Di Ðà Phật, ai lo chuyện nấy!)

Luôn luôn canh gác thân tâm, không nghĩ loạn xạ, đó tức là chân chính tu Ðạo. Kẻ không

chân chính tu Ðạo thì lúc nào cũng nghĩ này nọ loạn xạ, lúc nào cũng tìm phương cách để

làm lợi cho mình. Vì thế kẻ chân chính tu hành thì phải:

Vạn duyên phóng hạ,

Nhất niệm bất sanh.

(Buông xả mọi chuyện,

Một niệm không khởi.)

Buông xả tất cả danh lợi, tiền tài, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ. Không khởi ý niệm nên không

có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả; luôn luôn tự tại an lạc. Chân chính tự tại là gì? Tức là

không khởi vọng tưởng! Nếu tối ngày cứ khởi vọng tưởng thì mình không có tự tại; tư tưởng

loạn xạ của mình sẽ tới khắp cùng hư không, Pháp giới. Nếu không muốn tu thì chẳng cần

nói làm gì, bằng nếu muốn chân chính tu hành thì đừng nghĩ loạn xạ, hãy đem tâm mình cột

chặt một chỗ, nhất tâm chuyên niệm. Hễ chuyên nhất thì mới linh ứng; hễ tâm phân tán thì

trở nên u mê. Cho nên người muốn tu thì phải biết đạo lý này vậy.

Ngày thứ 20:

Chính vì những quy điều nghiêm ngặt như vậy nên mặc dù cũng có tiếp chuyện một vài vị

thầy Việt Nam tu trong VPPT, nhưng chẳng có thầy nào mời tôi vào phòng, để thấy và để biết

các thầy sống trong phòng như thế nào, sinh hoạt tu hành, học tập ra sao? Có việc mấy thầy

bước ra ngoài nói chuyện vài câu, xong trở vào phòng, hoặc bảo tôi rằng, có việc gì cứ việc

viết vào giấy và bỏ vào khay thư bên ngoài cửa, và các vị ấy sẽ viết lại trả lời. Thật tôi chưa

từng thấy nơi nào trên thế giới có đời sống tu hành khô khan và lạnh lùng đến như vậy.

Nhưng ngẫm nghĩ lại, như vậy thấy mà hay vì tập cho người tu sĩ ở đây chỉ biết có tu, tu và

tu. Không biết tu thì sẽ không thể trụ nổi ở VPTT được, vì rõ ràng một đời sống khô khan, cô

độc và chỉ có tu như vậy thì chỉ có những người tha thiết tu hành, sống chết tu hành mới có

thể chịu đựng nổi một đời sống như vậy qua năm này, tháng nọ. Bên cạnh đó, cái lạnh khủng

khiếp ở trong phòng, giống như đang sống trong một tủ đá, cái đói vì ngày chỉ được ăn một

bữa (có lúc tôi thấy thèm một thỏi sô-cô-la, một cái bánh quy nào đó, nhưng đành bất lực) và

nhiều cái bất như ý khác như nói chuyện, quan hệ.v.v… làm tôi liên tưởng rằng, ở nhà tù tại

những xứ Tây phương cũng còn sướng hơn ở đây rất nhiều.

Dĩ nhiên các bậc thầy tổ như H.T Tuyên Hóa huấn luyện hàng đệ tử tu hành như vậy đều có

cái lý từ nơi trí tuệ siêu việt của ngài. Tất cả sự kham nhẫn và khổ luyện đó sẽ tạo cho người

xuất gia một sức mạnh kham nhẫn cao độ, một sự rèn dũa, trui mài ý chí, tích công bồi đức,

một sự tích lũy công đức và phước báu trong đời sống tu hành, để mài sáng trí tuệ, rửa sạch

hoặc nghiệp, soi chiếu chân tâm vốn từng thanh tịnh nhưng đã bị ô nhiễm, vấy bẩn dày đặc

bởi bụm bặm trần lao. Không có một bậc thầy trí tuệ quang minh soi sáng, chỉ bày, từ bi tận

tụy dạy dỗ, chúng ta những người xuất gia vẫn còn là phàm phu sẽ vẫn bị đẩy đưa, cuốn hút

và đi lạc vào thế gian đầy những cám dỗ thú vị, khoái lạc mê say của cuộc đời mộng ảo này.

Để rồi một phút giây quyết định và bị dẫn đi lạc, hai mươi lăm năm sau mới tỉnh ngộ và

muốn trở về.

H.T Tuyên Hóa khai thị:

Bí quyết của người tu hành là nên ăn ít. Vì sao? Vì ăn ít thì bớt sanh dục niệm. Dục niệm ít

thì có thể biết đủ (tri túc). Biết đủ thì thường xuyên được an lạc.

Luôn luôn an lạc thì không có phiền não. Không có phiền não thì Bồ-đề nảy sanh. Bồ-đề nảy

sanh thì được giải thoát. Ðạt được sự giải thoát tức là có thể "nhiệm vận tự tại, sanh tử tự tại,

trí huệ tự tại"- tóm lại là hoàn toàn tự tại. Ðó là những chặng đường mà người tu hành phải

trải qua; mọi người hãy cùng nhau gắng sức! Người tu hành cần phải nhẫn nại, bất luận cảnh

giới thử thách nào xảy đến cho mình thì cũng phải dùng lòng nhẫn nại mà nhịn nhục, nghiến

chặt răng mà chịu đựng; lúc đã vượt qua "cửa ải" được rồi thì "gió êm sóng lặng," tự nhiên sẽ

được yên ổn.

Khi làm việc, nếu có những việc mình không muốn làm thì cũng nên nhẫn nại mà làm, lâu

dần sẽ quen đi, rồi trở thành tự nhiên. Nói tóm lại, bất luận làm công việc gì chúng ta cũng

đều nên làm cho đàng hoàng, có lương tâm; chớ nên lười biếng, trốn tránh công việc cho

nhàn thân, hoặc làm cẩu thả qua loa cho xong chuyện. Nếu có ý tưởng "làm Hòa Thượng một

ngày thì đánh chuông một ngày," tức là trái ngược với Ðạo; hạng người này chẳng qua là

"dựa vào Phật để có áo mặc, nương theo Phật để kiếm cơm ăn," sống lây lất qua ngày tháng,

chắc chắn chẳng có triển vọng gì cả!

Tôi dùng hai chữ "nhẫn nại" làm phương châm cho đời mình -bất luận trong hoàn cảnh nào

cũng dứt khoát không chịu đầu hàng, cương quyết nhẫn chịu hết thảy bằng cả thân lẫn tâm.

Khi còn ở tại quê nhà Ðông Bắc, tôi đã quen "chịu nóng chịu lạnh." Vào những ngày "tam

cửu" (thời kỳ lạnh nhất trong năm), tôi không mang giày mang vớ gì cả, cứ để chân trần mà

đi trong tiết trời giá rét như cắt, khiến chân bị lạnh cóng đến đau buốt -nhưng tôi vẫn cố gắng

chịu đựng, hễ nhẫn nại được thì không còn thấy đau nữa! Còn trong mấy hôm "tam phục"

(thời kỳ nóng nực nhất trong năm) thì khí trời nực nội đến nỗi đầu óc choáng váng, mặt mày

xây xẩm; bước đi mà cứ thấy trước mắt một màn tối đen, tưởng chừng như trời đất đang quay

cuồng đảo lộn vậy. Nhiều người cảm thấy nóng bức đến lả người, nhưng tôi nhận thấy cũng

không đến nỗi nào, chỉ cần ngồi nghỉ một lát là khỏe ngay.

Tôi lấy hai chữ "nhẫn nại" làm Pháp-bảo để khắc phục mọi khó khăn - chịu lạnh chịu nóng,

dầm mưa dãi nắng, nhịn đói nhịn khát; tôi nhẫn nại chịu đựng tất cả, nhất quyết không "kéo

cờ trắng" đầu hàng.

Sau khi xuất gia, tôi chuyên tâm tu Pháp Môn Nhẫn Nhục. Nếu có người mắng tôi ư? Thì tôi

cứ như chẳng nghe thấy gì cả, hoặc coi như mình đang nghe nhạc vậy, và tự nhiên được bình

an vô sự! Nếu có người đánh tôi ư? Tôi tuyệt đối không đánh trả, mà chỉ đón nhận với thái độ

bình tĩnh, ôn hòa!

Tôi cũng kiên nhẫn hành trì các khóa lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối - sáng sớm tinh

mơ, khi gần đến giờ phải lên Chánh Ðiện, dù đang ngon giấc mà nghe tiếng mõ báo hiệu là

tôi lập tức vùng dậy. Súc miệng rửa mặt, chuẩn bị xong xuôi là tôi lên Chánh điện chờ sẵn;

bao giờ tôi cũng đến sớm năm phút, không một lần trễ nãi!Từ khi xuất gia đến nay, tôi luôn

luôn dùng lòng nhẫn nại để làm việc. Khi tôi đến những nơi khác để tham cứu học hỏi, bất

luận là hành lễ Công Phu Khuya, Công Phu Tối, giảng Kinh thuyết Pháp, nghe Kinh nghe

Pháp, hay Cúng Ngọ, tôi đều tới sớm hơn giờ giấc ấn định, chưa bao giờ chậm trễ một chút!

Hôm nay tôi mang sự việc trước kia của mình ra kể cho các bạn nghe tức là "hiện thân thuyết

Pháp" vậy! Nếu muốn tu hành một cách chân chánh, thì các bạn không được lười biếng, khi

làm việc thì phải tích cực, hăng hái, và không được thiếu lòng nhẫn nại. Dẫu có những điều

không thể nhẫn nhịn được thì cũng phải nhẫn nhịn, và nếu có những việc không thể chịu

đựng nổi thì cũng phải chịu đựng. Nhẫn nhịn và chịu đựng tất cả -đó là kim chỉ nam của

người tu hành.

Ðặc biệt là trong thời kỳ còn đang học hỏi, rèn luyện thì các bạn càng phải cố gắng nhẫn nhịn

và chịu đựng hơn nữa; cho dù thật tình là chẳng thể nào nhẫn nhịn được nữa thì cũng vẫn

phải ráng dằn lòng mà nhẫn nhịn! Có câu:

Nhẫn phiến khắc, phong bình lãng tĩnh,

Thối nhất bộ, hải khoát thiên không.

(Nhẫn một chút, gió êm sóng lặng,

Lùi một bước, biển rộng trời cao.)

Ngày thứ 21:

Ngày cuối của khóa thiền thất 3 tuần và trong buổi vấn thiền sau cùng, tôi được hỏi và trình

bày về cảm nhận của mình sau khóa tu trước đại chúng. Tôi không dám nói nhiều vì sợ ảnh

hưởng thời gian của các hành giả khác, chỉ bày tỏ lòng biết ơn đối với chúng tăng và các vị

hộ Phật tử pháp đã tận tâm lo khóa tu mà trong đó tôi đã được hưởng. Ngoài ra trải suốt thời

gian tu tập ở VPTT, tôi cảm nhận và thấy rõ tinh thần dụng công, tu tập của tất cả mọi

người, giờ giấc y theo nội quy (chính xác đến từng giây), môi trường, đạo tràng rất thanh

tịnh và trang nghiêm, phương pháp tu thiền thoại đầu rõ ràng, minh bạch, có nhiều sự chứng

ngộ của các bậc thầy đi trước và gần đây; các bài pháp, khai thị thường chỉ bày những khúc

mắc khi ngồi thiền và tán loạn tâm trí, cũng nhắc nhở, khuyến tấn những người tu phải dụng

công “như cá thiếu nước, như lửa cháy đầu”, phải mau đạt đến sự kiến tánh, giác ngộ. Như

vậy phần còn lại là ở sự dụng công của mỗi cá nhân chúng ta. Tôi thấy rõ điều này nên phát

nguyện trong 10 năm tới sẽ y theo thiền pháp này tu hành, cần cầu đạt đạo.

Về lại chùa Cực Lạc, Thái lan trong thời gian tới sẽ là thời gian nhập thất chuyên tu của tôi

với các thời khóa mỗi kỳ thiền thất là 11 tuần. Tuần đầu dành cho khóa Phật thất chuyên trì

danh niệm Phật và 10 tuần còn lại là khóa thiền thất, chuyên tu về thoại đầu. Như vậy thay vì

nhập thất một hơi liền 3 năm như trước đây tôi từng thực hiện, thì bây giờ từng kỳ thiền thất

ngắn hạn trong 77 ngày (khoảng 3 tháng) và 3 năm sẽ có được 12 khóa như vậy. Tu tập nhập

thất và kham nhẫn hành trì là một việc làm khó khăn và đòi hỏi nhiều nhân duyên, phước

lành mới thực hiện được, nhất là môi trường tu hành phải ở nơi A-lan-nhã, rừng núi vắng vẻ,

trang nghiêm thanh tịnh, xa cách thế giới đầy loạn động này thì mới dễ thành tựu được. Chùa

Cực Lạc nơi tôi ở có đầy đủ những yếu tố như vậy, nên tôi rất hài lòng với trụ xứ và phương

hướng tu tập trong thời gian tới của mình.

Sau khóa tu tôi có được cơ duyên gặp gỡ Phương trượng VPTT cùng một số chư Tăng trong

viện, thỉnh ý quý ngài tạo duyên đưa pháp này về Thái Lan, chùa Cực Lạc cho Tăng Ni và

người Phật tử Việt Nam có cơ duyên tiếp cận và tu hành. Được vậy thì dòng pháp ấy sẽ đem

lại lợi lạc biết là bao cho chúng sanh, nếu không pháp ấy chỉ được xiển dương ở Hoa Kỳ và

chỉ có người Mỹ và hàng Phật tử ở Mỹ được lợi lạc thì quả thật điều ấy giới hạn và đáng tiếc

biết dường nào.

Tôi cũng phát tâm rằng, nếu ngôi chùa Cực Lạc được sử dụng đúng nghĩa và lợi ích cho

người Việt Nam thì tôi cũng sẽ phát tâm cúng dường ngôi chùa này cho VPTT để hoằng pháp

tại Á châu. Tôi có đem máy laptop chiếu các hình ảnh về ngôi chùa và cho biết là chùa được

xây từ năm 2005 trên diện tích đất 8 hecta với số tiền cho đến nay là hơn 4 triệu Mỹ kim và

nếu phát triển thì nơi đây có thể biến thành một Đại tòng lâm, trụ sở quy mô của VPTT tại Á

châu. Ở Thái Lan thì người Hoa cũng rất nhiều, mà người Việt Nam từ Việt Nam qua thì

cũng gần bên và nơi đây có thể được dùng làm nơi tu tập, đào tạo Tăng tài tại Á châu trước

khi đưa sang Hoa Kỳ. Được vậy thì lợi lạc cho chúng sanh vô cùng và tôi mong điều đó lắm

thay.

Ngài Phương trượng từ tốn trả lời rằng, việc sở hữu và đứng tên ngôi chùa không quan

trọng, mà việc hoằng pháp mới là điều quan tâm và nếu pháp này có thể làm lợi ích cho

người Việt Nam thì thầy sẽ cử quý thầy về Á châu để hướng dẫn Phật tử tu hành. Thầy quay

sang hỏi thầy Hằng Toàn, (người Việt Nam, một bậc trưởng thượng tu tại VPPT từ thời ngài

Tuyên Hóa) rằng thầy có muốn sang Thái Lan để hoằng pháp không? Mặc dù thời gian

hoằng pháp của ngài tại Hoa Kỳ rất bận rộn, nhưng nếu có sự chỉ dạy của H.T phương

trượng thì ngài sẽ y giáo phụng hành. Tôi nhân đó đã thỉnh ngài qua Thái Lan hoằng pháp

trong khoảng 3 tháng mỗi năm và thầy có hứa là sẽ xem lại chương trình. Tôi rất mừng vì đã

được thầy Hằng Toàn và H.T phương trượng từ bi quan tâm chiếu cố và dự định từ tháng 6

đến hết tháng 8 hàng năm sẽ có đủ duyên để tổ chức khóa tu tại chùa Cực Lạc, cho mọi

người con Phật có nhân duyên hội nhập vào giáo pháp đặc biệt này.

H.T Tuyên Hóa khai thị: Không Nên Có Thái Ðộ Cống Cao Ngã Mạn Ðối Với Tam

Bảo!

Theo đạo Phật thì người tại gia phải kính trọng người xuất gia, chứ không được "coi trời bằng

vung," không được khinh thường người xuất gia, không được phê phán người xuất gia. Người

tại gia phải biết cúng dường và tán thán người xuất gia, như vậy thì mới không tạo ra mạn

nghiệp (nghiệp kiêu mạn); nếu không, người tại gia sẽ trở nên cống cao ngã mạn, chẳng

những không được công đức mà còn tạo tội nữa, theo định luật nhân quả thì chắc chắn sẽ bị

đọa vào ba đường ác.

Ngược lại, khi thọ nhận sự cúng dường của người tại gia, giúp họ trồng ruộng phước, thì

người xuất gia cần phải hồi quang phản chiếu, suy xét hằng ngày mình có tu hành đàng hoàng

hay không, bởi vì:

Thí chủ nhất lạp mễ,

Trọng như Tu Di sơn,

Thực hậu bất tu Ðạo,

Bị mao đái giác hoàn!

(Một hạt cơm thí chủ,

Nặng như núi Tu Di,

Ăn rồi không tu hành,

Mang lông, đội sừng trả!)

Người xuất gia khi thọ nhận sự cung kính của kẻ khác thì phải biết tự phản tỉnh, bản thân

mình có xứng đáng để nhận sự cung kính chăng? Thân mình mặc áo của người tu, nhưng phải

chăng mình chẳng khác gì kẻ đời? Phải chăng hằng ngày mình thường khởi những vọng

tưởng vô ích? Phải chăng từ sáng tới tối mình luôn nóng giận, bực dọc? Phải chăng từ sáng

tới tối mình luôn đố kỵ hoặc chướng ngại sự tu hành của kẻ khác? Người xuất gia nếu phạm

những điều như trên thì không đủ tư cách để thọ sự cúng dường của người tại gia, dù cho

miễn cưỡng mà thọ nhận, thì vẫn thấy thẹn với lòng.

Người xuất gia tu Ðạo cần phải luôn luôn chú ý, không được hồ đồ ở trong đạo tràng lãng phí

thời gian. Nếu sống như thế mà lại thọ nhận sự cúng dường của kẻ tại gia thì thật là điều hết

sức sai lầm! Vì sao người tại gia nên cúng dường người xuất gia hoặc là hộ trì người xuất

gia? Là bởi vì người xuất gia chuyên tâm tu Ðạo, không có vọng tưởng, phiền não hay tật đố

như kẻ đời. Nếu được như vậy thì mới xứng đáng với sự cung kính và cúng dường của người

tại gia, mới có thể thọ nhận mà lòng không hổ thẹn.

Nếu người xuất gia mà không chân thật tu hành, thậm chí không cung kính và thành khẩn

như người tại gia, thì không có tư cách để thọ nhận sự cung kính và cúng dường của kẻ khác!

Ðây là điều mà mọi người cần phải giác ngộ sâu xa, không thể "lẫn lộn mắt cá với hạt ngọc,"

không nên ở trong đạo Phật mà kiếm miếng ăn.

Khi người tại gia cúng dường cho người xuất gia thì không được có tâm phân biệt, không

được có tâm lựa chọn: "Vị Thầy này có tu hành nên tôi muốn cúng dường. Vị Thầy kia không

có đạo hạnh nên tôi không cúng dường." Ðừng nên có tâm trạng không chánh đáng như vậy.

Bất luận ở đâu chúng ta cũng đều nên cúng dường Tam Bảo, chứ đừng bới lông tìm vết, đừng

tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo. Nếu bạn cứ luôn tìm kiếm lỗi lầm của Tam Bảo, thì đó chính

là tánh cống cao ngã mạn của bạn tác quái, dứt khoát bạn không đủ tư cách hộ trì Tam Bảo!

Ở trong đạo tràng, chúng ta đừng nên tạo tội lỗi mà cần phải làm nhiều việc công đức, như

thế mới bù đắp được những tội lỗi mình đã tạo khi xưa. Ðầu tiên, chúng ta cần phải sám hối,

bởi:

Di thiên đại tội,

Nhất sám tiện tiêu.

(Tội lỗi dẫu lớn đầy trời,

Nếu biết sám hối, tội thời tiêu tan.)

Vậy phải sám hối như thế nào? Chúng ta phải ở trước tứ chúng mà kể ra tất cả tội lỗi mình đã

làm, phải nói rõ mọi chi tiết của các tội và phát nguyện rằng từ nay về sau tuyệt đối sẽ không

tái phạm. Như vậy thì chư Phật và chư Bồ Tát mới có thể tha thứ cho chúng ta và giúp ta trừ

sạch nghiệp tội. Những tội lỗi trước kia của chúng ta đều là "vô tâm sở phạm," tức là do vô ý

mà phạm. Song le, từ nay về sau, nếu chúng ta tái phạm thì đó là "minh tri cố phạm"- biết rõ

mà vẫn cố ý vi phạm - thì dù có sám hối cũng không có tác dụng bởi nó thuộc loại định

nghiệp, tương lai chúng ta tất sẽ chịu quả báo. Chúng ta không nên có tư tưởng: "Ban ngày

tạo tội, ban đêm cầu nguyện, kể như vô tội!"; rồi cứ gây nghiệp luôn luôn, mà gây xong thì

tiếp tục cầu nguyện, và dần dà tạo thành một thói quen máy móc. Nếu cứ như thế thì tương

lai nghiệp tội của chúng ta sẽ chất chồng như núi Tu Di, không đọa địa ngục sao được!

Trong đạo tràng của chúng ta có hóa thân của mười phương chư Phật, hóa thân của mười

phương chư Bồ Tát, hóa thân của chư Bích Chi Phật, hóa thân của chư Thánh nhân A-la-hán,

và cả Thiên Long Bát Bộ cũng ở đây hộ pháp nữa. Vì thế, nếu chúng ta ở trong đạo tràng mà

cứ luôn gây phiền phức cho người khác, soi mói lỗi lầm của mười phương vậy! Sống trong

đạo tràng mà một mặt tu hành, một mặt tạo nghiệp - công đức tu được không bằng ác nghiệp

tạo ra thì cũng giống như tiền gởi trong ngân hàng không bằng tiền chi tiêu; nếu không bù

được sự thâm thủng thì tương lai sẽ bị phá sản.

Bởi vậy:

Thiện ác lưỡng điều đạo,

Tu đích tu, tạo đích tạo.

(Thiện ác hai con đường,

Tu thì tu, tạo vẫn tạo.)

Nghĩa là thiện, ác hai con đường, một mặt mình tu, mà ác nghiệp thì vẫn tạo. Do đó, đừng

nên ở chùa mà chỉ biết tạo nghiệp ác. Hãy nên thường xuyên tìm kiếm lỗi lầm của chính

mình, chứ đừng soi mói sự sai trái của người khác. Nếu cứ chuyên tìm lỗi người, chướng ngại

kẻ khác tu hành thì chẳng những bản thân mình không được điều gì tốt lành mà tương lai

mình còn phải gánh chịu quả báo, hậu quả khó lường!

KHÓA TU CHẤM DỨT.

Buổi trở về lại San Jose, Phật tử trên xe đưa tôi xem một số điềm lành hiện ra trong khóa tu

Phật thất và Thiền thất, trong có có hình hào quang xuất hiện giữa mặt trời, mặt trăng, có

mây ngũ sắc, rồi những đám mây hình rồng rõ nét, cùng những hình ảnh Xá lợi của một vị

Phật tử ở VPTT mất cách đây không lâu với trên 300 viên Xá lợi. Tôi thầm nghĩ, nếu người

nào có được môi trường tu hành thanh tịnh như ở đây, có các bậc thiện tri thức và đại chúng

tu hành tinh tấn, trang nghiêm hàng ngày bên cạnh thì việc vãng sanh nào có khó gì. Những

điềm lành, linh cảm như trên hiện ra là điều tất yếu.

Phần cuối, nơi đây tôi sẽ giới thiệu sơ qua về cuộc đời của vị Thánh tăng cận đại cùng với

tông chỉ và các giáo pháp đặc biệt của ngài, một người nói rất thẳng và tu rất thật, thế nên ai

không quen nghe như vậy sẽ cảm thấy rất động chạm và chột dạ vì như ngài rầy la đến mình.

Có một sự cố xảy ra ngài thuật lại như sau:

Vào năm 1979, lúc Vạn Phật Thánh Thành làm lễ khai mạc, có hơn mấy trăm người từ Mã

Lai đến. Ngoài ra, lại còn có các vị thiện nam, tín nữ từ các nơi như: Hồng Kông, Ðài Loan,

San Francisco, Los Angeles cũng đến dự Pháp hội, tổng cộng cũng có tới vài ngàn người.

Ngày hôm đó, câu gì mà tôi nói trước nhất với mọi người, tôi vẫn còn nhớ rất rõ.

Tôi nói: “Cả đời tôi, tôi rất coi thường những người có tiền. Vì sao vậy? Bởi vì các vị có

bao nhiêu tiền, thời các vị có bấy nhiêu nghiệp tội theo sau.”

Nghe tôi nói như thế, có hơn cả trăm người đến từ Mã Lai bèn muốn tranh cãi với tôi. Họ nói:

“Chúng tôi đến đây để ủng hộ Thầy, vậy mà Thầy còn mắng chúng tôi nữa. Chúng tôi đều là

người có tiền, nếu nói vậy là không đúng rồi!”

Họ muốn nói đạo lý với tôi, nhưng lại không dám công khai. Họ bèn đi thỉnh giáo vị đoàn

trưởng kiêm cố vấn của họ là Pháp Sư Ðạt Ma Nan Ðà. Pháp Sư Ðạt Ma Nan Ðà sau khi

nghe chuyện, Pháp Sư bèn quở trách họ: “Quý vị đã sống đến bảy, tám mươi tuổi rồi,

nhưng đối với sự việc như vầy mà cũng vẫn không phân biệt được đúng sai. Lúc bấy giờ

tôi ngồi bên cạnh Pháp Sư Tuyên Hóa, tôi cũng đã nghe mỗi một câu ngài nói đều là

chánh pháp. Nếu quý vị muốn tranh cãi với Pháp sư Tuyên Hóa, vậy tôi không thể ở

chung trong nhóm quý vị nữa. Hoặc là quý vị đi, hoặc là tôi đi!”

Thấy vị cố vấn của họ phản ứng như thế, họ mới không đến tranh cãi với tôi.

SƠ LƯỢC VỀ CUỘC ĐỜI VÀ HÀNH TRẠNG CỦA H.T TUYÊN HÓA

Hoà Thượng vốn họ Bạch, tên tục là Ngọc-Thư, Pháp danh là An-Từ, tự Ðộ Luân, và Tuyên

Hóa là Pháp hiệu do Lão Hòa Thượng Hư Vân đặc biệt tặng cho khi Ngài thọ lãnh sứ mạng

làm người kế thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền Tông Quy-Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16

tháng 3 năm Mậu Ngọ (1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song-Thành, tỉnh Tùng-Giang, Ðông

Bắc Trung Hoa (tức Mãn Châu). Thân phụ Ngài tên Phú Hải, chuyên nghề nông; thân mẫu

thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được tám người con, năm trai ba gái, và Ngài là út.

Thân mẫu Ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy

Ðức Phật A-Di-Ðà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng khắp thế giới, chấn động thiên địa.

Giật mình tỉnh giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau đó hạ sanh Ngài.

Ngài vừa ra đời liền khóc suốt ba ngày đêm, chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta

Bà này vậy.

Năm Ngài mười một tuổi, một hôm cùng chúng bạn dạo chơi, Ngài chợt trông thấy một em

bé miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì

chẳng có hơi thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ hiểu biết nên liền nói :

"Ðứa bé đã chết rồi!" Song Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào là chết.

Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy :

"Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có

kẻ chết vì tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc cũng phải

chết cả!"

Ngài lại thưa : "Như vậy, có cách gì thoát khỏi sự chết chăng?"

Bấy giờ trong nhà có vị khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng:

"Chỉ có cách tu Ðạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì mới có thể chấm dứt

sanh tử, thoát vòng luân hồi, thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh."

Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết

chí xuất gia tu Ðạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với thân mẫu, bà dạy:

"Xuất gia là điều tốt lắm, song không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có đại

nguyện lực, phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con

có lòng vậy, mẹ hết sức đồng ý! Song, nay mẹ đã già, mà các anh chị con đều đã tự

lập; vậy con nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi mẹ mất rồi, con xuất gia tu hành

cũng chưa muộn."

Ngài vâng lời cha mẹ. Sau đó, hằng ngày Ngài thường theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật

xong, Ngài lạy cha mẹ. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả cha mẹ, nên Ngài hướng

về trời, đất, vua, sư trưởng mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế giới mà lạy,

thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã làm. Nhận thấy những người ác thật đáng thương, Ngài

lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của họ được giảm bớt và họ sớm biết hối cải. Mỗi

ngày Ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày Ngài

đều đặn lạy 837 lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối.

Ngày lại ngày, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Ðức Phật vậỵ Chẳng bao

lâu tiếng hiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người

con chí hiếu họ Bạch).

Năm Ngài mười chín tuổi thì gặp phải tang thân mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, Ngài

đến Chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau

đó, Ngài về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong

một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại Thừa và niệm danh hiệu

Phật A-Di-Ðà. Rất nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong nhiều tuần lễ

chẳng rời thiền sàng. Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của

Ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì

sáng rực như ban ngày. Song, khi tới nơi mọi người thấy túp lều tranh vẫn bình lặng, và Ngài

thì an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Ðịnh!

Có lần Ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay,

chính là Lục Tổ Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ đến Mỹ Quốc

để độ sinh, rằng ở Tây Phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương Phật

Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài

mới choàng tỉnh, sực nhớ rằng Ðức Huệ Năng vốn là người đời Ðường, khoảng 1.200 năm về

trước!

Năm 1946, sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, tình trạng giao thông

trong nước đã bắt đầu dễ dàng trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để

đến Chùa Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Ðông, đảnh lễ Lão Hòa

Thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Ðà để thọ Cụ Túc Giới. Cuối cùng, trải

hơn 3.000 dặm, Ngài đã được bái kiến Lão Hòa Thượng Hư Vân, bậc Ðại

Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ.

Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng, lúc ấy đã 109 tuổi, liền nhận ra

ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói :"Như thị, như

thị!" và Ngài cũng đáp lại "Như thị, như thị !" Biết Ngài là bậc 'pháp khí',

Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài, và Ngài chính thức

trở thành vị tổ thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng. Lão Hòa Thượng

Hư Vân đã bày tỏ sự tin tưởng vào Ngài qua bài kệ:

Tuyên Quy diệu nghĩa chấn gia thanh,

Hóa thừa Linh nhạc Pháp Đạo long,

Độ dĩ tứ lục truyền tâm ấn,

Luân triền vô hưu tế khổ luân.

Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật Chùa

Nam Hoa.

Năm 1949, Ngài từ giã Chùa Nam Hoa, lên đường sang Hương Cảng, và sống trong một sơn

động biệt lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa Ðại Lục qua Hương Cảng tỵ nạn

và cần sự giúp đỡ của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động, sáng lập Phật Giáo

Giảng Ðường, Chùa Tây Lạc Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng và trùng tu

nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng khổ

hạnh, tinh tấn tu Ðạo, vì Pháp quên mình. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến

họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.

Vốn nuôi chí nguyện đem Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn thế giới, nên năm

1961, Ngài sang Úc Châu hoằng Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco, Hoa Kỳ.

Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng

dương Ðạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần

mộ), và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống).

Đại Lão Hòa

Thượng Hư Vân

và Hòa Thượng

Tuyên Hóa

Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, Ngài nói: "Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh." Mùa hè năm

ấy, Ngài chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả

nhiên có năm người Mỹ xin xuất gia với Ngài. Từ đó, Ngài chủ trì nhiều Pháp hội khác giảng

giải Tâm Kinh, Kinh Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn, v.v… Năm 1971, Ngài

giảng bộ Kinh tối cao của Ðại Thừa, Kinh Hoa Nghiêm.

Thể theo lời khuyến bảo của H.T, thêm nhiều thanh niên nam nữ, người Hoa có, người Mỹ

có, người Việt có, đều kéo nhau đến quy y và xuất gia tu hành, thọ giới cụ túc. Trong số này

có những vị nguyên là Tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, họ dám bỏ lại đàng sau cả cuộc đời tươi đẹp

của mình để vào cửa Phật tìm chân lý. Có những người thì thực tập khổ hạnh tam bộ nhất bái

đến gần 3 năm trường, lại có người thực tập khổ hạnh khác bằng cách nhịn ăn một tuần lễ,

hoặc 21 ngày hoặc 36 ngày hoặc 72 ngày. Các cách thức khổ hạnh đó là những việc làm chưa

từng xảy ra trong lịch sử PG nước Mỹ và quả là những việc hy hữu xưa nay. Những điều này

xảy ra chính là vì đức hạnh siêu việt của H.T làm cho họ vô cùng cảm động, khiến họ phải

phát tâm noi theo tinh thần quên mình độ người của ngài để hành Bồ tát đạo.

Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm

1976, Ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp

tại Hoa Kỳ. Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm, đào tạo Tăng Ni học

chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chánh tu hành. Ngài chủ trương rằng tất cả Phật

tử cần phải đoàn kết lại và nên dung hợp Nam, Bắc Tông. Vì thế, nhiều dịp truyền thọ Tam

Ðàn Ðại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh Thành là do chư cao tăng Ðại Thừa và Tiểu Thừa

hợp lực chủ trì.

Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài đã làm bài kệ nói lên quyết tâm của mình:

Đống tử bất phan duyên,

Ngạ tử bất hóa duyên,

Cùng tử bất cầu duyên.

Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên,

Bao định ngã môn tam đại tông chỉ.

Xả mạng vi Phật sự,

Tạo mạng vi bổn sự,

Chánh mạng vi Tăng sự.

Tức sự minh lý, minh lý tức sự,

Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm truyền.

Tạm dịch:

Dù rét chết, không phan duyên;

Dù đói chết, không van nài;

Dù nghèo chết, không cầu cạnh.

Tùy duyên, không đổi; không đổi, tùy duyên;

Ba Tông Chỉ ấy, ta phải giữ gìn.

Xả thân vì Phật sự,

Tạo mạng vì bổn sự,

Chánh mạng vì Tăng sự.

Hiểu sự, rõ lý; rõ lý, hiểu sự;

Hai câu đối sau lưng Hòa Thượng:

Đống tử bất phan duyên,

Ngạ tử bất hóa duyên,

Cùng tử bất cầu duyên.

Tùy duyên bất biến, bất biến tùy

Lưu hành mạch phái Tổ Sư tâm truyền. duyên,

Bao định ngã môn tam đại tông chỉ.

Xả mạng vi Phật sự,

Tạo mạng vi bổn sự,

Chánh mạng vi Tăng sự.

Tức sự minh lý, minh lý tức sự,

Thối hành Tổ Sư nhất mạch tâm

truyền.

H.T đề xướng các bộ môn Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh, dẹp bỏ hàng rào ngăn cách giữa các

tông phái với nhau, coi việc phục hưng Phật giáo là trách nhiệm của mình, đồng thời thúc dục

hàng môn đệ phải ngày ngày tham thiền, hoặc niệm Phật, sám hối, nghiên cứu kinh điển,

chân thực tu hành.

Năm 1980, Ngài thành lập Trung Tâm Cứu Tế Nạn Dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ

lợi được chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các lớp huấn nghệ và Anh ngữ,

đồng thời giúp tái định cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Cambodia. Trung tâm này đóng

cửa vào năm 1986 theo quyết định của chính phủ.

Với tinh thần "vì Pháp quên mình," Hòa Thượng không quản khó nhọc, thường xuyên đến

các đạo tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật Pháp. Ngài được mọi giới kính

ngưỡng vì nếp sống khổ hạnh và nghiêm trì Giới Luật của Ngài. Trong thời Mạt Pháp mà

nhiều người không tôn trọng Giới Luật này, Ngài đã nêu gương sáng và khuyến khích nếp

sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi chứ

không nằm.

Bình sanh, Ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho

chúng sanh. Cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở nước Cuba vào năm 1962 đã xảy ra không bao lâu

sau khi Ngài đến Hoa Kỳ; Ngài đã tuyệt thực năm tuần lễ để hồi hướng cho nền hòa bình thế

giới. Vào dịp Ngài du hành Ðài Loan năm 1989, Ngài đã nhịn ăn ba tuần lễ để hồi hướng cho

dân chúng Ðài Loan. Sau đó, Ngài lại đi hoằng Pháp tại nhiều nước Châu Âu.

Mặc dầu tuổi tác Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba

mươi năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết Pháp và giảng luận kinh điển Phật Giáo, giương

cao ngọn đèn rực rỡ của trí huệ để soi đường cho chúng sanh đang chìm đắm trong đêm tối

của thời đại Mạt Pháp này. Chính trong lúc Ngài đang bệnh để gánh chịu khổ nạn cho chúng

sanh, Ngài vẫn kiên trì tiếp tục đại nguyện diễn dịch kinh điển Phật Giáo.

Ngày 7 tháng 6 năm 1995 (nhằm ngày 10 tháng 5 năm Ất Hợi), Hòa Thượng Tuyên Hóa thị

hiện viên tịch tại Los Angeles, Hoa Kỳ; trao lại cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu :

(1) Tiếp tục hoằng dương Phật Pháp,

(2) Phiên dịch kinh điển Phật Giáo, và

(3) Hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.

Vâng theo di huấn của Ngài, tứ chúng đệ tử tại các đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật Giáo Pháp

Giới đều chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm Phật suốt 49 ngày kể từ hôm Ngài

viên tịch. Ngày 12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại Long Beach Thánh Tự; và

đến ngày 16 tháng 6, kim quan của Ngài được cung thỉnh về Vạn Phật Thánh Thành. Tại đây,

Ðại Lễ Truy Ân được tổ chức từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 7. Và sau Thánh Lễ Trà Tỳ, ngày

29 tháng 7, tro cốt của Ngài được rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng như lời

di giáo của Ngài:

"Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn không có gì cả.

Tôi không muốn để lại dấu vết gì trên thế gian. Tôi từ hư không đến.

Tôi sẽ trở về hư không!"

Dù cho Ngài không muốn để lại một dấu vết nào trên thế gian này,

nhưng công đức hoằng Pháp tại Tây Phương, phiên dịch kinh điển,

thiết lập đạo tràng và học đường của Ngài lúc còn tại thế đã gieo hạt

giống Bồ Ðề và đã gây được ảnh hưởng sâu rộng đến các tầng lớp dân

chúng Tây Phương. Những dấu ấn đó của Ngài sẽ không bao giờ phai

mờ với thời gian !

Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau ngày Hòa Thượng Tuyên Hóa nhập Niết Bàn,

Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới long trọng tổ chức Lễ Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa Thượng Về

Các Ðạo Tràng Chi Nhánh. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng trong tâm trí

mọi người vẫn âm vang lời di huấn của Ngài: "Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất cả

các tướng !"

Chánh Pháp

Chánh Pháp là gì? Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng

Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép

trong các kinh điển thì không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết ước

định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mạt Pháp

là 10.000 năm.

Trong thời Chánh Pháp (“chánh” có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đã diệt độ, nhưng

Pháp nghi vẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị--

đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ "Thiền Định kiên cố".

Trong thời Tượng Pháp (“tượng” có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành

trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít; thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ "tự miếu

kiên cố".

Trong thời Mạt Pháp (“mạt” có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có

giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này

còn được gọi là thời kỳ "đấu tranh kiên cố".

Trên đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ Chánh, Tượng và Mạt của Phật Pháp.

Thế nhưng, Hòa Thượng định nghĩa về Chánh Pháp như sau:

"Quý vị thành thật tu hành, không ham hư danh giả lợi, không tham của cúng

dường -đó chính là Chánh Pháp trụ thế. Nếu mọi người xuất gia đều có thể giữ

giới không đụng đến tiền bạc (ngân tiền giới), đều có thể ngồi Thiền, có thể ngày

H.T Tuyên Hóa

ăn một bữa lúc giữa trưa, có thể luôn luôn mặc giới y và nghiêm trì giới luật, thì

đó là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!"

Thậm chí Hòa Thượng còn giảng nghĩa một cách đơn giản

hơn nữa:

"Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không

cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó

chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!".

Như vậy, thế nào là thời kỳ Mạt Pháp? Trong quyển 5 của Pháp Hoa Nghĩa Sớ có

chép: "Khi “Pháp” trở thành suy vi, đó gọi là thời Mạt Pháp."

Trong quyển 6, chương Nghĩa Lâm của Đại Thừa Pháp Uyển có nói: "Chỉ có giáo pháp mà

không có gì khác thì gọi là Mạt Pháp."

Tuy nhiên, sự mô tả chân chánh tường tận về thuyết Mạt Pháp được xuất hiện trong phần

Nguyệt Tạng của Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, và trong Kinh Pháp Diệt Tận.

Về sau, thuyết Mạt Pháp xuất hiện dưới triều đại Bắc Tề (550-377 SCN), trong bài văn phát

nguyện của Thiền Sư Huệ Tư ở Nam Nhạc (Nam Nhạc Tư Thiền Sư Lập Thệ Nguyện Văn).

Thiền Sư Huệ Tư đã tự ghi lại là ngài sanh vào năm thứ 82 của thời Mạt Pháp và đã chép lại

toàn bộ Kinh Bát Nhã cùng nhiều bản văn khác. Ngài đã nguyện sẽ truyền Pháp cho đến khi

Bồ Tát Di Lặc đến thế gian này.

Nói chung, cho dù thời kỳ Mạt Pháp nhất định có xảy đến chăng nữa, thì trong quyển 49

của Thập Tụng Luật, Đức Phật cũng đã nêu ra năm điều có thể khiến cho Chánh Pháp không

bị hủy diệt.

Năm điều này là:

1. Tôn Trọng Chánh Giáo. Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo chỉ dựa vào giáo

pháp chân chánh mà tiến tu, xa lánh cái nhìn lệch lạc (thiên kiến) của Tiểu Thừa cùng

các tà thuyết của ngoại đạo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.

2. Chỉ Tức Sân Ác (đình chỉ nóng giận và ác độc). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ

Kheo luôn luôn thực hành hạnh nhẫn nhục, không nóng giận, danh tiếng về đức độ lan

xa làm cho mọi người đều quay về và dốc lòng kính ngưỡng; nhờ đó có thể khiến cho

Chánh Pháp không bị hủy diệt.

3. Kính Sư Thượng Tòa (tôn kính phụng sự các bậc trưởng thượng). Điều này có

nghĩa rằng các Tỳ Kheo tôn kính và phục tòng các vị đại đức ở hàng thượng tọa và

chuyên cần cầu học yếu nghĩa Phật Pháp từ họ; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp

không bị hủy diệt.

4. Ái Lạc Chánh Pháp (trân quý Chánh Pháp). Điều này có nghĩa rằng các Tỳ Kheo

trân quý thâm sâu những giáo pháp nghe được từ các bậc thượng tọa, trưởng lão kỳ

cựu, và vui mừng thực hành theo; nhờ đó có thể khiến cho Chánh Pháp không bị hủy

diệt.

5. Thiện Hối Sơ Tập (giải thích kỹ càng cho kẻ sơ học). Điều này có nghĩa rằng các

Tỳ Kheo phương tiện diễn nói pháp Đại Thừa một cách khéo léo, làm cho những kẻ

mới bắt đầu học Phật Pháp có thể dựa vào để tiến tu trên đường Đạo; nhờ đó có thể

khiến cho Chánh Pháp không bị hủy diệt.

Vào thời Mạt Pháp, chúng sanh không thể liên tục phân biệt được chánh tà, đến nỗi nhiều

người muốn vào cửa Phật để tu hành nhưng đã bị vào lầm cửa. Đó là do họ thiếu "Trạch Pháp

Nhãn". Mặc dầu trong thời Mạt Pháp, hiện tượng "mắt cá xen lẫn ngọc trai" trong cửa Phật

không phải là ít, song nguyện lực của Hòa Thượng rất rõ ràng:

"Tôi nhất định phục hưng Chánh Pháp. Tôi chỉ cho phép Phật Giáo có Chánh

Pháp chứ không có Mạt Pháp! Bất cứ nơi nào tôi đến, nơi đó sẽ có phước đức, trí

huệ và được giảm bớt tai ương. Đây là nguyện lực của tôi. Do đó, không quản

khả năng giới hạn của mình, tôi đi khắp nơi tuyên thuyết Chánh Pháp và hành

trì Chánh Pháp."

Mặc dầu Đức Phật nhiều lần đề cập đến sự hủy diệt của Phật Pháp, tuy nhiên Đức Phật cũng

có ý khắc phục sự hủy diệt của Chánh Pháp. Như trong Kinh Niết Bàn có chép:

"Trong thời Mạt Pháp sẽ có mười hai vạn (120.000) vị Đại Bồ Tát trì Pháp,

khiến cho bất diệt."

Từ đó có thể biết được rằng nguyện lực "không cho phép có Mạt Pháp" của Hòa Thượng há

chẳng phải chính là tâm đại từ đại bi của chư Như Lai hay sao?

Hòa Thượng đã cảm khái rằng:

“Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,

Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,

Thành thật chân chánh, bị chế giễu,

Gian ngoa xảo trá, được tán dương.

Thế giới Ngũ Trựơc híếm thanh tịnh,

Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,

Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:

Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!”

Trong Phật Giáo không thể có 99%--nếu chỉ một phần nhỏ trong Phật Giáo là giả dối, thì đó

không còn là "Chánh Pháp" nữa! Do đó chúng ta phải phân biệt thật rõ ràng, bởi vì trong các

chùa chiền đều có cả "tà pháp và ngoại đạo".

Phật Giáo có câu: "Thà cả ngàn năm chẳng vãng sanh, còn hơn một ngày trong ma đạo".

Nếu chúng ta thiếu Trạch Pháp Nhãn của "Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối" (trong Kinh

Lăng Nghiêm) e rằng chúng ta có thể trở thành quyến thuộc của loài ma mà chính mình lại

không hay không biết!

Để có thể phân biệt chánh tà, ngài dạy ta nên quán xét về bảy điểm như sau:

1. Vị Thầy lấy việc thay đổi chồng vợ, nam nữ hoang dâm, buông thả vô độ, làm

mồi nhử để thu hút đồ chúng, và xem như là phương tiện để cứu thế gian; đó là

tà.

2. Vị Thầy khơi dậy lòng tham của đồ chúng bằng cách nói rằng mình có thể

dùng bùa, chú, và thần tài để giúp họ trở nên giàu có; đó là tà.

3. Vị Thầy khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp việc giết hại chúng sanh và ăn

thịt chúng sanh, còn nói rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu độ vong linh của

những chúng sanh bị ăn thịt; đó là tà.

4. Vị Thầy thực hành các loại khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn để tác động

chúng sanh, và gọi đó là chịu khổ thay cho chúng sanh; đó là tà.

5. Vị Thầy dùng thần thông và các điều kỳ dị làm "công cụ" để thu hút những

chúng sanh có lòng hiếu kỳ; đó là tà.

6. Vị Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu hành trong Phật Giáo và giải

thích lệch lạc ý nghĩa của "tín, giải, tu, chứng," còn tự cho mình là giáo chủ; đó

là tà.

7. Vị Thầy tự lập ra tông phái rồi tự xưng là giáo chủ mà chính mình lại không

có căn bản chân thật về đạo lý Phật Giáo; đó là tà.

Chánh Pháp và Mạt Pháp

Trong rất nhiều buổi giảng H.T đã thẳng thắng phê bình những hiện tượng tu hành sai chánh

pháp. Ngài không đành lòng thấy chúng sanh tu tập sai đường và phải chịu đau khổ khi bị

đọa lạc. Do đó với tâm "đại từ đại bi, gần như tàn nhẫn", ngài bộc lộ hết thảy những lời dạy

dỗ khắt khe như la, mắng, nói thẳng, và đây chính là thiện xảo phương tiện để giáo hóa chúng

sanh của bậc Bồ Tát. Hòa Thượng có lần viết bài thơ nói lên quyết tâm của Ngài:

"Tôi muốn nói lời thật,

Không sợ bị đánh, chửi.

Giết tôi, tôi chẳng sợ,

Giải thoát, có gì ngại?"

Hòa Thượng Hư Vân đã nói:

"Nho sĩ là tội nhân của Khổng Tử; Tăng sĩ là tội nhân của Phật."

Cho nên ở đây Phật pháp suy đồi hay không là do tự trong hàng ngũ của người xuất gia, Cho

nên nói rằng:

"Kẻ hủy diệt Phật Pháp chính là giáo đồ của Phật Giáo, chứ không phải các giáo

phái khác. Kẻ làm cho Lục Quốc diệt vong chính là Lục Quốc, chứ không phải

nhà Tần. Kẻ làm suy sụp nhà Tần chính là nhà Tần, chứ không phải Lục Quốc

vậy."

Trong kinh có nói rằng những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt Pháp có thể nhận thấy ở

khắp nơi - như việc Tăng sĩ cưới vợ, ni cô lấy chồng, giới y cà-sa được thay bằng y phục thế

tục, cư sĩ ngồi trên tòa cao, v.v ... Có cư sĩ Âu Dương Cánh Vô đã dùng tri kiến riêng của

mình mà viết ra Lăng Nghiêm Bách Ngụy Thuyết để phản đối Kinh Lăng Nghiêm.

Lại có Pháp Sư Viễn Tham tuyên bố rằng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Viên Giác, Kinh Pháp

Hoa và nhiều bộ kinh khác, cũng như Đại Thừa Khởi Tín Luận đều là giả mạo. Ở Việt Nam

mình thì có T.T Nhật Từ cũng thường xuyên giảng dạy cho chư Tăng Ni và Phật tử (youtube:

Kinh Lăng Nghiêm. TNT) rằng, kinh Lăng Nghiêm, kinh Địa Tạng là ngụy tạo do chư tổ

Trung Hoa lập ra chứ không phải do Phật thuyết, hoặc là chỉ có 5 cõi chứ không có 6 cõi luân

hồi, không có địa ngục.v.v…Người tu hành hoặc một vị giảng sư chân chính khi thuyết giảng

điều gì phải y theo Kinh, Luật và Luận, ba tạng giáo điển của chư Phật và chư tổ sư truyền lại

để xác lập. Không thể y cứ vào các luận án tiến sĩ của giáo sư này, giáo sư nọ hoặc các tài

liệu nghiên cứu từ đại học này, đại học kia, hoặc cũng không thể y cứ kiến thức, tri thức thế

gian để chứng minh Phật giáo và các cảnh giới trong luân hồi là có hay không có. Người xuất

gia không khéo tu hành, thuyết giảng khắp nơi mà lại tùy tiện diễn giảng theo tư kiến của

mình thì sẽ đắc tội với chư Phật, chư tổ. Đây cũng chính là những hiện tượng của thời kỳ Mạt

Pháp vậy.

Hòa Thượng đã nhiều lần lập lại lời huấn thị về việc bảo vệ và duy trì Chánh Pháp:

"Trong Phật Giáo, tất cả kinh điển đều rất quan trọng,

nhưng Kinh Lăng Nghiêm còn quan trọng hơn nữa. Với ngài thì

nơi nào có Kinh Lăng Nghiêm, thì nơi đó có Chánh Pháp trụ thế.

Khi Kinh Lăng Nghiêm bị mất đi, đó là dấu hiệu của thời kỳ Mạt

Pháp. Khi giảngKinh Lăng Nghiêm, ngài có nói rằng: 'Vào thời

kỳ Mạt Pháp, Kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt trước nhất. Sau đó dần

dần các kinh khác cũng bị diệt theo.'

Kinh Lăng Nghiêm là chân thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là

tháp miếu thờ Phật. H.T nói rằng, nếu Kinh Lăng Nghiêm là ngụy

tạo, thì tôi sẵn sàng chịu đọa địa ngục Vô Gián, vĩnh viễn ở chốn

địa ngục, không bao giờ được trở lại thế gian để gặp mọi người

nữa! Người nào có thể học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, học

thuộc Chú Lăng Nghiêm, thì người đó chính là đệ tử chân chánh

của Phật!"

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với Tôn Giả Ca Diếp rằng:

"Trong quá khứ khi Ta là vị vua tên Hữu Đức, để hộ trì Chánh Pháp, Ta đã

chiến đấu với những kẻ muốn hủy hoại Chánh Pháp, và đã mạng vong. Sau khi

chết, Ta được sanh về cõi nước của Phật A Súc Bệ và trở thành đệ tử thượng thủ

của Đức Phật đó.

Này Ca Diếp! Những người hộ trì Chánh Pháp được quả báo công đức vô lượng

như thế. Do nhân duyên hộ trì Chánh Pháp này, mà nay Ta được tướng hảo

trang nghiêm và thành tựu được Pháp thân kim cang bất hoại."

Pháp tự nó vốn không có "Chánh, Tượng, Mạt"; nhưng tâm con người thì có sự phân biệt về

"Chánh, Tượng, Mạt". Theo Hòa Thượng, bất cứ khi nào còn có người dụng công tu hành, thì

khi đó là Chánh Pháp còn đang trụ thế.

Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng, và học thuộc Kinh Lăng

Nghiêm, thì đó là thời kỳ Mạt Pháp. Bởi trong Kinh Lăng Nghiêm, có phần "Tứ Chủng Thanh

Tịnh Minh Hối" giảng về sát sanh (sát), trộm cắp (đạo), dâm dục (dâm), dối trá (vọng); với

phần "Ngũ Thập Ấm Ma” giảng về thiên ma, ngoại đạo cặn kẽ đến tận xương tuỷ; và cả hai

phần này đều nói rất rõ ràng rằng khi nào không còn người giữ giới, thì khi đó là thời kỳ Mạt

Pháp. Giới còn, tức là Phật Pháp còn vậy!

Vào năm 1990, trong một lần thuyết giảng tại Trung Tâm Lao Công tại Cao Hùng ở Đài

Loan, Hòa Thượng đã khẩn thiết nói rằng:

"Thời kỳ Mạt Pháp là do những người tại gia chỉ hộ trì cho một người xuất gia

riêng lẻ mà tạo thành!".

Vì sao lại như thế? Hòa Thượng giải thích rằng:

"Người xuất gia sống một mình một chùa, xưng vương xưng bá, làm vua một cõi.

Người tại gia do thiếu Trạch Pháp Nhãn nên đi theo hộ Pháp cho họ, hộ tới hộ

lui, và hộ luôn xuống địa ngục!

Vào thời kỳ Chánh Pháp, tất cả đại chúng đều sống chung trong một đại tùng

lâm của chùa, và cùng nhau dụng công tu Đạo. Song, vào thời kỳ Mạt Pháp,

người ta lại không thích nề nếp sinh hoạt của đại tùng lâm nữa. Mỗi người đều ở

một chùa riêng - ông theo cách của ông, tôi theo cách của tôi - khiến cho người

tại gia trở nên hoang mang, bối rối. Họ thấy ông Sư nầy tướng mạo trông đẹp đẽ

bèn hộ pháp cho ông ta, xây chùa riêng cho ông ta trụ trì. Rồi sau đó lại thấy một

vị Sư khác cũng không tệ lắm, họ lại xây cho vị đó một ngôi chùa nữa. Hộ tới hộ

lui, rốt cuộc là làm cho những người xuất gia sanh lòng tham danh hám lợi đến

nỗi phải hoàn tục!"

Hòa Thượng hoàn toàn không phản đối việc xây cất chùa chiền, nhưng chỉ vì con người ngày

nay quá hưởng thụ, không biết lấy “Pháp nghĩa và giáo dục” (nghĩa lý Phật Pháp và đạo lý

giáo dục) để hóa độ chúng sanh. Họ chỉ biết dùng việc "xây chùa lớn" để độ chúng sanh,

cùng bày ra phương cách để được nổi tiếng và trở nên giàu có.

Cái nhìn của Hòa Thượng về việc kiến tạo chùa chiền như sau:

"Tạo chùa không bằng tạo người, tạo người không bằng tạo Phật. Tôi muốn làm

một người thợ đúc tượng. Tôi muốn đúc nên những vị Phật sống, những vị Bồ

Tát sống, những vị Tổ Sư sống. Tôi còn muốn làm cho tất cả chúng sanh trên

toàn thế giới này đều biến thành những vị Phật sống, Bồ Tát sống, Tổ Sư sống

luôn nữa!

Tôi đả phá đây không phải là những ngôi chùa lớn, mà là các miếu thờ Thổ Địa,

miếu thờ Thành Hoàng, miếu thờ của con cháu gia tộc. Khi những người ở chùa

nhỏ dọn sang chùa lớn, thì tất cả có thể cùng nhau tu hành, như thế mới là nếp

sinh hoạt của một đại tùng lâm.

Vì sao ở chùa nhỏ thì không được tốt? Bởi vì ở đó thiếu sự gò bó, câu thúc;

không cần phải ‘quán tự tại’, mà có thể ăn ‘tự tại’, mặc ‘tự tại,’ đi đứng ‘tự tại,’

nên rất dễ quên mất việc tu Đạo. Hằng ngày chỉ biết phan duyên, mà tập khí nầy

chính là vết thương chí mạng làm băng hoại Phật Giáo!"

Tôi hy vọng Phật Giáo sẽ ghi lòng tạc dạ những lời này và đừng tiếp tục "bịt tai ăn cắp

chuông," dối gạt nhân loại nữa. Hiện nay, các dấu hiệu hỗn loạn trong Phật Giáo tại Đài Loan

đã vô cùng nghiêm trọng, có thể nói là đến mức phải báo động rồi; thế nhưng, chẳng có

người nào dám đứng ra lên tiếng kêu gọi; mà ai nấy chỉ trố mắt ngồi nhìn cảnh Phật Giáo

đang đi dần về hướng diệt vong.

Đó là ngài nói rất thẳng đối với tình hình Phật giáo Đài Loan lúc bấy giờ, thời ngài còn sống.

Còn nếu ngài có dịp đến Việt Nam thì chắc không thể không nói những lời mạnh mẽ và xót

xa như vậy. Là những người xuất gia và tại gia tu hành chơn chánh, chắc chúng ta cũng

không thể phủ nhận hiện trạng suy đồi, xuống dốc của Phật giáo mà trong đó chúng ta đang là

một phần. Nếu trong chúng ta có ai còn thao thức với tiền đồ của Phật pháp, với chí nguyện

xuất gia của mình, cầu giải thoát sanh tử thì phải nên tìm cầu, học hỏi những pháp có “vị

đắng” của ngài để tỉnh giác trước cơn mộng mị mê say của cuộc đời.

Giáo nghĩa căn bản của Đức Phật là giáo dục, làm cho tất cả chúng sanh đều có trí huệ, có

Trạch Pháp Nhãn, biết nhân biết quả, đoạn ác tu thiện; chứ chẳng phải một mực chú trọng về

việc xây chùa dựng miếu, tổ chức Đại lễ này kia! Chúng ta có bao giờ tự hỏi rằng đằng sau

những lời giáo huấn nghiêm khắc này của Hòa Thượng ẩn chứa biết bao máu lệ xót xa?

Lòng từ bi chân thật và sâu xa nhất mà mọi người được thấy nơi Hòa thượng, đó là ngài

không chỉ nói suông. Ngài nhẫn nại hành trì những gì ngài đã nói, ngài đặt ra quy luật cho tín

chúng và tất cả đệ tử của ngài phải nhất nhất tuân theo và giữ gìn. Đó là tất cả của gia phong

Vạn Phật Thánh Thành. Như ý nghĩa trong câu “đản năng quang chiếu viễn, bất tích tự phần

thân”, Hòa Thượng chỉ muốn ánh sáng từ ngọn đuốc trên tay Ngài soi sáng đuợc càng xa

càng tốt, mà chẳng quan tâm đến việc mình bị phỏng! "Dầu gặp muôn vàn khó khăn, tôi

vẫn giữ vững ý chí của mình." Đây là lời mô tả chân thật nhất về Hòa Thượng.

Ăn Ngày Một Bữa Và Luôn Mặc Y Giới

Mọi người đều biết rằng "ăn ngày một bữa và đắp y giới" là gia phong mà Vạn Phật Thánh

Thành hành trì và được đặc biệt biết đến. Hòa Thượng đặc biệt tuyên bố rằng bất cứ người

nào xuất gia với Ngài cũng đều phải tuân thủ những quy định của Đức Phật: "Ngày ăn một

bữa lúc giữa trưa và luôn luôn mặc y giới." Và, cho dù Vạn Phật Thánh Thành có bị những kẻ

bên ngoài chỉ trích như thế nào đi nữa, ngay cả phỉ báng rằng Thánh Thành cố ý làm những

việc mới lạ để phô trương, thì Hòa Thượng vẫn không bao giờ vì thế mà thay đổi gia phong.

Đối với một loạt những lời phỉ báng, Hòa Thượng chỉ nói:

"Đây không phải là những quy luật do tôi đặt ra. Đây là quy luật của Phật.

Chúng ta cần phải tuân thủ quy luật của Phật."

Tuy vậy, đối với những đệ tử xuất gia tương đối lớn tuổi, Hòa Thượng đã phương tiện cho

phép họ ăn ba bữa mỗi ngày. Quy định này vẫn được giữ nguyên ngay cả trong lời di huấn

của Hòa Thượng trước khi Ngài nhập Niết Bàn, không hề sửa đổi. Chính Hòa Thượng đã

nói:

"Ngay cả trước khi tôi xuất gia, lúc còn là người tại gia, tôi đã ăn ngày một bữa.

Và từ khi tôi xuất gia đến nay, trải qua bao nhiêu năm trời, tôi vẫn chỉ ăn ngày

một bữa. Những người muốn xuất gia với tôi, người nào mà có thể ăn ngày một

bữa, thì tôi sẽ thâu nhận; nếu không thể ăn ngày một bữa, thì tôi sẽ không thâu

nhận. Đây là điều kiện thiết định cho những ai muốn xuất gia với tôi; dù dưới

bất cứ áp lực nào, do thời gian hay hoàn cảnh, đều không thay đổi."

Tại sao Hòa Thượng xem việc “ăn ngày một bữa" quan trọng như vậy ? Bởi vì, con người

"khi bụng no thân ấm, thì nghĩ về dâm dục". Càng no đủ, thì càng nhiều dục vọng. Vấn đề

này đã được thảo luận (Kinh Trường A Hàm, quyển 22, “Phẩm Ghi Chép Về Thế Giới: Nhân

Duyên Căn Bản Của Thế Giới”) và có ghi lại:

“Những chúng sanh cõi trời Quang Âm khi hết phước báo và bị đọa xuống nhân

gian, thì họ bắt đầu ăn cơm, thân thể trở nên thô kệch, xấu xí và mang tướng

nam, tướng nữ. Họ nhìn ngó lẫn nhau rồi sanh khởi dục niệm và họ đi đến nơi

kín đáo để làm hạnh bất tịnh."

Và, có câu thành ngữ Trung Hoa nói rằng: "Đồ ăn uống sanh ra nam nữ.” Điều này chứng

minh rằng dâm dục là từ sự ẩm thực quá lượng mà ra. Và nếu đó là việc "ăn phi thời," thì đó

là vấn đề phá giới.

Một số người xem vấn đề này như sau: "Hiện tại không phải là thời đại của Đức Phật và

chúng ta cũng không phải đang ở Ấn Độ; người Trung Hoa lại không phải là người Ấn Độ,

mà giới luật được đặt ra là ’tùy thời, tùy nơi, tùy người‘, như vậy những giới đó chỉ có thể áp

dụng cho những người ở tại Ấn Độ chứ không thích hợp cho người ở tại Trung Hoa."

Thật ra điều đó không đúng vì trong Phật Giáo, giới luật là một trong Tam Vô Lậu Học gồm

Giới, Định, Huệ, và tất cả đều đã được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Nếu

nói rằng Giới Học không thích hợp cho người Trung Hoa, như vậy có nghĩa là Định Học và

Huệ Học cũng không thích hợp cho người Trung Hoa hay sao? Thật là phi lý!

Không ăn phi thời là hạnh nguyện mà người xuất gia phải giữ và là điều kiện tiên quyết của

việc cạo đầu xuất gia. Hơn nữa, trong Bát Quan Trai Giới của người tại gia cũng có bao gồm

giới “không ăn phi thời". Do đó đây là vấn đề giới luật có được nghiêm trì hay không. Ngoại

trừ khi bị bệnh, không có lý luận nào có thể chấp nhận được.

Thêm nữa, trong Kinh Xứ Xứ có liệt kê năm loại phước đức có được do không ăn sau giờ

ngọ:

“1. Ít dục vọng (thiểu dâm);

2. Ít ngủ (thiểu thùy);

3. Tâm định (đắc nhất tâm);

4. Không bị vấn đề đầy hơi trong bụng (thiểu hạ phong);

5. Thân thể yên ổn và không bệnh (thân đắc an ổn diệc bất tác bịnh).”

Từ đó chúng ta có thể thấy rằng không ăn sau giờ ngọ thì có thể được phước. Ngoài ra

trong Luận Đại Tỳ-Bà-Sa cũng cho rằng:

“Không ăn sau giờ ngọ làm bớt ngủ mê, giảm đi vấn đề giữ thức ăn qua đêm,

giúp tâm dễ nhập Định, và do có những lợi ích như vậy, nên chỉ ăn vào lúc giữa

trưa.”

Trong Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn có nói:

"Lý do bốn mươi cái răng của Như Lai đều sạch, trắng và thẳng tắp là do sự

nghiêm ngặt tránh ăn phi thời mà Ngài đã thọ trì trong những kiếp trước."

Trong Kinh Tỳ-Ni Tam Muội có giải thích như sau:

"Buổi sáng là giờ chư thiên ăn, buổi trưa là chư Phật ăn, buổi chiều là súc sanh

ăn, và buổi tối là giờ quỷ thần ăn. Ngày nay, để tạo nhân duyên cho sự thoát ly

sáu nẻo và noi gương chư Phật ba đời, việc ăn vào lúc giữa trưa được xem là

đúng lúc để ăn (chánh thời)."

Vì thế, ngay thời bây giờ, tại Ấn Độ và các quốc gia mà ở đó Phật Giáo Nam Truyền thịnh

hành, giới điều không ăn sau ngọ của Đức Phật vẫn còn được thọ trì.

Nhưng tại quốc gia của tôi [Trung Hoa], hầu hết chư tăng Trung Hoa đã khai mở giới điều

này, họ gọi bữa ăn chiều là "thuốc" (dược thạch) và tùy ý thọ dụng.

Dược thạch (thuốc, đá), có nghĩa là họ xem bữa ăn tối như thuốc vậy. Hòa Thượng không

đồng ý chuyện này và ngài nói: Họ nói rằng đó chẳng qua chỉ là liều thuốc để trị bệnh mà

thôi! Đó gọi là ‘bịt tai ăn cắp chuông’. Đó chính là lừa mình, dối người. Bởi vì họ muốn ăn

tối, nên họ gọi thức ăn tối là ‘thuốc’!!! Đó là lừa gạt, dối người và tôi không thể đính chánh

lại được!"

Về ý nghĩa của chữ "dược thạch," trong quyển 18 của Huyền Ưng Âm Nghĩa có chép:

"Dược thạch (nghĩa thường: thuốc và đá) là thứ dùng để chữa bệnh. Người xưa

dùng đá làm kim châm, ngày nay thì người ta dùng sắt. Tất cả đều nhằm mục

đích chữa bệnh."

Trong quyển một của Phật Đình Sự Uyển, Phần La-Hán Dược Thạch, có nói rằng:

"Ăn thức ăn để chữa bệnh, và đó gọi là 'thuốc' (dược thạch) ".

Trong Thiền Lâm Tượng Khí, Phần Ẩm Đạm Môn, có nói như sau về dược thạch:

"Thuốc (dược thạch) là ẩn ngữ để chỉ món cháo dùng vào buổi tối. Bởi vì cháo

dùng vào buổi tối nhằm bồi bổ cơ thể và chữa bệnh tật để hành giả có thể tiến bộ

trong sự tu tập của mình, do đó gọi là thuốc (dược thạch)”.

Từ đó có thể thấy rằng danh từ "dược thạch" (thuốc) chỉ là một tên khác để chỉ "bữa ăn tối"

được Phật Giáo Trung Hoa phát minh ra mà thôi!.

Nói chung, mặc dầu Đức Phật, Đấng Thế Tôn, đã loại bỏ một số giới điều nhỏ trước khi nhập

Niết Bàn, nhưng giới không ăn phi thời thì không bỏ được. Quyển 15 của Kinh Tạp A

Hàm nói rằng:

"Khi người nào biết giảm thiểu ăn uống phi thời, người đó sẽ có được công đức của sự

đoạn trừ tham ái ngũ dục. Trong những đệ tử đa văn và thánh thiện có công đức giảm

thiểu tham lam, tôi chưa thấy một ai mà còn một kiết sử trong ngũ dục chưa đoạn trừ.

Dù chỉ còn một kiết sử, họ vẫn phải tái sanh lại thế gian này."

Giới không ăn phi thời chính là Phạm hạnh thanh tịnh. Làm sao hành giả muốn chấm dứt

sanh tử và rời khỏi nhà Tam Giới lại không lưu ý đến giới điều này?

Về vấn đề buộc phải luôn luôn đắp y giới, Hòa Thượng nghiêm khắc yêu cầu những người

xuất gia với Ngài phải luôn đắp y giới và không bao giờ để y giới rời thân (y bất ly thể). Hòa

Thượng nói:

“Nếu người xuất gia mà không mặc y giới, thì cũng giống như đã hoàn tục.

Người đó không khác gì kẻ thế tục. Mặc áo dài của Trung Hoa với cổ áo cong

cong (áo tràng) chưa đủ để chứng tỏ người đó là người xuất gia. Đừng nói là áo

tràng, ngay cả khi quý vị có mặc y giới, mà quý vị vẫn còn dám phá giới và làm

điều không thành thật suốt ngày, huống gì là nếu quý vị không mặc y giới!

Giới y là biểu tướng phân biệt của đệ tử của Phật. Chính bản thân Đức Phật cũng có ba y và

một bình bát, và Ngài luôn luôn đắp y.

Kinh Đại Bi có chép rằng:

"Ngay cả Sa Môn (tu sĩ Phật Giáo) trong tự tánh ô nhiễm hạnh Sa Môn, nếu họ

có tướng của Sa Môn và mặc áo cà sa, thì tất cả những người như họ -không có

ngoại lệ- sẽ được vào Niết Bàn giữa thời Phật Di Lặc và Phật Lâu-Chí".

Sau khi đọc những lời này từ các kinh sách, chúng ta có còn phản đối quy luật mặc y giới nữa

hay không? Hòa Thượng nói :

"Đúng sai cần gì cãi,

Thật giả lâu tự biết,

Kẻ trí thấy chân thật,

Kẻ ngu hành giả dối,

Kẻ tốt học Bồ tát,

Kẻ xấu dám mắng Phật,

Tâm Đại Bi bình đẳng,

Phổ độ chúng hữu tình."

Thuyết Pháp Giảng Kinh.

Hòa thượng bẩm sanh trí tuệ siêu việt, có trí nhớ phi trường, một lần đọc qua là nhớ mãi nên

trong suốt cuộc đời của ngài, việc giảng kinh thuyết pháp được ngài đặc biệt chú trọng và tận

tâm chỉ dạy cho hàng đệ tử của mình. Khi giảng kinh ngài thường không soạn sẵn hoặc cầm

bổn mà tùy theo thời điểm, tùy theo nhân sự, căn cơ để thuyết giảng. Với biện tài vô ngại, lời

lời thốt ra như nước chảy thao thao, chỗ nào cũng là Đạo, nghĩa lý viên dung khiến ai ai cũng

phải bội phục.

Kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh lớn và thâm áo của Phật giáo Đại thừa tuy nhiên khi H.T

thuyết giảng kinh này, ngài có thể nhắm mắt mà tụng lên Kinh văn, một chữ cũng không sai,

quả là điều chưa từng thấy. Kinh Lăng nghiêm, kinh Pháp Hoa ngài cũng thuộc lòng như vậy.

Hàng đệ tử ngài thì toàn là thanh niên trí thức với trình độ đại học, ai nấy đều hết sức kính

ngưỡng trước đức độ và kiến thức uyên bác của hòa thượng, ai ai cũng phải bội phục, năm

vóc sát đất.

Các kinh sách Hòa Thượng đã giảng trong suốt cuộc đời của Ngài được liệt kê tổng quát như

sau: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Kim Cang, Tâm

Kinh, Kinh Lục Tổ, Kinh Địa Tạng, Kinh A Di Đà, Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Bách Pháp

Minh Môn Luận, Kinh Di Giáo, Chứng Đạo Ca của Đại Sư Huyền Giác-- tất cả có hơn 30

loại khác nhau. Ngoài ra Hòa Thượng còn giải thích về hai lãnh vực triết học của Trung

Hoa: Tứ Thư và Kinh Dịch. Trong tất cả những kinh sách này có ba tác phẩm rất đặc biệt, ít

có người giảng giải, đó là: Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sơ Giải, Thủy Kính Hồi Thiên Lục,

và Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại Giải (chân dung của chư Tổ Phật Giáo qua lời giải thích

bằng ngôn ngữ dễ hiểu của thời đại ngày nay).

Loạt bài thuyết giảng Lăng Nghiêm Chú Cú Kệ Sơ Giải kéo dài tám

năm, từ 1979 đến 1987. Trong suốt lịch sử Phật Giáo, bài chú này

hiếm khi được giải thích. Chỉ có Đại Sư Tục Pháp của triều nhà

Thanh và Pháp Sư Bá Đình ở Từ Vân Tự tại Vũ Lâm là từng giảng

giải chú này. Pháp Sư Bá Đình nghiên cứu Mật Bộ và trước tác

bộ Lăng Nghiêm Kinh Quán Đảnh Sớ gồm hai mươi sáu quyển, dịch

từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa, và sau đó giải thích chi tiết về

mật chú này.

Trong Kinh và Chú của Phật Giáo, có "năm loại không phiên

dịch" (ngũ chủng bất phiên) bởi vì ngôn ngữ bí mật của chư Phật

khó cho hầu hết các vị thánh khác hiểu được, chứ đừng nói đến

người thường. Mặc dầu theo thông lệ là không dịch các bài chú

trong kinh, tuy nhiên người ta có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề

này. Một số người nghĩ rằng việc dịch ý nghĩa của các bài chú có thể mang lại hai mươi bốn

loại lợi ích. Vì vậy, khi Hòa Thượng có được bản Lăng Nghiêm Chú Sớ vào năm Dân Quốc

thứ 38 (1949), Ngài đã ghi lại:

“Tôi có được điều mà trước đó tôi chưa từng có. Tôi miệt mài nghiên cứu và có

được một cái nhìn về cảnh giới vi mật. Tôi luôn luôn mang sách theo bên mình

và không bao giờ xa rời.”

Ngài cũng nói:

"Để cho Chánh Pháp được trụ thế lâu dài và để chận đứng tà thuyết, mọi người

cần phải hiệp lực và thâm nhập đại định rốt ráo kiên cố."

Sau khi Hòa Thượng đến Hoa Kỳ, Ngài tuyên giảng Chú Lăng Nghiêm, dùng thể thơ bảy chữ

(thất ngôn tứ cú) để giải thích từng câu một của bài Chú Lăng Nghiêm dài 554 câu, và sau đó

chú giải theo ngôn ngữ thời nay. Đây thật là một kiệt tác "xưa nay chưa từng có", vô cùng

quý giá. Hòa Thượng nói:

"Dùng bốn câu kệ để giải thích từng câu chú trong bài thì không cách nào giải

thích trọn vẹn được, bởi vì diệu nghĩa trong đó thì vô cùng vô tận.

Bốn câu thơ chỉ đề cập đến ý nghĩa tổng quát - chỉ ném ra một miếng gạch, hy

vọng sẽ có người tìm ra được ngọc thạch ở trong đó. Bốn câu thơ có vẻ đơn giản,

nhưng xuất phát từ tâm tôi. Quý vị có thể nói đó là máu huyết của tôi, là mồ hôi

của tôi. Đây chắc chắn không phải là ‘tầm chương trích cú’, ăn cắp văn hoặc sao

chép lại của người khác!

Bây giờ tôi giải thích Chú Lăng Nghiêm cho quý vị, bài Chú mà trải qua trăm

ngàn vạn kiếp cũng chưa từng có ai giải thích. Thật ra, cũng không dễ gì mà giải

thích trọn vẹn được. Khi tôi giải thích chú này, tôi biết không có người nào trong

quý vị hiểu tôi nói gì. Ngay cả những người họ nghĩ là họ hiểu được, thật sự họ

cũng không hẳn đã hiểu được thấu đáo. Nhưng có thể mười năm, một trăm năm

hay một ngàn năm sau, sẽ có người đọc được những lời giải thích đơn giản này

và có được sự hiểu biết sâu xa."

Dưới đây là những lời khai thị của Hòa Thượng về Chú Lăng Nghiêm:

Chú Lăng Nghiêm

"Ảo diệu vô cùng thật khó sánh,

Kim cang mật ngữ từ bổn tánh,

Trong Chú Lăng Nghiêm đủ hiệu năng

Khai mở đường Ngũ nhãn Lục thông."

"Là Vua Kiên Cố trong các định

Trực tâm tu học đến Đạo Tràng

Thanh tịnh các nghiệp thân, khẩu, ý

Quét sạch vọng niệm tham, sân, si. "

"Lòng thành cảm ứng được hiện chứng,

Chuyên tâm thành tựu đại thần thông,

Đủ đức được gặp câu linh diệu,

Luôn luôn đừng quên việc xiển dương."

"Ngài A Nan đã chứng Sơ Quá, mà vẫn còn chịu nạn bởi người nữ, và Đức Phật phải

dùng Chú Lăng Nghiêm để cứu ngài. Huống gì trong trường hợp của người thường?

Nếu chúng ta không nương tựa vào Chú Lăng Nghiêm, làm sao chúng ta có thể chấm

dứt sanh tử được?"

"Hễ còn dù chỉ một người trên thế gian này biết tụng thuộc lòng Chú Lăng

Nghiêm thì yêu ma quỷ quái sẽ không dám xuất hiện công khai. Nhưng đến thời

điểm mà không còn ai tụng thuộc Chú Lăng Nghiêm được nữa thì yêu ma quỷ

quái sẽ công khai xuất hiện."

"Thật ra, bằng cách học Chú Lăng Nghiêm quý vị đã là hóa thân của Phật,

không chỉ là hóa thân mà là hóa thân Phật trên đảnh của Phật, hóa Phật trong

hóa Phật. Những đặc tính vi diệu của Chú Lăng nghiêm thật khó nghĩ bàn !"

Dưới đây là phần giới thiệu tác phẩm Thủy Kính Hồi Thiên Lục. Bộ sách này được Hòa

Thượng trước thuật trong bốn năm, từ năm 1985 đến năm 1989. Nội dung của bộ sách này là

những lời tán thán chư Phật, chư Bồ Tát, chư A La Hán, lịch đại cao tăng đại đức, các cư sĩ

tại gia; cùng những lời bình luận khách quan về các bậc đại đức, dị nhân, nguyên thủ, văn hào

… ở trong và ngoài nước từ xưa đến nay. Như Khổng Tử làm sách Xuân Thu, Hòa Thượng

vốn nặng lòng trung trinh ái quốc, muốn vãn hồi sự hỗn loạn của thời mạt thế, chúng ta có thể

phỏng theo câu nói của Khổng Tử mà than rằng: « Tri ngã giả, kỳ duy Thủy Kính hồ ! Tội

ngã giả, kỳ duy Thủy Kính hồ ! »

Có thể nói rằng Thủy Kính Hồi Thiên Lục chính là ‘nhất mạch tâm truyền’ từ Xuân Thu Bút

Sử, và cũng là sách ghi chép về nhân quả sống động, rõ rệt nhất của đời nay. Trong tác phẩm

này, trước tiên, Hòa Thượng giới thiệu sơ lược về cuộc đời của mỗi nhân vật, rồi dùng tám

câu thơ bốn chữ (bát cú tứ ngôn) để ca ngợi, và sau đó kết thúc bằng một bài thơ «hựu thuyết

kệ viết» (lại nói kệ rằng) theo thể thất ngôn. Bộ sách này xứng đáng để xem đi xem lại, có thể

giúp người đời hiểu biết về luật nhân quả, xét chuyện đã qua mà biết chuyện sẽ đến, và đoạn

ác tu thiện.

Trong bài tựa sách, Hòa Thượng đã viết :

“Chúng sanh khi tập điều thiện, dù được nắm tay đối mặt, ba lần răn năm lần

dạy, vẫn chưa chịu phụng hành; nhưng khi gặp ác duyên thì niệm niệm liền tăng

trưởng, tự biết rành rẽ mà chẳng cần ai vẽ bày. Những kẻ lầm đường lạc lối mà

biết quay lại, thật ít lắm thay! Do đó, mọi sự giống như ánh trăng đáy nước và

bóng hoa trong gương--chỉ có dáng dấp mà thật không hình hài. Đây chính gọi là

sự hy vọng việc không thể hy vọng, sự thành tựu việc không thể thành tựu. Bởi lẽ

đó nên viết Gương, Nước Về Trời (Thủy Kính Hồi Thiên) vậy”.

Bây giờ chúng tôi xin giới thiệu Phật Tổ Đạo Ảnh Bạch Thoại

Giải (Chân Dung Các Vị Tổ Phật Giáo Giải Thích Bằng Bạch Thoại).

Đây là công trình do Hòa Thượng giảng giải trong mười ba năm, trải

dài từ năm 1972 đến năm 1985, tổng cộng 346 tiêu đề. Những nhân vật

quan trọng được giới thiệu trong này như sau: Từ Đức Phật Thích Ca

Mâu Ni, sau khi “niêm hoa vi tiếu”, giơ cánh hoa trên tay và mỉm cười

truyền pháp cho Tôn Giả Ca Diếp; rồi Tôn Giả Ca Diếp truyền cho Nhị

Tổ là Tôn Giả A Nan, và tiếp tục như vậy cho đến vị tổ thứ hai mươi

tám là Thiền Sư Bồ Đề Đạt Ma, mới là người chính thức mang pháp

Thiền sang nước Trung Hoa và trở thành Sơ Tổ ở đất nước này (Đông

Độ Sơ Tổ).

Sự truyền thừa được tiếp tục giới thiệu cho đến vị tổ thứ ba mươi ba,

tức là vị tổ thứ sáu tại Trung Hoa (Đông Độ Lục Tổ)--Đại Sư Huệ Năng. Bấy giờ, "một hoa

nở năm cánh”; rồi Ngũ Gia (năm nhà) trở thành Thất Tông (bảy tông) -- Tông Pháp Nhãn,

Tông Tào Động, Tông Vân Môn, Tông Quy Ngưỡng, Tông Lâm Tế, cùng phái Hoàng Long

và phái Dương Kỳ; và thêm vào đó là nhánh Ngưu Đầu.

Các vị thánh tăng của hai nước đông [Đông Độ - Trung Hoa] và tây [Tây Độ - Ấn Độ], Tông

Thiên Thai, Tông Hoa Nghiêm, Tông Từ Ân, Tông Du Già, Luật Tông, Tông Liên Xã, và

mười vị đại cao tăng cận đại -tổng cộng là ba trăm ba mươi tám [338] vị cao tăng được giới

thiệu trong bộ sách này. Mỗi vị đều được tán thán bằng bài kệ theo thể thơ thất ngôn bát cú

(tám câu, mỗi câu có bảy chữ). Từ phần giới thiệu về Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ, tổ thứ sáu

của Tông Liên Xã, cho đến bậc cao tăng đương thời là Lão Hòa Thượng Quảng Khâm, Hoà

Thượng đều có thêm vào một bài thơ theo thể tứ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu có bốn chữ).

Có thể nói rằng tác phẩm này đã tường thuật về hành trạng của ba trăm ba mươi tám vị Tổ Sư

rất cặn kẽ.

Bởi vì nguyên bản được viết theo thể văn cổ điển của Trung Hoa, không có dấu ngắt câu, và

thêm vào đó là những "cảnh giới ngôn ngữ" của Thiền môn, nên lại càng khó hiểu hơn. Thật

khó mà thăm dò được cảnh giới bí ẩn thâm sâu của các vị đại đức thời xưa! Chỉ có thể nói là

"không thể nói ra được", và "chỉ người uống nước mới biết nước nóng hay lạnh" vậy.

Thật ra, việc Hòa Thượng giảng thuật bộ sách Phật Tổ Đạo Ảnh là do một đại nhân duyên.

Vào năm 1958, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi bộ sách này cho Hòa Thượng [Tuyên Hóa]

cùng với bức thư trong đó nói rằng:

"Thầy gởi cho con bộ Phật Tổ Đạo Ảnh mà Thầy đã hiệu đính trong nhiều năm

gần đây. Hãy đọc, và lưu giữ bộ sách này, và Thầy hy vọng con sẽ được lợi ích cho

mình, làm lợi ích cho người và trân quý Đạo."

Phật Tổ Đạo Ảnh

Thật sự vào ngày 9 tháng 4 năm 1956, Lão Hòa Thượng Hư Vân gởi phiếu điệp đến cho Hòa

Thượng, thông tin rằng Ngài [Hòa Thượng Tuyên Hóa] được truyền thừa làm tổ thứ chín của

dòng thiền Quy Ngưỡng. Trong thư nói rằng:

"Con là đệ tử đã thiết tha quan tâm đến Phật Pháp và sự tiếp nối huệ mạng của

chư Phật Tổ. Nay thuận theo hạnh nguyện của con, Thầy gởi cho con văn bản

Phật Tổ Nguyên Lưu để kế thừa Tổ mạch, với kỳ vọng Tổ Đạo nhờ đó mà được

trùng hưng, sự truyền thừa này sẽ bất tận."

Các đệ tử của ngài cho rằng, Hòa Thượng Tuyên Hóa đã làm hơn hai ngàn bài thơ và kệ

trong suốt cuộc đời Ngài. Mỗi bài kệ đều có vần điệu và thể hiện trí huệ Bát Nhã thâm sâu

của Hòa Thượng. Điều này đặc biệt đúng đối với những bài kệ giảng giải Chú Lăng Nghiêm

trước đây chưa từng có; chỉ có những người thật sự chứng nhập cảnh giới của Lăng Nghiêm

Đại Định mới có khả năng giải thích như vậy. Ngoài ra, sự giải thích của Hòa Thượng

về Phật Tổ Đạo Ảnh có lúc vượt ra ngoài sử liệu, khiến độc giả thắc mắc là có phải Hòa

Thượng có thần thông biết được tiền kiếp (Túc Mạng Thông) hay không ?

Hòa Thượng có lời thệ nguyện rằng: "Chỉ cần tôi còn một hơi thở, thì tôi còn giảng kinh

thuyết pháp!"; cho nên, Hòa Thượng trước thuật rất nhiều. Thêm vào đó, Hòa Thượng còn

nguyện "sẽ phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang mọi ngôn ngữ trên thế giới"; điều này có

thể nói là công đức vô lượng vô biên. Trước mắt, Tổng Hội Pháp Giới Phật Giáo đã phiên

dịch được hơn một trăm bộ kinh Phật và sách khai thị. Sau khi Hòa Thượng viên tịch, công

tác phiên dịch kinh điển không hề bị gián đoạn, chư đệ tử của Ngài vẫn tiếp tục lãnh đạo

chúng sanh, dẫn dắt họ từ trong bóng đêm tăm tối đến nơi quang minh sáng sủa, từ bờ bên

này sang đến cứu cánh Niết Bàn ở bờ bên kia !

Thủy Kính Hồi Thiên Lục

Suốt cuộc đời, Hòa Thượng dùng Sáu Đại Tông Chỉ: Không Tranh, Không Tham, Không

Mong Cầu, Không Ích Kỷ, Không Tự Lợi, và Không Nói Dối để giáo hóa chúng sanh (thật

ra đây chính là Năm Giới). Nhiều Phật tử không xem trọng những tông chỉ này, cho rằng

ngay cả đứa trẻ lên ba cũng có thể nói ra được. Như vậy còn cần nói thêm gì nữa ? Tuy nhiên,

tôi không biết Hòa Thượng đã nói bao nhiêu lần:

"Bất cứ thành tựu nào mà tôi có được trong cuộc đời đều là nhờ tuân theo Sáu

Đại Tông Chỉ. Bất cứ người nào muốn tu Đạo đều cần phải theo Sáu Đại Tông

Chỉ này."

Phải chăng Lão Tử từng nói:

"Đạo của ta dễ hiểu và dễ hành nhưng trong thiên hạ không có kẻ nào có thể

hiểu và có thể hành!"

Lão Tử còn nói:

"Thiên hạ đều nói Đạo của ta không thể thâm hiểu được, nhưng đó chỉ vì người

ta mới khám phá. Nếu họ làm quen lâu hơn, họ sẽ dò đến được cái vi tế của nó".

Hòa Thượng cũng từng nói:

"Đại đạo bình đẳng, ai cũng có thể lên đường dễ dàng."

Tu hành, về căn bản thì rất đơn giản: "Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa."Nhưng

người ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm "mật pháp" để tu hành.

Điều này thật sự làm cho con người càng hồ đồ thêm. Chúng ta không nhận thức được

rằng "sự bí mật nằm ngay bên cạnh chúng ta" hay sao? Nó nằm ngay trong việc theo

đuổi dục vọng vật chất và chấp trước của tâm phân biệt; nó nằm ngay ở sự chế ngự

nóng giận và từ chối nói dối. Đó là những "mật pháp" tức khắc; đó là Đạo!

Sáu Đại Tông Chỉ đó, đã được Hòa Thượng thể nghiệm trong suốt đời khổ hạnh; do chính

Ngài lập ra với hy vọng cống hiến điều thiện cho thế gian và giúp ích cho nhân loại. Nhưng

người ta không xem những tông chỉ đó là trọng yếu; có khi còn chế giễu. Đúng như Lão Tử

đã viết trong Chương 41:

"Khi bậc thượng nhân nghe được Đạo, họ đem thực hành. Khi kẻ phàm phu

nghe được Đạo, họ có khi chấp nhận có khi chối bỏ. Khi kẻ hạ nhân nghe được

Đạo, họ liền chế giễu. Đạo có thể tìm được trong việc không chế giễu và không tự

mãn."

Triết lý "không tranh" mà Hòa Thượng đã xiển dương trong suốt cuộc đời mình thì cũng

giống như sự "không tranh" của Lão Tử. Hòa Thượng thường đề cập bài thơ:

Tranh là tâm hơn thua,

Đi ngược lại với Đạo,

Tâm sanh ra bốn tướng,

Làm sao được Tam muội.?

Những người thật sự không tranh chấp thì không nóng giận. Họ đã đạt đến mức độ có thể tha

thứ và thật sự tha thứ. Hòa Thượng còn nói lên bài thơ nữa:

Việc việc buông thì dễ,

Tánh nóng khó sửa đổi.

Thật sự không nóng giận,

Tức có ngọc vô giá.

Lại không buộc lỗi người,

Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.

Phiền não không khởi nữa,

Sân hận không kiếm ta.

Thường luôn tìm lỗi người,

Khổ mình không thể dứt.

Ngoài Sáu Đại Tông Chỉ, Hòa Thượng còn có hai bài thơ đáng được chúng ta tín thọ và

phụng hành. Đó là:

Chân thật nhận lỗi mình,

Không bàn luận lỗi người,

Lỗi người là lỗi mình,

Đồng thể tức đại bi.

Hết thảy là khảo nghiệm,

Coi thử mình ra sao,

Ðối cảnh lầm không biết,

Phải luyện lại từ đầu.

Trong sách Luận Ngữ và Mạnh Tử, các thánh nhân đã dạy chúng ta rằng: “Khi sự việc

không theo ý mình thì chúng ta hãy xét lại chính mình. Ngoài ra, người quân tử thì tìm

lại bên trong mình; còn kẻ tiểu nhân thì nhìn vào người khác. Thêm nữa, khi người

quân tử phạm sai lầm thì tự nhận trách nhiệm; còn khi kẻ tiểu nhân phạm sai lầm thì

lại trách trời. (Tuân Tử). Sự hướng dẫn của Hòa Thượng cũng là quay trở lại và tìm trong

chính mình.

Đúng là có những lúc người ta phải kinh ngạc về hành động “thân giáo” của Hòa Thượng,

làm kinh ngạc các đệ tử khi sự việc xảy ra vào mùa xuân năm 1992 tại Vạn Phật Thánh

Thành. Trong buổi họp đó, Hòa Thượng khai thị rằng:

“Tôi đã đau lòng tự đánh mình. Tôi tự đánh tôi nhiều lần đến mức bất tỉnh. Bởi

vì tôi thiếu đức hạnh, nên các đệ tử do tôi dạy dỗ mới ra nông nỗi như thế này.

Nếu quý vị sám hối chân thật, thì bất cứ lỗi lầm nào quý vị đã gây nên, tôi đều

nguyện tự mình nhận lãnh tất cả. Nhưng nếu quý vị không nói lời chân thật, và

mong vào địa ngục sớm hơn một chút, thì tôi không có cách nào để cứu quý vị.

Hãy nói sự thật, hãy dùng tâm chân thật của quý vị để sám hối, thì tất cả tội báo

nghiệp chướng mà đáng lẽ quý vị phải thọ lãnh trong địa ngục, tôi sẽ nhận chịu

hết.”

Theo tôi biết, chưa có vị Thầy nào tự đánh mình vì đệ tử không hiếu thuận. Điều này thật vô

cùng đau lòng. Hòa Thượng đã áp dụng đạo lý "lỗi người là lỗi mình; đồng thể tức Đại Bi",

có thể nhìn là thấy ngay. Điều này đã được mô tả trong Phẩm 25 của Kinh Hoa Nghiêm:

“Tôi nên vì chúng sanh, chịu hết tất cả đau khổ của họ để họ có thể thoát được

vực thẳm của sanh tử vô tận. Tôi nên vì tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới và

trong tất cả các nẻo ác, mà chịu đựng tất cả các đau khổ của họ suốt đến kiếp vị

lai…

Tôi thà chính mình chịu khổ thay cho tất cả chúng sanh hơn là để cho chúng

sanh bị đọa vào địa ngục. Tôi thà chịu thế cho chúng sanh đang bị nguy nan

trong địa ngục, trong loài súc sanh, hoặc trong các xứ vua A Tu La, để tôi có thể

cứu chuộc các chúng sanh trong nẻo ác, giúp họ thoát ra và được giải thoát."

Sau Lễ Trà Tỳ của Hòa Thượng, hơn mười ngàn mẩu xá lợi được tìm thấy (có cả xá lợi hoa

và mười hai xá lợi răng), có đủ màu sắc, gồm trắng, nâu, xanh lá cây, xanh da trời, đen và

tím. Có nhiều xá lợi kết tủa thành hình trên xương, lóng lánh như ngọc thạch, rất hiếm thấy.

Điều nầy chứng tỏ rằng công đức của Hòa Thượng từ việc thuyết pháp kinh điển hơn mười

ngàn lần và suốt đời không bao giờ nói dối, quả thật là không thể nghĩ bàn vậy!

TÓM LẠI.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma, không quản ngại xa xôi đã đem Phật Pháp từ Ẩn Độ truyền đến Trung

Hoa, là nơi Phật Pháp được phát dương quảng đại. Hòa Thượng Tuyên Hóa đã sớm phát

nguyện mang Phật Pháp sang các nước ở Âu Châu và Mỹ Châu, hầu có thể tiếp dẫn càng

nhiều chúng sanh hữu duyên dong thuyền về bờ Trí Tuệ bên kia hơn nữa. Khi Hòa Thượng ở

Hoa Kỳ, Ngài phát ba đại nguyện:

1. Chú trọng luân lý đạo đức trong nền giáo dục, đề xướng việc giáo dục thiện

nguyện (nghĩa vụ giáo dục).

2. Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ, và thành lập Học Viện

Dịch Kinh.

3. Tạo thuận lợi trao đổi và đoàn kết giữa các truyền thống Phật Giáo Nguyên

Thủy và Đại Thừa; dung hợp Đại Thừa và Tiểu Thừa.

Hòa Thượng cho rằng giáo dục cũng quan trọng như hoằng pháp. Học sinh tại Vạn Phật

Thánh Thành phải học thuộc lòng "Quy Luật Học Sinh" (Đệ Tử Quy) và "Tam Tự Kinh".

Hòa Thượng có thể được xem như là người đầu tiên đề xướng việc giáo dục thiện nguyện tại

Tây Phương. Ngài tích cực tìm những giáo sư thiện nguyện để củng cố những tiêu chuẩn

cao thượng về học vấn cũng như đạo đức.

Phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang các ngôn ngữ trên thế giới chính là hạnh nguyện mà Hoà

Thượng đã lập khi xuất gia. Ngài có thể được xem là vị tăng thứ ba đã phát nguyện đem kinh

điển Phật Giáo chuyển dịch thành các ngôn ngữ của mọi quốc gia trên toàn thế giới, sau hai

Đại Sư Huyền Trang và Giám Chân.

Hơn 130 bộ sách đã được phiên dịch sang Anh ngữ, và công việc phiên dịch sang các ngôn

ngữ khác như tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt, tiếng Nam Dương… cũng đang

được tiến hành.

Hòa Thượng cũng nỗ lực để dung hợp các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại

Thừa. Hoà Thượng từng nói rằng:

“Các truyền thống Bắc tông và Nam tông đều nhằm mục đích giúp chúng sanh

phát Bồ Đề Tâm, chấm dứt sanh tử, xa lìa khổ não, đạt được an lạc. Do đó, các

truyền thống Bắc tông và Nam tông của Phật Giáo nên có sự cảm thông với nhau

và đoàn kết hợp nhất, xem cả hai đều là một. Đừng nên anh làm việc của anh và

tôi lo chuyện của tôi, vì như thế, sức mạnh của Phật Giáo sẽ bị phân tán.”

Cuối cùng chúng ta có thể thấy rằng, cuộc đời, sự nghiệp và giáo pháp của ngài là một tấm

gương sáng, một bài học quý báu, thực tiễn cho chúng ta học hỏi, soi lại với chính mình và

nương theo đó hành trì. Những điều ngài tu hành và thể nghiệm là những gì ngài nói ra, đi

thuyết giảng và sống làm gương trong suốt cuộc đời hoằng pháp của ngài. Đó là hạnh của Bồ

tát và chỉ có các Bồ tát mới làm được như vậy, như cuối cuộc đời của ngài không còn gì để

lại, thân xác ngài được thiêu xong và tro cốt ấy đưa lên khinh khí cầu rải khắp vào hư không.

“Từ hư không đến, trở về hư không” là câu nói bất hủ của ngài vào cuối đời khi ngài di chúc

lại.

Một ngày mùa đông tháng 2 tại Đức quốc.

Hạnh nguyện

Các tài liệu tham khảo và trích dẫn:

Khai thị 1,2,3,4,5,6.

Cuộc đời và sự nghiệp của H.T Tuyên Hóa.

Những Cống Hiến Của H.T Tuyên Hóa Đối Với Nền Phật Học.

Tuyên Hóa ngữ lục.

Tuyên Hóa pháp ngữ.

Hư Vân ngữ lục.

Vạn Phật Thánh Thành website: http://www.chuavanphat.org

http://www.drba.org